Văn Yên, SJ - Vatican News
Khoa Khoa học Máy tính và Sinh học của Đại học Công giáo Péter Pázmány là khoa duy nhất ở Hungary và thậm chí ở Châu Âu kết hợp nghiên cứu về kỹ thuật điện tử và máy tính với sinh học phân tử, thần kinh và y học. Chương trình đào tạo tập trung vào các ngành khoa học liên quan đến cơ thể con người, đặc biệt là hệ thống thần kinh và miễn dịch, cũng như di truyền học.
Buổi gặp gỡ bắt đầu lúc 4:30pm với lời chào của Hiệu trưởng, sau đó là chứng từ của một giáo sư và của một sinh viên.
Sau các chứng từ, Đức Thánh Cha có một diễn văn đáp lời.
Ý nghĩa của văn hoá
Trước hết Đức Thánh Cha lấy hình ảnh của dòng sông Danube nối đất nước Hungary với nhiều nước khác, “hợp nhất không chỉ về địa lý mà còn về lịch sử”, để nói về những mối liên hệ con người tạo nên văn hoá. “Bản thân từ văn hóa (cultura) bắt nguồn từ động từ vun trồng (coltivare): tri thức liên quan đến việc gieo hạt hàng ngày, vốn dìm mình trong những luống cày của thực tế, mang lại hoa trái.”
Hai kiểu biết
Đức Thánh Cha trích dẫn lời học giả Romano Guardini để nói về sự hiểu biết: “Trong những ngày này, hơn bao giờ hết, tôi hiểu rằng có hai dạng biết [...], một dạng dẫn đến chìm mình trong đối tượng và trong bối cảnh của nó, theo đó người muốn biết phải cố gắng sống trong nó; ngược lại, dạng biết kia thì thu gom mọi thứ, phân tích chúng, đặt chúng ngăn nắp vào hộp, giành quyền làm chủ và sở hữu chúng, thống trị chúng” (Lettere dal Lago di Como. La tecnica e l'uomo, Brescia 2022, 55). Ông phân biệt giữa cái biết khiêm tốn và tương giao, giống như “sự trị vì có được nhờ phục vụ; một sự sáng tạo theo tự nhiên, không vượt ra ngoài những giới hạn đã được thiết lập” (xem tr. 57), và một cái biết khác, “không quan sát mà phân tích [...] không dìm mình trong đối tượng mà nắm giữ nó” (tr. 56).
Đức Thánh Cha nói về cái biết thứ hai liên quan đến máy móc, “sự phát triển một kỹ thuật chế ngự sự sống” (trang 59-60 ). “Guardini không coi thường công nghệ, thứ giúp chúng ta sống tốt hơn, để giao tiếp và có nhiều lợi ích, nhưng cảnh báo về nguy cơ nó trở thành kẻ chi phối, nếu không muốn nói là thống trị, cuộc sống. Theo nghĩa này, ông nhìn thấy một mối nguy hiểm lớn: “Con người mất đi tất cả những kết nối bên trong mà lẽ ra họ có được từ ý thức về sự cân đối và về sự hài hòa với tự nhiên” và, “trong khi nơi con người bên trong, họ ngày càng không có ranh giới, không thước đo, không định hướng, họ lại tùy tiện thiết lập các mục tiêu của riêng mình và bắt các sức mạnh tự nhiên, do họ thống trị, phải hiện thực chúng” (tr. 60). Và Guardini đã đặt ra cho hậu thế một câu hỏi đáng lo ngại: “Cuộc sống sẽ ra sao nếu nó kết thúc dưới cái ách này? [...] Điều gì sẽ xảy ra [...] khi chúng ta thấy mình phải đối mặt với sự phổ biến các mệnh lệnh của công nghệ? Cuối cùng, cuộc sống bị đóng khung trong một hệ thống máy móc. [...] Trong một hệ thống như vậy, liệu cuộc sống có còn là sống nữa không?” (tr. 61).
