CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO GIÁO DÂN
KHÓA IIB: TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN THỰC HÀNH
ĐỀ TÀI III
ĐỐI TƯỢNG TRUYỀN GIÁO
CỦA TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN VIỆT NAM NÓI CHUNG
& CỦA TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN GIÁO XỨ ……… NÓI RIÊNG
I. XÁC ĐỊNH MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài III này nhắm hai mục đích là giúp các học viên (1o) Nhận rõ các đối tượng của Công Cuộc Truyền giáo của Giáo hội Việt Nam nói chung và (2o) Xác định được các đối tượng Truyền giáo của giáo xứ mình nói riêng, để mọi người tập trung nỗ lực vào việc phục vụ các đối tượng này một cách cụ thể và thiết thực.
II. PHẦN HỌC HỎI QUA SỰ TRÌNH BÀY CỦA HƯỚNG DẪN VIÊN (45 phút).
2.1 Ba loại đối tượng của việc truyền giáo -theo nghĩa rộng- của Giáo hội Công giáo ngày nay.
“Trước hết đó là tình trạng mà hoạt động truyền giáo của Giáo hội nhắm tới: các dân tộc, các khu dân cư, các nhóm người, các bối cảnh văn hóa xã hội chưa biết tới Đức Giê-su Ki-tô và Tin Mừng của Người. Hoặc đó là những nơi không có các cộng đồng Ki-tô hữu đủ vững mạnh để có thể hội nhập đức tin vào môi trường của mình và loan báo đức tin cho những nhóm người kháx. Đó là “sứ vụ đến với muôn dân” đúng nghĩa.
“Tiếp đến có những cộng đoàn Ki-tô hữu có một cơ cấu vững mạnh và thích ứng được về đức tin và đời sống nhiệt thành. Những cộng đoàn này làm chứng cho Tin Mừng một cách rạng rỡ trong môi trường của mình. Họ ý thức về nghĩa vụ truyền giáo phổ quát. Trong các công đoàn này có các hoạt động mục vụ của Giáo hội.
“Sau hết là một tình trạng ở giữa hai tình trạng trên: đôi khi ở ngay tại các quốc gia có truyền thống Ki-tô giáo kỳ cựu, đôi khi tại các Giáo hội trẻ trung hơn: Có người hay có cả từng nhóm người đã lãnh nhận bí tích Rửa tội, nhưng lại đánh mất cảm thức về một đức tin sống động, hoặc đi đến chỗ không còn nhìn nhận mình là một phần tử của Giáo hội nữa. Họ sống xa rời Đức Giê-su Ki-tô và Tin Mừng của Người. Trong trường hợp này, cần phải có “một cuộc loan báo Tin Mừng mới” (Gio-an Phao-lô II, Tông huấn “Sứ vụ Đấng Cứu Độ”, 33).
Vậy thì việc Truyền giáo của Giáo hội Công giáo phải nhắm vào 3 loại đối tượng sau:
* Đối tượng 1: Những người chưa biết, chưa tin Đức Giê-su Ki-tô (Hoạt động truyền giáo, theo nghĩa hẹp).
* Đối tượng 2: Những người tin Đức Giê-su Ki-tô và đã được rửa tội (Hoạt động mục vụ).
* Đố tượng 3: Những người đã tin Đức Giê-su Ki-tô và đã nhận bí tích rửa tội nhưng đã đánh mất niềm tin, rời bỏ Giáo hội, sống như người lương dân (Hoạt động tái truyền giáo).
2.2 Đối tượng của việc truyền Giáo - theo nghĩa hẹp - của Giáo hội Công giáo Việt Nam ngày nay.
(1) Đối tượng của việc truyền giáo -theo nghĩa hẹp- của Giáo hội Việt Nam ngày nay là tất cả mọi người Việt Nam không Công giáo, không phân biệt có tín ngưỡng hay không có tín ngường (thậm chí cả những người vô thần); cũng không phân biệt giầu nghèo, sang hèn, sắc tộc, ngôn ngữ, trình độ văn hóa, khuynh hướng hay đoàn thể chính trị.
