LỄ ĐỨC MARIA, MẸ THIÊN CHÚA
Lời Chúa: Ds 6,22-27; Gl 4,4-7; Lc 2,16-21
MỤC LỤC
4. Mẹ Thiên Chúa - Gm. Arthur Tonne. 9
5. Tại sao lại ‘Mẹ Thiên Chúa’?. 11
7. Mẹ Thiên Chúa – Mẹ chúng ta – Anmai16
9. Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con. 24
10. "Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời". 28
11. Thinh lặng và lắng nghe. 30
16. Hãy cho trẻ em một tương lai hoà bình.41
17. Nhân loại mới – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt45
18. Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.48
19. Nhân loại mới – ĐTGM. Giuse Ngơ Quang Kiệt51
22. Đức Maria Mẹ Thiên Chúa.63
23. “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời”. 70
24. Thân Mẫu Của Vua Hòa Bình - Yvon Daigneault72
25. Tuyệt vời – Lm. Đỗ Vân Lực. 75
28. Đức Maria Mẹ Thiên Chúa.86
29. Suy niệm của Lm. Munachi Ezeogu. 88
30. Mẹ tất cả mọi người - Lm. Mark Link. 91
31. Là mẹ và là khuôn mẫu - Mark Link. 95
32. Mẹ mẫu gương – Lm Micae Vũ An Lộc. 99
33. Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa.101
35. Mẹ Thiên Chúa – Lm. Cao Thế Bình.107
36. Chú giải của Noel Quesson. 111
Có thể nói, mùa Giáng Sinh cũng là mùa kính Đức Mẹ. Đặc biệt ngày đầu năm Dương lịch hôm nay, phụng vụ muốn tôn kính Đức Maria với tước hiệu là Mẹ Thiên Chúa. Và từ năm 1968 Đức Giáo Hoàng Phaolô VI lại dành ngày 1 tháng Giêng nầy để cầu nguyện cho hoà bình thế giới.
Đất nước chúng ta đã thoát khỏi những năm chiến tranh. Nhưng chúng ta vẫn còn có nhiệm vụ phải suy nghĩ về hoà bình. Bởi vì hoà bình không phải chỉ là chấm dứt chiến tranh. Hoà bình còn là xây dựng bình đẳng, ấm no, thịnh vượng, hạnh phúc nữa. Phần tích cực có thể nói gồm nhiều mặt hơn phần tiêu cực. Vả lại, hết chiến tranh cũng chưa phải là đã hết những hậu quả của chiến tranh là những thương tích, những đổ vỡ về vật chất và tinh thần. Chúng ta phải cải tạo cái cũ, xây dựng cái mới. Hoà bình hạnh phúc phải là hơi thở của mọi người trên thế giới. Vậy chúng ta đóng góp được gì?
Hãy suy nghĩ về hoà bình như Đức Maria hằng suy đi nghĩ lại trong lòng. Ngài suy nghĩ về danh “Giêsu”, có nghĩa là cứu thế. Danh đó phải được kêu cầu trên con cái loài người, để phúc lộc được đổ xuống trên các dân và phước lộc phong phú cụ thể là chính Thánh Thần mà Thiên Chúa muốn đổ xuống lòng mọi người, để khi chúng ta gọi Chúa là Cha thì chúng ta Thấy mình là anh em với nhau, để sống hòa thuận yêu thương nhau, sống vì hạnh phúc của anh em mình.
Yêu hòa bình thì phải xây dựng công bằng, bác ái, phải kiến tạo bình đẳng, ấm no, thịnh vượng, hạnh phúc. hòa bình đòi hỏi phải phấn đấu, phải đấu tranh, để tiêu diệt cái xấu và phát triển cái tốt. Rất nhiều công tác cụ thể đang ở tầm tay mỗi người chúng ta. Hết thảy chúng ta hãy tích cực, để không chỉ nói hoà bình, nhưng muốn xây dựng hoà bình. Trong ngày cấu nguyện cho Hoà Bình Thế Giới hôm nay và cũng là ngày lễ kính Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, chúng ta xin Đức Maria là Nữ Vương Hoà Bình ban cho bản thân chúng ta, cho gia đình chúng ta, cũng như cho cộng đoàn giáo xứ, nền hoà bình của Chúa Kitô – Hoà bình mà Đấng Cứu Thế, Con của Mẹ Maria đã đem xuống trần gian cho loài người trong đêm Giáng Sinh, để chúng ta biết sống hoà thuận yêu thương nhau, đoàn kết xây dựng hoà bình trên quê hương đất nước và trên toàn thế giới.
