ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN 2
II. ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN VÀ GIÁO HUẤN XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI CÔNG GIÁO
Qua các thời đại có những người nam và những người nữ, sẵn sàng nghe tiếng gọi của Chúa Cha và được thúc đẩy bởi Chúa Thánh Thần, đã chọn cho mình con đường bước theo Đức Kitô, để tự hiến đời mình cho Ngài, với con tim không chia sẻ. Họ đã từ bỏ mọi sự như các tông đồ, để ở với Ngài và giống như Ngài, phục vụ Thiên Chúa và anh chị em đồng loại. Như thế họ góp phần vào việc biểu lộ mầu nhiệm, và sứ mạng của Giáo Hội bằng muôn vàn ân sủng, thuộc đời sống thiêng liêng và tông đồ mà Chúa Thánh Thần đã ban cho họ, nhờ đó họ góp phần vào việc canh tân xã hội.[19]
Với Giáo Huấn Xã Hội của mình, Giáo Hội tìm cách công bố Tin Mừng và làm cho Tin Mừng hiện diện trong hệ thống phức tạp các môi quan hệ xã hội. Không chỉ là làm sao đem Tin Mừng đến được với con người trong xã hội - con người là kẻ tiếp nhận Tin Mừng được công bố - mà còn làm sao cho xã hội được thấm nhuần Tin Mừng và được phong phú lên nhờ Tin Mừng.[20]
Giáo Huấn Xã Hội của Giáo Hội Công Giáo vừa bắt nguồn từ Kinh Thánh, vừa tích lũy những suy tư và kinh nghiệm của Giáo hội suốt dọc lịch sử, vừa trung thành với sứ vụ muôn thuở của Kitô giáo, vừa thích nghi và đổi mới không ngừng để trả lời cho những thách đố của mỗi thời đại. Hơn nữa thế kỷ vừa qua, Giáo Huấn Xã Hội của Giáo Hội Công Giáo đã chứng tỏ cho mọi người thấy rằng ước muốn đọc những dấu chỉ thời đại dưới ánh sang Tin Mừng và quyết tâm đối thoại với nhân loại hôm nay là một trong những mục tiêu của Hội Thánh trong thời hiện đại.[21]
Do đó, chúng ta nên nhớ lại những đặc điểm của ba loại ơn gọi mà Tông huấn Đời Thánh Hiến nói đến: “Bậc giáo dân, vì lẽ tính chất trần thế của ơn gọi của họ, phản ánh cách riêng mầu nhiệm ngôi Lời Nhập thể, trong mức độ Ngài là Khởi đầu và cùng đích của thế giới, nền tảng và là mức độ của giá trị của các vất thọ tạo. Các thừa tác vụ thánh thì có phận vụ là những hình ảnh sống động của Đức Kitô, Đấng là Thủ lãnh và Mục tử hướng dẫn dân Ngài trong thời gian “đã và còn chưa đến” này, khi người ta còn đang đợi việc ngài đến trong vinh quang. Còn đời sống thánh hiến thì được trao phó nhiệm vụ cho thấy Con Thiên Chúa Nhập thể chính là mục tiêu cánh chung mà mọi sự phải vươn tới, là sự rực rỡ mà mọi ánh sáng so với nó chỉ là mờ nhạt, là vẻ đẹp mà chỉ cần một mình nó đã là đủ để hoàn toàn thỏa mãn trái tim con người”.[22] Từ những lời trên, chúng ta có thể rút ra hai hệ quả có liên hệ với giáo huấn xã hội của Hội Thánh.