(2) Trong các đối tượng của việc truyền giáo -theo nghĩa hẹp- của Giáo hội Việt Nam ngày nay, chúng ta phải đặc biệt quan tâm đến một số đối tượng mà chúng ta gọi là đối tượng ưu tiên, hoặc vì những người ấy ở cận kề chúng ta, hoặc vì những người ấy cần đến chúng ta hơn những người khác.
(3) Cụ thể đó là những người nghèo của thời nay. Chúng ta có thể kể ra một vài dạng người nghèo này như sau:
* Người nghèo ở vùng sâu, vùng xa,
* Đồng bào các dân tộc thiểu số,
* Những người sống trong nhà dưỡng lão hay bị bỏ rơi, không nơi nương tựa,
* Trẻ em của các lớp học tình thương,
* Trẻ em khuyết tật và người tàng tật,
* Bệnh nhân nghèo của các phòng khám từ thiện,
* Bệnh nhân phong, AIDS-HIV,
* Những người được giáo dục để cải hóa trong các trung tâm xã hội: cai nghiện, mãi dâm, trộm cướp, lừa gạt…
2.3 Đối tượng ưu tiên của việc truyền Giáo của Giáo hội Công giáo Việt Nam ngày nay.
(1) Những người bị rơi xuống đáy xã hội: bụi đời, mãi dâm, nghiện ma túy, bệnh nhân AIDS, v.v…: Từ ngày xã hội ta mở cửa theo nền kinh tế thị trường, các tệ nạn xã hội như có đất để phát triển, hủy hoại bao cuộc đời và làm ô nghiễm bầu khí đạo đức của xã hội và đe dọa tương lai của dân tộc. Thực tế cho thấy từ bụi đời, đến mãi dâm, đến ma túy và cuối cùng là AIDS có nhiều liên hệ chằng chịt và rất khó phá vỡ. Dù do bất kỳ nguyên nhân nào dẫn tới các tệ nạn kể trên, các nạn nhân vẫn là những người đáng thương nhất, đáng được chúng ta thương yêu, giúp đỡ nhất.
(2) Những người đang cần và đang tìm đức tin: Trong số này phải kể đến: anh chị em các dân tộc thiểu số; các bạn trẻ, sinh viên, học sinh; những người có gốc công giáo, nhưng đã nhạt đức tin; những người có thành kiến, ác cảm hoặc lãnh đạm với đạo, nhưng sau đổi ý; nạn nhân của các gia đình tan vỡ.
(a) Anh chị em các dân tộc thiểu số:
“Đang có một phong trào đón nhận đức tin rất mạnh nơi các dân tộc thiểu số. Đồng bào thiểu số có thể xếp vào hạng người nghèo nhất trong số các người nghèo. Phải chăng vì thế mà họ là những người được Thiên Chúa ưu đãi? Quả thế, những ai đã sống với đồng bào Thượng trên Tây Nguyện chẳng hạn, đều có ấn tượng đậm nét về đức tin, về sự cầu nguyện hồn nhiên, sâu sắc của họ cũng như về nhiệt tình làm việc tông đồ. Họ không vướng bận về mặt hình thức như nhiều tín hữu người Kinh. Họ chỉ có tấm lòng chân thành. Và ơn Chúa sinh hoa kết quả lạ lùng
“Phải nói rằng con đường đến với đức tin của đồng bào các dân tộc ít người miền Bắc gặp nhiều trắc trở hơn các sắc tộc phía Nam. Trong khi ở phía Nam đã có những thừa sai rải rác trên cao nguyên, một mặt sống nghèo với người nghèo, một mặt giúp thăng tiến phần nào cuộc sống của đồng bào về vật chất lẫn tinh thần, biết tiếng nói và văn hóa dân tộc và tạo nên những cộng đoàn sinh động, thì ở phía Bắc đang thiếu nhân sự trầm trọng, cộng thêm với những khó khăn do địa phương còn tinh thần hẹp hòi, đến độ lo ngại rằng sau một hồi rộ lên, khí thế đến với Tin Mừng có thể suy yếu vì thiếu năng đỡ và hướng dẫn. Cần gấp rút gây dựng một lớp tông đồ giáo dân có khả năng tiếp cận và hòa mình với đồng bào. Tình hình chính trị có những bất ổn, nhưng không thể vì vậy mà buông lơi sứ mạng loan báo Tin Mừng.” (Lm Vũ Khởi Phụng, DCCT, bài “linh mục con nợ đặc biệt của người nghèo và người yếu đuối”, trong cuốn BỐN MƯƠI NĂM SAU VATICAN HAI NHÌN LẠI, trang 62-63)