Sự lệ thuộc công nghệ
Cuộc sống có còn là sống nữa không? Đó là một câu hỏi mà, đặc biệt ở nơi này, nơi công nghệ thông tin và khoa học sinh học được nghiên cứu chuyên sâu, cần được đặt ra. Thật vậy, những gì Guardini đã thoáng thấy thì bây giờ xuất hiện rõ ràng trong thời đại của chúng ta: hãy nghĩ về cuộc khủng hoảng sinh thái, với thiên nhiên đang phản ứng lại sự bóc lột bởi chúng ta. Chúng ta nghĩ về sự thiếu đi các giới hạn, về lý luận cho rằng “nếu điều đó có thể làm được thì nó được phép”. Chúng ta cũng hãy nghĩ đến mong muốn đặt trung tâm của mọi sự không phải nơi con người và các mối tương quan con người, nhưng mỗi người đặt trung tâm vào nhu cầu của chính mình, ham thu vén và nắm giữ thực tại. Và hệ quả là sự xói mòn của những ràng buộc cộng đồng, nơi đó sự cô đơn và sợ hãi, do bởi điều kiện hiện sinh, dường như trở thành những điều kiện xã hội. Bao nhiêu người bị cô lập, rất nhiều “mạng xã hội” và rất ít tính xã hội, như đang ở trong một vòng luẩn quẩn, tìm đến sự an ủi của công nghệ để lấp đầy khoảng trống mà họ cảm thấy, bằng cách chạy theo một cách thậm chí còn cuồng nhiệt hơn, trong khi bị chế ngự bởi chủ nghĩa tư bản man rợ, càng cảm thấy đau đớn hơn về sự yếu đuối của mình, trong một xã hội mà tốc độ bên ngoài song hành với sự mỏng giòn bên trong. Khi nói điều này, tôi không muốn tạo ra chủ nghĩa bi quan – là điều trái ngược với niềm tin mà tôi vui mừng tuyên xưng – nhưng để suy ngẫm về “sự kiêu ngạo này của hiện hữu và sở hữu”, điều mà từ buổi bình minh của văn hóa châu Âu, Homer đã coi là mối đe dọa và mô hình kỹ trị làm cho thêm trầm trọng, qua việc sử dụng một số thuật toán có thể gây ra nguy cơ mất ổn định hơn nữa cho con người.
Đô hộ ý thức hệ
Tiếp đến Đức Thánh Cha trích dẫn từ cuốn tiểu thuyết Ông chủ của thế giới của Robert Benson, với nhận xét “rằng sự phức tạp của máy móc không đồng nghĩa với sự vĩ đại thực sự và rằng trong vẻ bề ngoài xa hoa nhất ẩn chứa mối nguy hiểm tinh vi nhất” (Verona 2014 , 24 -25). Cuốn sách này, theo một nghĩa nào đó, mang tính “tiên tri”, được viết cách đây hơn một thế kỷ, mô tả một tương lai bị công nghệ thống trị và trong đó mọi thứ, nhân danh sự tiến bộ, đều bị đồng nhất hóa: khắp nơi người ta rao giảng một “chủ nghĩa nhân đạo” nhằm xóa bỏ sự khác biệt, huỷ bỏ đời sống của các dân tộc và xoá bỏ các tôn giáo. Các hệ tư tưởng đối lập hội tụ vào một sự đồng nhất hóa, kiểu đô hộ ý thức hệ; con người với việc tiếp xúc với máy móc ngày càng trở nên phẳng, trong khi cuộc sống chung trở nên buồn tẻ và yếu ớt. Trong thế giới tiến bộ nhưng u ám được Benson mô tả, nơi tất cả mọi người dường như mất cảm giác và bị gây mê, thì việc loại bỏ người bệnh và áp dụng trợ tử, cũng như xóa bỏ ngôn ngữ và văn hóa các dân tộc để đạt đến một hòa bình phổ quát, dường như là điều hiển nhiên, điều này trên thực tế biến thành một cuộc bách hại dựa trên việc áp đặt sự đồng thuận, đến mức một nhân vật chính trong tiểu thuyết của ông khẳng định rằng “thế giới dường như chịu sự chi phối của một sức sống kỳ quặc, vốn làm hư hỏng và pha tạp mọi thứ” (tr. 145).
Các tin khác