Hệ quả thứ nhất chính là “những trách nhiệm liên quan đến việc xây dựng, tổ chức và bước hoạt động của xã hội […] cách riêng thuộc về trách nhiệm của giới giáo dân, vì lý do điều kiện trần thế của ơn gọi của họ: qua các trách nhiệm đó, các người giáo dân đem giáo huấn xã hội vào hành động và hoàn tất sứ mệnh trần thế của Hội Thánh”.[23]
Hệ quả thứ hai liên quan đến hạt nhân của mối liên hệ này: đó là mối tương quan giữa đời thánh hiến và Giáo huấn xã hội công giáo xuất phát từ các mối dây liên kết hiện có giữa thực tại xã hội trong mỗi thời điểm của lịch sử và đích nhắm cánh chung. Những mối dây liên kết này thật rất chặt chẽ bởi lẽ chúng thuộc về chân lý toàn diện của con người, như giáo thuyết Kitô giáo đã dạy và kinh nghiệm của con người đã cho thấy. Xét về quan điểm giáo thuyết, chúng ta chỉ cần nhớ đến giáo huấn của Công Đồng Vatican II: cuộc sống trần thế có một sự giới hạn; tuy nhiên chúng ta biết được rằng Thiên Chúa chuẩn bị một nơi cư ngụ mới và một đất mới, trong đó sự công chính cư ngụ, và hạnh phúc của nó sẽ làm thỏa mãn cách dư tràn tất cả mọi khát vọng hòa bình nẩy sinh trong lòng con người. Tuy nhiên việc chờ đợi một đất mới không được phép làm yếu đi, mà trái lại nó phải kích thích mối quan tâm đến công việc có liên hệ đến trái đất hiện nay, nơi một cơ thể nhân loại mới tăng trưởng, một nhân loại cống hiến một hình ảnh báo trước tỏa bóng của một thế giới mới. Dù cho chúng ta vẫn còn phải phân biệt một cách chính xác giữa tiến bộ trần gian với sự phát triển của Nước Chúa Kitô, tuy nhiên một bước tiến bộ trần thế nêu ở trên, trong mức độ nó góp phần để sắp đặt một trật tự tốt hơn cho xã hội của con người, quả có một tầm mức quan trọng rất lớn cho Vương Quốc của Thiên Chúa.[24]
Ngay cả kinh nghiệm cụ thể cũng nêu rõ thực tại của các mối dây liên kết này; chúng ta có thể nhìn từ hai góc nhìn bổ sung cho nhau: một bên là tiêu cực, là những xáo trộn của xã hội xuất phát từ sự lơ là đối với chúng; còn bên kia là phía tích cực, tức là các hiệu năng có lợi của việc nhìn nhận chúng và thi hành chúng. Xét về phương diện tiêu cực, bằng chứng hiển nhiên của lịch sử và giáo huấn bền bỉ của Huấn Quyền cho thấy nền vô thần là một trong những hiện tượng nghiêm trong hơn cả của thời đại chúng ta, nó tạo nên những hậu quả nghiêm trọng nhất cho đời sống xã hội.[25] Một nền nhân học không biết đến sự mở ra cho siêu việt tính của nhân vị tất không nhận biết được yếu tố quan trọng nhất: đó là tinh thần. Khi điều đó xẩy ra, thì mọi sự tăng trưởng nhân bản và xã hội đều được phó thác cho tiến bộ kỹ thuật và đi đến kết cuộc là quay trở lại chống đối con người. Kết luận hiển nhiên nhất của nó chính là kế hoạch về một xã hội thực sự nhân bản phải phát xuất từ những giá trị siêu việt, để rồi đi xuống các giá trị xã hội và vật chất. Việc không chịu xây dựng xã hội theo cách thế như vậy tất sẽ kéo theo “những sự mất trật tự” hiển nhiên trong thế giới hiện tại: Nếu chúng ta bỏ Thiên Chúa ra bên ngoài, thì tất chỉ còn có quyền hành quá đáng, sự ép buộc conngười về mặt thể xác hoặc tinh vi hơn, dươi hình thức của các áp đặt hay giới hạn khác nhau về diện kinh tế – xã hội và về phương diện truyền thống. Điều này hiển nhiên trong lịch sử mới đây cũng như hiện tại: một khi các căn rễ tôn giáo của một nhóm bị đánh mất đi, thì các mối tương quan giữa các thành phần của nhóm trở thành căng thẳng và đầy bạo lực, bởi vì khi đó sức mạnh luân lý để mà hành động sẽ bị suy giảm hay phân tán mất. Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII đã nói như vậy: “Khía cạnh thê thảm đặc trưng của thời đại tân thời nằm ở trong nỗ lực phi lý muốn tái thiết lập một trật tự trần thế vững mạnh và phong phú trong khi không lý gì đến Thiên Chúa, Đấng là nền tảng độc nhất dựa trên đó họ mới có thể đứng vững; và muốn cử hành sự vĩ đại của con người bằng cách làm khô cạn nguồn mạch làm vọt trào lên và nuôi dưỡng chính sự vĩ đại của nó, nghĩa là bao có thể kìm hãm, hoặc nếu có thể tiêu diệt sự hít thở của con người vươn tới Thiên Chúa. Chẳng phải là kinh nghiệm của mỗi ngày tiếp tục chứng minh, giữa những sự vỡ mộng cay đắng nhất và không hiếm khi kể cả sự đổ máu nữa, tất cả những gì mà sách mặc khải đã nói: “Nếu Thiên Chúa không xây dựng nhà cửa, thì thợ nề làm việc cũng uổng công thôi” (Tv 126:1)”.[26] Các Đức Giáo Hoàng Phaolô VI,[27] Gioan Phaolô II,[28] và Benedicto XVI[29] cũng đều lên tiếng như vậy. Điều trên cắt nghĩa tại sao Huấn Quyền đã nhắc đi nhắc lại rằng, sự tách lìa giữa đức tin và cuộc sống hằng ngày chính là một trong những lầm lạc nghiêm trọng nhất của thế giới hiện nay.
Hệ quả lập tức của sự đánh mất cảm thức về Thiên Chúa chính là sự mất cảm thức về tội và tính cách tiêu cực của cuộc sống xã hội. Rõ ràng là bất chấp tiến bộ mà xã hội đã kinh nghiệm được, hoàn cảnh hiện tại thật rất xa với việc làm thỏa lòng mong ước: còn có hằng triệu những con người không có được cả đến những của điều căn bản, đang chịu đối xử tàn tệ, không được hưởng hòa bình và tự do xã hội sơ yếu nhất. Kết quả này chính là một hậu quả rất hợp lý của tội lỗi: “Tội của con người, tức là sự đoạn tuyệt của họ với Thiên Chúa, chính là lý lẽ tận căn của những thảm cảnh đánh dấu lịch sử của sự tự do”.[30] Chuyện là như vậy bởi vì sự rối loạn luân lý đưa đến sự mất trật tự về mặt nhân bản cũng như về mặt thể lý: Con người “trong khi từ chối kế hoạch tình yêu của Thiên Chúa, đã tự lừa dối chính mình, trở thành nô lệ của tội lỗi. Sụ tha hóa thứ nhất này sản sinh ra muôn vàn sự tha hóa khác. Lịch sử nhân loại, khởi sự từ những lúc khởi nguồn, đã làm chứng cho những bất hạnh và những sự đàn áp phát sinh từ trái tim con người, là kết quả của việc sử dụng sai trái sự tự do”.[31] Đàng khác, các tội cá nhân hướng đến việc thể chế hóa các “cơ cấu của tội lỗi”,[32]là những cái trong khi tác động sai trái tới hạnh kiểm của con người –tuy vẫn không lấy đi sự tự do của họ – trở thành nguồn mạch của các tội lỗi khác.[33] Cho nên căn rễ của các sự dữ của xã hội và cái tâm địa chấn của “vấn đề xã hội” chính là số lượng và sự nghiêm trọng của các tội thế gian.