Tước hiệu Đức Maria Mẹ Thiên Chúa là một tước hiệu đã có từ lâu đời trong Giáo Hội. Đây là một tước hiệu xứng hợp ơn mọi tước hiệu khi nói về Đức Trinh Nữ Maria.
Vào thế kỷ V, Nestôriô đã nổi lên chống đối tước hiệu Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria. Theo Nestôriô, chỉ nên gọi Maria là Mẹ của Đức Giêsu Kitô, chứ không được gọi là Mẹ Thiên Chúa. Một cuộc xung đột lớn đã xảy ra trong Giáo Hội xoay quanh việc Ngôi Hai nhập thể. Thế nên, vào năm 431, Hội Thánh đã triệu tập Công đồng Ephêsô dưới sự chủ toạ của thánh Cyrillô, các nghị phụ trong công đồng này đã tuyên bố cất chức Nestôriô và đánh đổ lạc thuyết của ông ta. Công đồng Ephêsô đã định tín Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa vì thực sự Mẹ đã sinh ra Con-Thiên-Chúa-làm-người.
Bắt đầu từ công đồng Ephêsô tước hiệu Maria Mẹ Thiên Chúa đã trở thành tước hiệu chính thức của Đức Trinh Nữ Maria. Đây là tước hiệu trổi vượt trên mọi tước hiệu mà Giáo Hội đã ca tụng và tôn vinh Đức Trinh Nữ Maria. Thánh công đồng Vaticanô II trong Hiến chế Tín lý về Hội Thánh đã viết: “Từ những thời xa xưa, Đức Trinh Nữ đã được tôn kính dưới tước hiệu là Mẹ Thiên Chúa, và các tín hữu đã khẩn cầu cùng ẩn náu dưới sự che chở của Người trong mọi cơn gian nan khốn khố”. Đức Giáo Hoàng Piô XI đã viết khi lập thánh lễ kính trọng thể Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa ngày 11.10 nhân dịp kỷ niệm 1500 năm công đồng Ephêsô vào năm 1931: “Tín điều Mẹ Thiên Chúa là một mối nước mầu nhiệm vô tận, đã tuôn ra mọi đặc ân cho Đức Mẹ và nâng Người lên một địa vị cao sang tuyệt vời bên Thiên Chúa”.
Hôm nay, Giáo Hội dành ngày đầu năm dương lịch để cầu nguyện cho thế giới hoà bình trùng vào ngày kính trọng thể Đức Maria Mẹ Thiên Chúa như lời Đức Thánh Cha Phaolô VI đã viết trong tông huấn Marialis Cultus, khi người dời thánh lễ kính trọng thể Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa vào ngày 01.01 mỗi năm như sau: “Vì sự trùng hợp tốt đẹp giữa ngày 01 tháng Giêng với ngày thứ tám sau lễ Giáng Sinh mà chúng tôi đã đặt ngày đó là ngày thế giới hoà bình, mà thế giới mỗi ngày càng hưởng ứng thêm, và thành quả của hoà bình đã phát sinh trong lòng nhiều người”.
Lạy Vua Hoà Bình mới sinh, nhờ sự can thiệp của Nữ Vương Hoà Bình, xin ban cho nhân loại và mỗi người chúng con sự hoà bình đích thực và ơn an bình trong mỗi tâm hồn.
Giáo Hội Công giáo có một lòng sùng kính Mẹ Maria một cách đặc biệt. Mẹ đã được ca ngợi trong phụng vụ với nhiều tước hiệu khác nhau. Một trong những tước hiệu tuyệt vời nhất, đó là tước hiệu Mẹ Thiên Chúa. Tước hiệu này phát sinh từ niềm tin của Giáo Hội nơi Chúa Giêsu, người con sinh ra từ cung lòng Mẹ, là Con Thiên Chúa làm người. Ngài là người nhưng đồng thời cũng là Thiên Chúa.
Đoạn Tin mừng sáng hôm nay ghi lại quang cảnh các mục đồng đã được chứng kiến tại Bêlem trong đêm Chúa Giáng sinh. Một quang cảnh xem ra thật bình thường: Một hài nhi vấn tã đặt nằm trong máng cỏ bên cạnh Mẹ Maria và thánh Giuse. Nhưng đoạn Tin mừng cũng gợi lên một cái gì khác thường khiến cho Mẹ Maria đã phải ghi nhớ và suy niệm trong lòng.