(b) Các bạn trẻ, sinh viên, học sinh:
“… bất chấp hoặc chính vì những trở ngại, đang có nhiều người thao thức đi tìm những giá trị tâm linh, trong số này có nhiều người trẻ. Họ nhậy cảm với tình bạn, tình yêu thương, sự chân thành, tinh thần hướng thượng. Từ đó họ dễ cảm nhận Chúa. Khi đã có đức tin, họ đại độ dâng hiến những khả năng tâm trí của mình cho cộng đoàn tín hữu.
“Thường thường các bạn này phát hiện Giáo hội qua các bạn cùng trang lứa có đạo. Vì vậy cần có những cộng đoàn trẻ năng động, biết diễn tả đức tin của mình, có lòng mến, biết sáng tạo và làm chứng cho Chúa.
“…. Họ cần được lắng nghe, thông cảm với những vấn đề và nỗi niềm của họ, giống như những người bạn có thể tâm sự. Thật sự nhiều khi họ rất muốn tìm hiểu về đạo, nhưng lại ngại ngùng vì còn xa lạ….Sụ tiếp xúc trực tiếp là rất quan trọng. Chúng ta cần những thừa sai truyền đạo không chỉ ở những vùng núi rừng xa xôi, mà ngay giữa lòng thành phố, và đặc biệt giữa những người trẻ…”(sách đã dẫn, trang 63-64).
(c) Những người có gốc Công giáo, nhưng đã nhạt đức tin:
“Thành phần này cũng không ít, có ở khắp nơi, nhưng đặc biệt ở phía Bắc. Đức tin đã phai nhạt lâu trước khi họ ngưng đến nhà thờ. Cũng có khi ngừng đi nhà thờ do những bất bình có thể có lý (với các cha chẳng hạn), rồi lâu năm trở nên xa lạ với nhà Chúa. Cũng có thể họ là nạn nhân của một thời đặc biệt khó khăn đối với Giáo hội, nhà thờ vắng vẻ, linh mục cũng vắng luôn, sự đạo thu hẹp lại thành một mớ hình thức mà người ngày nay không hiểu được. Tóm lại, do thiếu hiểu biết, do hiểu lầm, do hoàn cảnh, đã lâu họ coi mình như không có đạo nữa.
“Đức tin có thể sống lại khi cha mẹ già đau ốm đòi mời linh mục đến nhà cử hành các bí tích, hoặc trong một lễ tang, một lễ cưới. Lễ tang và lễ cưới là những dịp rất tốt để rao giảng Tin Mừng. Có nhiều người chỉ có cơ hội tiếp xúc với Giáo hội nhân các lễ nghi đó…”(sđd, trang 64-65).
(d) Những người có thành kiến, ác cảm hoặc lãnh đạm với đạo, nhưng sau đổi ý:
“Trong một hoàn cảnh nhất định nào đấy về chính trị, lịch sử, xã hội, văn hóa, có nhiều ngộ nhận đối với đạo. Hoặc người ta nghĩ rằng hãy gạt chuyện tôn giáo qua một bên, để lo những chuyện phải đấu tranh trước mắt. Nhưng đến một lúc, có lẽ là đã từng trải, đã đứng tuổi, đã về hưu người ta lại nhận ra tất cả các hoạt động của mình đều có những giới hạn, nếu không có một cõi siêu việt. Nếu lúc ấy họ gặp được những tín hữu hoặc một linh mục hiểu biết, cởi mở không thành kiến, có lòng đạo chân chính, thì họ sẵn lòng đến với Chúa”(sđd, trang 65).