Chắc chắn “tội lỗi” và “các cơ cấu tội lỗi” là những phạm trù không được thường xuyên áp dụng vào hoàn cảnh của thế giới hôm nay. Tuy nhiên, “chúng ta sẽ không dễ dàng hiểu được một cách sâu xa về thực tại diễn ra trước mắt chúng ta nếu không trao bao một cái tên cho cái căn rễ của những sự dữ đang làm khổ chúng ta”.[34] Hơn nữa môt sự chẩn đoán xã hội mà không lưu ý đến mầu nhiệm sự dữ tất yếu sẽ là một sự chẩn đoán hời hợt trong đó nhân loại đầy dẫy nỗi bất an, khốn đốn, nhưng lại chẳng biết được chuyện gì đã xẩy ra, thậm chí chẳng tìm ra được phương dược trị bệnh. Theo nghĩa đó, quan trọng là trong nỗ lực làm cho xã hội trở nên tốt lành hơn, chúng ta không được quên thực tại của tội lỗi và sự bất lực trong việc xây dựng một trật tự xã hội vững bền và xứng đáng với con người một khi mình sao nhãng những gí trị luân lý và những nhân đức có liên hệ đến chúng.[35] Một lý do nữa chính là “khi mình chẩn đoán cái dữ như vậy có nghĩa là mình nhận ra một cách chính xác trên bình diện hạnh kiểm của con người một hành trình mà mình phải theo đuổi để vượt thắng được nó”.[36]
Nếu bây giờ chúng ta chuyển sang quan điểm tích cực, chúng ta cần phải nhấn mạnh tới sự cần thiết là trật tự xã hội phải có một nền tảng vững chắc, để không trở thành con mồi cho những quan điểm hay thay đổi hay những trò chơi quyền lực: và chỉ có Thiên Chúa mới là nền tảng tuyệt đối đó.[37] Quả vậy, “chính mầu nhiệm Thiên Chúa, Tình yêu Ba ngôi, tạo thành nền tảng cho ý nghĩa và giá trị của con người, của xã hội và của hành động của con người trong thế giới, như đã được mặc khải và được thông ban cho nhân loại qua Đức Giêsu Kitô, trong Thần Khí của Ngài”.[38] Bởi thế, chúng ta phải tránh tách lìa, nhất là còn phải tránh đem đối lập giữa trật tự tôn giáo và trật tự xã hội, là những cái bao hàm lẫn nhau và cổ xúy cho nhau.[39] Trái lại, cần phải sống hài hòa với cả hai lãnh vực thuộc chân lý của con người: tức là mối liên hệ vô điều kiện cùng Thiên Chúa[40] và sự quan tâm đến đồng loại và thế giới là cái không bị hư vô hóa, trái lại còn được củng cố chắc chắn nhờ vào bình diện của sự tập trung vào Thiên Chúa, bởi lẽ có một sự liên kết bất khả phân “giữa mối liên hệ mà con người được gọi để có với Thiên Chúa và trách nhiệm đối với đồng loại, trong các hoàn cảnh cụ thể lịch sử”.[41]
Chúng ta có thể rút ra từ những gì đã nói đến là đời sống thánh hiến có một vai trò đáng kể trong việc xây dựng thế giới này. Công Đồng Vatican II đã nhắc nhở tới điều này: “Đừng có ai nghĩ rằng các tu sĩ với việc thánh hiến của họ trở thành xa lạ với con người hay vô ích trong xã hội trần thế. Bởi vì ngay cả khi họ không trực tiếp hiện diện bên cạnh những người dương thời của họ, thì họ vẫn còn hiện diện một cách thâm sâu hơn bằng sự dịu dàng của Chúa Kitô, và cùng với những người đó, họ cộng tác cách thiêng liêng, để cho việc xây dựng xã hội trần thế luôn luôn được đặt nền tảng trong Chúa, và được hướng đến Ngài, để cho những người đang xây dựng nó không làm việc luống công”.[42] Rốt cuộc, sự kết hiệp hài hòa và đúng theo phẩm trật giữa bình diện cánh chung và bình diện trần thế của cuộc sống Kitô hữu nêu rõ rằng lãnh vực thứ nhất của sự dấn thân xã hội của các người thánh hiến chính là làm cho thấy được xuyên qua đời sống của họ, cái thực tại cánh chung và kế hoạch đầy yêu thương của Thiên Chúa cho con người và cho thế giới. Đó sẽ là nhiệm vụ xã hội chính yếu của các người được thánh hiến, bởi như công đồng đã dạy, các công việc tông đồ sẽ không hữu hiệu nếu không được sinh động hóa bởi một sự canh tân thiêng liêng.[43]
III. ĐỌC CÁC DẤU CHỈ CỦA THỜI ĐẠI
“Những niềm vui và hy vọng, những buồn đau và lo lắng của con người hôm nay, nhất là của những người nghèo và của tất cả những ai đau khổ, cũng chính là những niềm vui và hy vọng, những nỗi sâu buồn và âu lo của các môn đệ Đức Kitô, và không có bất cứ cái gì thuộc về con người một cách chân chính mà lại không có vang âm trong cõi lòng của họ”.[44]
Đây có lẽ là một vài lời trong số những lời được nêu lên nhiều nhất của Công Đồng Vatican II, và đó là lời khai đề của Hiến chế mục vụ về Hội Thánh trong thế giới hiện tại.