Quả thật, Tin mừng đã nhiều lần nói đến mối quan hệ giữa Mẹ Maria và Chúa Giêsu, đồng thời nhấn mạnh cho thấy mối quan hệ ấy không phải chỉ là mối quan hệ theo huyết thống. Đức Maria là Mẹ của Chúa Giêsu không phải chỉ vì Mẹ đã sinh ra Chúa Giêsu tại hang đá Bêlem, đã bú mớm và nuôi dưỡng Ngài tại Nagiarét, mà hơn thế nữa vì Mẹ chính là người đã lắng nghe và thực hiện lời Chúa.
Trước những việc lạ lùng Chúa đã làm và nhất là trước giáo huấn của Ngài, một người phụ nữ đã ca tụng người mẹ đã cưu mang Ngài và đã cho Ngài bú. Nhưng Chúa Giêsu đã mời người phụ nữ ấy đi xa hơn điều bà đang nghĩ.
Đối với Chúa Giêsu, sợi dây thắt chặt Ngài với Đức Maria, đó chính là lòng tin, lòng mến được thể hiện một cách cụ thể qua việc lắng nghe và thực hiện lời Chúa.
Một lần khác, có người nhắc nhở với Chúa Giêsu là có Mẹ và anh em Ngài tới kiếm Ngài. Chúa Giêsu đã lợi dụng dịp này để cho người ta thấy mối quan hệ Ngài chờ đợi nơi mọi người đó chính là lòng tin, sự đồng tâm nhất trí với hành động và lời giảng dạy của Ngài. Đối với Chúa Giêsu không có sự biệt đãi theo huyết thống, theo nhãn hiệu, theo tước vị hay theo một tiêu chuẩn nào người ta có thể lãnh nhận một cách máy móc.
Đã hơn một lần người Do Thái được gọi vào cương vị là con cái Abraham, nhưng Ngài đã thẳng thắn trả lời với họ: Cương vị ấy không hơn gì một hòn đá. Người ta cũng đã nại vào tước vị là dân riêng của Chúa, của giao ước, nhưng Chúa Giêsu cũng đã cho thấy việc nại vào tước vị ấy quả là uổng công. Chẳng phải vì Ngài muốn đi ngược lại với những gì Cha Ngài đã giao ước, mà vì Ngài muốn đi vào cái cốt lõi của giao ước: Thực hiện thánh ý của Thiên Chúa.
Mối quan hệ chính yếu Chúa Giêsu muốn thiết lập, đó chính là mối quan hệ của việc thực thi lời Chúa, bất luận người đó là ai, dù là người Samaria mà dân Do Thái vốn coi rẻ, cho là hạng lai căng, lạc đạo, nhưng đã biết chăm sóc cho kẻ bị cướp đánh trọng thương, vứt bỏ bên lề đường, hay đã cho kẻ đói có cái ăn, kẻ khát có cái uống, kẻ trần truồng có cái mặc. Những việc làm nằm trong ý của Chúa thì người đó đã ở trong quan hệ cứu chuộc với Chúa.
Mừng lễ Mẹ Thiên Chúa, chúng ta cũng nhìn lại mối quan hệ của chúng ta đối với Đức Kitô. Bí tích Rửa tội và tất cả những bí tích chúng ta lãnh nhận một cách máy móc không đủ để đặt chúng ta vào trong quan hệ với Đức Kitô. Mang danh hiệu là người Kitô hữu, có tên trong sổ rửa tội mà thôi chưa đủ, bởi vì chúng ta chỉ thực sự gắn bó với Ngài khi lắng nghe và thực thi ý Chúa, bởi vì như lời Chúa đã khẳng định: Chỉ kẻ nào làm theo thánh ý Thiên Chúa, thì mới là mẹ, là anh chị em với Ngài mà thôi.
Ngày 20 tháng giêng 1961 John Kennedy làm Tổng Thống thứ 35 của Hoa Kỳ. Một người Công Giáo đầu tiên giữ chức vụ chóp bu. Trong ngày nhậm chức, có mặt tất cả dòng họ Kennedy, cùng bà mẹ đứng một chỗ danh dự. Vào lúc John Kennedy thề nhậm chức và trở thành Tổng Thống thì Rose Kennedy trở thành Mẹ của Tổng Thống. Khi bà sinh John vào năm 1917, Bà đã cho đất nước Hoa kỳ một con người mà sau này làm Tổng Thống. Bà không sinh ra một con người Tổng Thống. Nhưng thật sự và đúng là mẹ của một Tổng Thống.