(đ) Nạn nhân của các gia đình tan vỡ:
“Các cặp vợ chồng mà đời sống gia đình trục trặc vướng mắc vào rất nhiều khó khăn và mặc cảm. Đối với người Công giáo, sau khi đã thất bại, nếu họ “làm lại cuộc đời” thì có phần nào cảm thấy như mình bị gạt ra bên lề Giáo hội vì không được chịu các bí tích. Người nào không có lỗi trong sự đổ vỡ hôn nhân mà chỉ là nạn nhân của sự phụ bạc có cảm giác như mình bị thua thiệt bất công nếu sống đúng luật Giáo hội. Nếu có Đức tin mạnh, đời sống cầu nguyện thâm sâu thì có thể khắc phục cảm giác ấy, nhưng vẫn bị nó ám ảnh dai dẳng” (sđd, trang 65-66).
Về mục vụ cho những trường hợp ly dị tái hôn, nhiều Giáo hội đang nghiên cứu, thử nghiệm để tìm ra phương cách tốt nhất nhằm nâng đỡ những người lâm vào cảnh này, vì nếu chỉ áp dụng luật một cách máy móc cứng nhắc thì cũng không giúp gì được cho những người thực sự thành tâm thiện chí muốn gắn bó với Giáo hội.
III. PHẦN TRAO ĐỔI NHÓM NHỎ CỦA HỌC VIÊN (45 phút).
Sau khi nghe trình bày về đối tượng truyền giáo của Giáo hội Công giáo (hay tông đồ giáo dân) nói chung và của Giáo hội Công giáo (hay tông đồ giáo dân) Việt Nam nói riêng,
1. Anh chị hãy cùng nhau bàn thảo để xác định những hạng người nào đáng được xem là “đối tượng ưu tiên và riêng biệt” trong việc Truyền giáo của Giáo xứ của mình?
2. Theo anh chị, thì giáo xứ của các anh chị và các anh chị phải làm gì cho từng đối tượng trên?
3. Làm thế nào để giáo xứ và các anh chị thực hiện được những việc ấy?
IV. PHẦN ĐÚC KẾT CỦA CẢ LỚP HỌC (30 phút).
1. Đối tượng ưu tiên và riêng biệt của Giáo xứ :
(1)
(2)
(3)
(4)
2. Việc giáo xứ và cá nhân phải làm:
(1)
(2)
(3)
(4)
3. Cách giáo xứ và cá nhân phải làm:
(1)
(2)
(3)
(4)
V. PHẦN KẾT LUẬN
Điều quan trọng đối với Giáo hội Việt Nam nói chung, với mỗi giáo xứ cũng như mỗi tông đồ giáo dân nói riêng là xác định được “Đối Tượng Truyền Giáo ưu tiên” của mình trong mỗi giai đoạn của Giáo hội, giáo xứ hay cá nhân. Vì chúng ta chưa quen với cách làm việc có phương pháp khoa học: tức có phương án, kế hoạch (xác định đối tượng ưu tiên), có kiểm tra, lượng giá nên chúng ta rất cần học tập để áp dụng những tiến bộ của khoa học vào mọi lãnh vực hoạt động của Giáo hội và của tông đồ giáo dân ngày nay.
Ghi chú:Đề tài “Đối Tượng Truyền Giáo……” này đã được mượn lại (có điều chỉnh) đề tài XVI trong cuốn “GIÁO DÂN TRUYỀN GIÁO” của Giêrônimô Nguyễn Văn Nội, phát hành năm 2003, trang 243-253.
Sài-gòn ngày 20 tháng 01 năm 2005
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
Các tin khác