Và số 4 của Hiến chế này còn tiếp tục: “… Và bổn phận còn đó mãi của Hội Thánh chính là tìm hiểu các dấu chỉ của các thời đại và cắt nghĩa chúng trong ánh sáng của Tin Mừng, để sao cho thích hợp với mỗi thời đại, Hội Thánh có thể đáp ứng được cho các câu hỏi luôn tồn tại của con người về ý nghĩa của đời sống hiện tại và tương lai và về mối tương quan lẫn nhau giữa chúng. Quả thực cần phải biết và hiểu thế giới trong đó chúng ta sống, các nỗi mong chờ, các khát vọng và tính chất bi kịch của nó. Đó chính là cách thức để có thể phác họa ra các đặc tính nổi bật của thế giới hiện tại”.[45]
Chúng ta phải luôn nhắc nhở lại trong trí nhớ (khơi dậy lại, gợi lại trong đáy lòng, trong con tim) rằng yếu tố thiết yếu của hành trình Kitô hữu chính là khả năng bền bỉ biết thăm dò các dấu chỉ của các thời đại và cảm nghiệm chúng trong ánh sáng của Tin Mừng.
Nếu đây là chuyện đúng cho mọi người đã được rửa tội, thì lại càng đúng cách đặc biệt cho những ai đã tuyên khấn muốn đi theo sát hơn Đấng Kitô chịu đóng đanh và sống lại khiết tịnh, nghèo khó và vâng phục. Như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nhắc nhở trong Tông huấn Đời Sống Thánh Hiến: “Trên hết một đời sống thánh hiến cần phải để cho nó liên tục bị chất vấn bởi Lời Thiên Chúa đã được mặc khải và bởi các dấu chỉ của các thời đại…Việc Truyền bá Tin Mừng mới đòi hỏi các người được thánh hiến nam nữ một ý thức đầy đủ về ý nghĩa thần học của các thách đố của thời đại chúng ta. Những thách đố này phải được đem ra xét nghiệm với một sự biện phân chăm chú và tập thể, nhằm canh tân sứ mạng”.[46]
Thật vậy, chính các biến cố của cuộc sống đánh dấu một thời đại nhất định của lịch sử; xuyên qua những biến cố này, người Kitô hữu, nhất là người Kitô hữu thánh hiến, cảm thấy mình được chất vấn bởi Thiên Chúa và được gọi cống hiến một sự đáp trả Tin Mừng. Chúng ta phải để cho mình bị chất vấn bởi các dấu chỉ của các thời đại, bị đánh động, và bị làm cho bất an…
“Có biết bao các nhu cầu khẩn thiết! Nạn đói, bệnh tật, nạn thất nghiệp, những bất an đủ loại. Có biết bao nhiêu những vết thương: những bất công, sự thiếu dân chủ và tự do, sự thiếu văn hóa. Hơn thế: các trẻ thơ là nạn nhân của bạo lực và của các sự đàn áp, các phụ nữ thiếu các quyền bình đẳng của thế giới trong cảnh không thể chịu nổi. Chính cuộc sống quá thường xuyên trở thành nhàm chán, tầm thường, khiến cho chúng ta phải sáng tạo ra các kiểu nói “dễ nghe” để có thể biến chúng thành những vùng có thể làm an ổn những nỗi day dứt của lương tâm chúng ta: thế nên ngày nay người ta nói đến “điều hòa kinh nguyệt” và “cái chết êm dịu” như thể bằng cách ấy họ làm cho con người thoát được cái ách đè nặng của sự thánh thiêng của sự sống và của nhân vị con người mà con người vi phạm. Thế nhưng đó chính là những cái chết của thai nhi, của người già được hoạch định và được thi hành một cách bi thảm!