Một cách tương tự, nhưng không y hệt như thế, chúng ta xưng tụng Đức Nữ đồng trinh là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ đã sinh ra Chúa Giêsu Kitô đấng vừa là Thiên Chúa vừa là Người. Đức Maria không sinh ra Chúa là Chúa. Đức Maria cũng không phải là Chúa hay Bà Chúa. Mẹ là một con người có hạn, được vinh dự dâng hiến bản tính nhân loại cho Ngôi Con trong Ba Ngôi Thiên Chúa. Qua Mẹ, Đức Giêsu là một người thật và cũng là Thiên Chúa thật. Đó là chân lý chúng ta mừng lễ hôm nay. Ngày đầu năm dương lịch. Tại sao chúng ta công khai tung hô Maria là Mẹ Thiên Chúa ngay sát lễ giáng sinh? Lý do rất tự nhiên khi chúng ta thăm một em bé mới sinh, dễ nhiệm chúng ta muốn biết sức khoẻ của em, Em nặng mấy ký và em giống ai. Thế rồi bao giờ chúng ta cũng muốn biết về sức khoẻ của người Mẹ. Cả tuần nay chúng ta ngắm nhìn Chúa Hài Đồng trong Máng cỏ. Hôm nay chúng ta có lý do hướng về Mẹ của Ngài.
Một lý do khác nữa: trong ngày đầu năm, chúng ta cầu chúc cho nhau năm mới vui tươi, hạnh phúc. Nghĩa là chúng ta hy vọng và cầu xin cho bạn bè, những người thân yêu được một năm thánh thiện để họ biết Chúa Kitô nhiều hơn, yêu mến người nồng nàn hơn và phụng sự người trung thành hơn như Đức Mẹ đã làm. Để được như vậy không có gì giúp ta, hơn sự thúc đẩy và trợ giúp của Người Mẹ ấy, Chúa Giêsu và tôn kính mẹ, Người cũng muốn chúng ta yêu và Tôn kính Mẹ của Người.
Chúng ta có thể gợi một so sánh nữa; John Kennedy đã tham dự Thánh lễ vào buổi sáng ông nhậm chức. Ông làm thế để cám ơn Mẹ ông. Bà đã dự Thánh lễ mỗi ngày từ khi bà kết hôn. Mẹ Tổng Thống Kennedy đã chứng kiến cái chết rùng rợn của con bà, cũng thế Mẹ Thiên Chúa cũng chứng kiến cảnh tượng đóng đinh ghê sợ của Con Mẹ. Cái chết của Chúa Kitô được tái diễn trên bàn thờ này mọi ngày. Chúng ta hãy làm cho Thánh lễ thêm quan trọng hơn trong ngày đầu năm này và bạn sẽ Thánh và hạnh phúc trọn một năm. Hãy xin Thiên Chúa, nhờ Thánh lễ này cho bạn và những người thân yêu của bạn sự phù giúp bạn cần, để làm cho năm nay hạnh phúc.
Bạn đặc biệt để ý tới lời kinh nguyện Thánh Thể II “xin cho chúng con xứng đáng hưởng sự sống đời đời cùng với Đức Trinh nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa” sau Thánh lễ bạn hãy tìm tới máng cỏ và nhớ tới Mẹ Thiên Chúa. Mẹ sẽ thực hiện lời chúc mừng và cầu xin của tôi cho tất cả các bạn.
Năm mới hạnh phúc cho mọi người. Amen.
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Đặt ra cho mình câu hỏi này, tôi không có ý đi vào cuộc tranh luận thần học hay tín lý đâu, đơn giản là vì tôi luôn bị ám ảnh bởi câu khảng định của Đức Giêsu khi có người lên tiếng ca ngợi địa vị dành cho con người nào được diễm phúc làm người mẹ sinh hạ và dưỡng nuôi Ngài: “Đúng ra phải nói rằng: phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11:27-28). Và tôi vẫn thường tự hỏi: tại sao lắng nghe và tuân giữ Lời lại quan trọng hơn cả làm Mẹ Thiên Chúa? Hơn nữa có liên quan gì giữa hai điều này xem ra chẳng liên quan gì với nhau?