Thế rồi thế giới của chúng ta liên tục bị thách thức bởi một sự thờ ơ ngày càng gia tăng đối với những đau khổ. Chúng ta đã trở nên quá quen nhìn những nỗi đau khổ, bệnh tật và nạn đói khiến cho chúng ta ngày nay vẫn có thể đi cách lạnh lùng ngay bên cạnh một hoàn cảnh ghê gớm nhất trong các hoàn cảnh mà không hề nháy mắt. Chúng ta đã trở thành quen đi với việc ngắm những tòa nhà chọc trời xừng xững đứng bên cạnh các khu ổ chuột bi thảm. Nền văn hóa đương thời của chúng ta đầy dẫy những ví dụ như thế. Ngày nay các phương tiện truyền thông trực tiếp đem tới nhà chúng ta những cảnh rùng rợn của chiến tranh và bạo lực, của đói khổ và nghèo nàn, của bệnh tật và bất ổn, các hình ảnh của những thảm họa tự nhiên như lụt lội và động đất. Chúng ta đang gặp nguy cơ bị mắc bẫy vào một nền văn hóa bị cai quản bởi sự thụ động, không có hoạt động và hờ hững. Thay vì là những người hành động, chúng ta chỉ còn là những kẻ bàng quang đứng nhìn”.[47]
IV. DẤN THÂN CHO CÔNG LÝ VÀ HÒA BÌNH: CÔNG BỐ TIN MỪNG
Trong một thế giới đầy dẫy những bất công và nghèo đói, các tu sĩ được mời gọi dấn thân loan báo Tin Mừng và làm việc không ngừng cho công lý và hoà bình để thăng tiến phẩm giá của những người nghèo khổ, kém may mắn. việc noi gương Chúa Giêsu yêu thương và phục vụ sẽ là nguồn an ủi lớn lao cho mọi người, nhất là những người đang phải chịu nghịch cảnh trong cuộc sống và cổ vũ một nền hoà bình và công lý cho xã hội hôm nay, trước hết là mang khuôn mặt yêu thương của Chúa Kitô đến với mọi người.[48]
Sự dấn thân cho công lý và hòa bình nhất thiết gắn liền với việc công bố Tin Mừng, không chỉ trong tư thế ‘của việc tiền loan báo Tin Mừng’, mà còn là chiều kích nền tảng của đời sống của mỗi Kitô hữu.[49] Vì sự hiện diện và dấn thân trong mọi lãnh vực cuộc sống của Giáo Hội và xã hội, các người thánh hiến xứng đáng với lòng biết ơn của cộng đồng Giáo Hội. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II diễn tả lòng biết ơn đó khi cầu nguyện với Thiên Chúa như sau: “Chúng con tạ ơn Cha vì món quà đời sống thánh hiến. Họ hằng tìm kiếm Cha trong đức tin và mời gọi mọi người đến gần Cha, nhờ sứ mạng của họ trên khắp hoàn vũ”.
Đức nguyên Giáo Hoàng Benedicto XVI cũng chia sẻ tư tưởng ấy khi nói về ba mục đích của Ngày thế giới Đời sống Thánh Hiến 2010: “Ca tụng và tạ ơn Chúa về ân huệ đời sống thánh hiến; Thăng tiến sự hiểu biết và lòng quý trọng của Dân Chúa đối với đời sống thánh hiến; Mời gọi những ai hiến dâng cuộc đời cho Tin Mừng cử hành những điều kỳ diệu Chúa đã làm nơi mình. Cha chào đón và cám ơn từng người các con với một niềm yêu thương lớn lao, Cha thân ái gần gũi và tán dương những điều tốt lành các con đã phục vụ Dân Chúa”.
Thông điệp “Thiên Chúa là tình yêu” còn khẳng định: “Bản chất thâm sâu của Giáo Hội được diễn tả trong ba nhiệm vụ: loan báo Lời Thiên Chúa, việc cử hành các Bí tích, và việc phục vụ của đức ái. Đó là những nhiệm vụ tương quan lien đới cần thiết và không có thể tách rời khỏi nhau. Đối với Hội Thánh, Đức Ái không chỉ là một loại hoạt động cứu trợ xã hội mà ta có thể đẩy sang cho người khác, mà thuộc về chính bản chất của Hội Thánh, là biểu hiện không thể từ bỏ được của chính yếu tính của Hội Thánh”.[50] Ngài cũng nêu bật rất nhiều những gương sống của các dòng tu đã được thiết lập vào thế kỷ XIX để bước vào mặt trận chống sự nghèo khó, bệnh tật và những hoàn cảnh thiếu thốn trên lãnh vực giáo dục và phát triển cuộc sống.[51]
Chúng ta trải qua một cảm nghiệm sâu sắc với những thăng trầm kể từ Sắc lệnh “Đức Ái Hoàn Hảo” của Vatican II, tại đó hạn từ “công lý” không được nói tới, cho đến ngày hôm nay. Theo hướng này, sợi dây liên kết chặt chẽ giữa đời sống tu sĩ và hoạt động cho công lý và hòa bình đã được nhấn mạnh đến trong Tóm lược giáo huấn xã hội công giáo: “Ơn tận hiến bản thân của các tu sĩ cũng được đề ra cho suy tư chung như là dấu chỉ đặc trưng và ngôn sứ của Giáo huấn xã hội, xuyên qua việc người tu sĩ đặt mình hoàn toàn vào trong việc phục vụ mầu nhiệm đức ái của Chúa Kitô đối với loài người và đối với thế giới. Các tu sĩ thi hành và tỏ lộ ra trong đời sống của họ một vài nét của nhân loại mới mà Giáo huấn xã hội muốn khích lệ”.[52]
Đời sống thánh hiến nơi các tu sĩ sẽ ý nghĩa hơn khi họ biết sống đúng bình diện thiêng liêng bằng hoạt động cho Công lý một cách sâu xa hơn nhiều so với các nhóm khác. Về điểm này tài liệu Khởi sự lại từ Đức Kitô quả quyết như sau: “Một cuộc sống được biến đổi hình dạng bởi các lời khuyên Phúc âm tất nhiên trở thành chứng tá ngôn sứ và thinh lặng, và đồng thời cũng là một dấu chứng phản hồi hùng hồn chống lại một thế giới bất nhân. Cuộc sống như vậy dấn mình thăng hoa cho con người và làm thức tỉnh một ý thức phong phú hơn trong việc thể hiện đức ái. Sự việc này biểu lộ ra không chỉ trong sự hữu hiệu của việc phục vụ, mà nhất là trong khả năng biến bản thân mình nên liên đới với những ai phải chịu đau khổ, nhờ thế mà cử chỉ giúp đỡ được cảm nhận như là một sự đồng chia sẻ huynh đệ. Hình thức thông truyền Tin Mừng này vốn được thực hiện xuyên qua tình yêu và sự tận tụy hy sinh trong các công việc, đảm bảo một chứng tá sáng ngời cho đức ái diễn tả không chỉ bằng lời lẽ mà bằng chính đời sống chứng nhân Tin Mừng”.[53]
Sứ mạng trước hết chính là việc phục vụ cho phẩn giá của con người trong một xã hội đã bị biến thành vô nhân, bởi lẽ sự nghèo khó thứ nhất và nghiêm trọng nhất của thời đại chúng ta chính là việc chà đạp lên các quyền con người bởi cả một sự dửng dưng. Với năng động lực của đức ái, của tha thứ, của hòa giải, các người thánh hiến nam hay nữ cùng với tất cả các thành phần của cộng đồng Hội Thánh, đều được gọi xây dựng một thế giới trong công bình, đủ khả năng cống hiến những khả thể mới và tốt đẹp hơn cho sự sống và cho sự phát triển của con người.[54]
Các tin khác