Lời Chúa trong bài Tin Mừng mời gọi tôi trở lại chiêm ngắm cảnh hang Bê-lem, một cảnh tượng quá đơn sơ nhưng có điều gì đó cần phải được khám phá. Trong suốt những ngày này, Maria đã chẳng chỉ suy đi nghĩ lại trong lòng các điều đó là gì? “Đến nơi, các mục đồng gặp bà Maria, ông Giu-se, cùng với Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ”. Tôi nhận ra cái diễm phúc lớn hơn hết của con người được cái đặc ân cưu mang trong lòng dạ chín tháng, sinh hạ, rồi ôm ẵm trên tay, cho bú mớm và nuôi dưỡng Hài Nhị nhỏ bé này chính là được trở thành nhân vật gần gũi, được chạm tới, được chiêm ngắm trực diện hơn ai hết một Thiên Chúa làm người để cứu độ, một Thiên Chúa đang tỏ hiện lòng từ bi thương xót của Ngài cách quá cụ thể và độc đáo. Không trách gì mà Maria đã “hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng”.
Phải chăng khi nói ‘nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa’, Đức Giêsu đã muốn ám chỉ điều này? Lời Thiên Chúa chắc hẳn không phải chỉ là một vài giáo điều luân lý hay một học thuyết cao siêu nào đó (như giới luật mến Chúa yêu người chẳng hạn), mà phải là điều mà, qua sự hiện diện trần thế trong hình hài một trẻ sơ sinh cũng như qua cái chết thập giá, Ngài đã và đang không ngừng nói lên: Thiên Chúa yêu thương con người! Rõ ràng là Maria đang ‘nghe’ điều này qua các diễn biến tuần tự xảy ra tại Bê-lem, và nghe cách chăm chú với tất cả cõi lòng của một phụ nữ làm mẹ, nghe với tất cả tâm trí của một nữ tì khiêm hạ, để khi có dịp sẽ cất lên thành bài ca: “Thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa , Đấng cứu độ tôi… Người đoái thương nhìn tới phận nữ tỳ hèn mọn…” (Lc 1:46-48)
Và Maria cũng đang ‘tuân giữ’, qua việc đón nhận cách trọn vẹn và tham gia cách tích cực, việc Thiên Chúa tỏ hiện lòng thương xót cứu độ của Ngài. Đón nhận nào sâu xa và trọn vẹn cho bằng với trọn cả tâm trì và cõi lòng: tâm trí Maria đã nhảy mừng và lòng dạ Maria đã cưu mang; và có tham gia nào thực tế cho bằng người mẹ đã cưu mang để đem tình thương cứu độ đó trao ban lại cho toàn thể nhân loại? Maria đã làm được điều đó và làm cách xuất sắc hơn hết thảy mọi người trong tư thế một người mẹ. Đức Giêsu có lẽ đã ám chỉ điều này khi Người lên tiếng: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?... Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi” (Mc 3:31-35). Được làm Mẹ Thiên Chúa sướng và hạnh phúc thật, nhưng với Giêsu và Maria, đó không phải là một địa vị, một đặc ân, nhưng là một tư thế trước Tin Mừng cứu độ. Và hình như Đức Giêsu cũng muốn mỗi người chúng ta tham gia vào cái ‘vinh dự’ đó thì phải, đơn giản là vì mỗi Kitô hữu đều phải có một tư thế của riêng của mình trước Tin Mừng cứu độ: mỗi người đều phải biết ‘nghe và tuân giữ’ Lời Cứu Độ của lòng thương xót theo cách thức của mình.
Tôi biết dòng Salêdiêng Don Bosco có tham vọng muốn các hội viên của mình phải trở thành ‘dấu chỉ và người mang tình thương của Chúa đến cho các thanh thiếu niên’. Rõ ràng Tu Hội muốn họ trở thành ‘mẹ’ của các trẻ bị bỏ rơi, đồng thời cũng trở thành mẹ của Thiên Chúa nữa (theo định nghĩa ‘mẹ’ của Đức Giêsu). Có lẽ vì vậy mà nhà dòng muốn họ cùng Mẹ Phù Hộ đồng hành trên con đường ơn gọi chăng; không phải chỉ vì những trợ giúp đỡ nâng bên ngoài, nhưng nhất là trong nội dung của chính ơn gọi họ: cứu vớt các thanh thiếu niên. Và nếu tôi không lầm thì theo nội dung đó, Đức Giêsu còn muốn mọi Kitô hữu chúng ta, trong đó chắc chắn có cả tôi và bạn nữa, cùng trở thành ‘mẹ’ của Người. Phải chăng đó là ‘ý đồ’ của Người, khi trên thập giá Người đã trao phó nhân loại, qua đại diện là Gio-an, cho Maria và muốn chúng ta nhận người làm mẹ mình không? “Thưa bà, đây là con của bà… Đây là mẹ của anh!” (Ga 19:26-27)
Lạy Mẹ Maria - Mẹ Thiên Chúa, xin hãy giúp con biết như Mẹ ‘nghe và tuân giữ’ Lời Cứu Độ đầy từ tâm. Xin cho con khi mừng kính Mẹ dưới danh hiệu cao đẹp này, cũng được tham gia vào nghĩa vụ trở thành ‘mẹ của Đức Kitô’ cho những ai chưa được biết tới tình yêu thương của Chúa. Và cũng xin cho con trung thành với ơn gọi Kitô hữu và Sa-lê-diêng của con trong tất cả chiều kích sâu sắc nhất của nó. Amen.
Có một cô gái, sau khi tham dự một khóa tĩnh tâm, đã kể lại về đời mình như sau: Ngay từ hồi còn bé, tôi đã lâm vào một tình trạng lo âu sợ hãi. Cố gắng lớn lao nhất của tôi hiện nay là vượt thắng nỗi lo âu sợ hãi ấy. Tất cả đều do người mẹ.
Phải, ngay từ những thánh năm ấu thơ, không hiểu vì lý do gì, bà luôn đối xử với tôi một cách nghiệt ngã. Hết đánh đập lại đe loi, khiến tôi bị mặc cảm. Và nỗi lo âu sợ hãi cùng với thời gian cứ tăng lên mãi. Cho đến hôm rồi, sau khi nghe một bài giảng, tôi tình cờ bước vào nhà thờ. Ở đó có bức tượng Mẹ Maria, và đó là lần đầu tiên tôi nhìn ngắm bức tượng Mẹ thật kỹ.
Thoạt tiên, tôi bực bội, giận dữ muốn bỏ ngay ra ngoài, nhưng rồi một cái gì đó đã lôi kéo tôi đến quỳ dưới chân Mẹ. Úp mặt vào lòng bàn tay và tôi đã khóc. Sau đó, tôi cảm thấy tâm hồn mình nhẹ nhõm và mong ước được làm một đứa trẻ, một người con bé bỏng, đầy tin tưởng và phó thác. Đồng thời tôi cũng cảm nhận được tình yêu mà Mẹ Maria đã dành cho tôi, khiến tôi muốn thực sự tha thứ cho người mẹ ruột của tôi những gì đã xảy ra trong dĩ vãng.
Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào tâm tình của ngày lễ kính Mẹ Thiên Chúa và chúng ta sẽ suy nghĩ về hai điểm.
Điểm thứ nhất: Đức Maria không phải chỉ là Mẹ Thiên Chúa mà ngài còn là mẹ thật của mỗi người chúng ta nữa. Từ trời cao, Mẹ luôn sẵn sàng giúp đỡ chúng ta trong mọi cảnh huống cuộc đời.
Điểm thứ hai: Đức Maria cũng chính là khuôn mẫu để chúng ta noi theo, nhất là về thái độ tín thác vào Chúa.
Thực vậy, khi sứ thần báo tin Mẹ sẽ sinh con bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, mặc dù biết rằng việc này có thể làm cho thánh Giuse buồn phiền và lo nghĩ, nhưng Mẹ vẫn vững tin và phó thác vào Chúa. Rồi khi nghe các mục đồng kể lại lời các thiên thần. Mặc dù không hiểu lắm, nhưng Mẹ vẫn tín thác vào Chúa. Khi nghe ông già Simeon nói tiên tri: Một lưỡi gươm sẽ đâm thâu trái tim Bà. Lần này Mẹ Maria cũng chẳng hiểu rõ ý nghĩa lời tiên tri, nhưng Mẹ vẫn phó thác vào Chúa. Rồi khi tìm thấy Chúa và nghe Chúa trả lời: Mẹ không biết con phải lo việc Cha con sao? Một lần nữa Mẹ Maria chẳng hiểu gì cả nhưng Mẹ vẫn tin tưởng nơi Chúa.
Và ngày nay, Mẹ luôn sẵn sàng giúp chúng ta sống tin tưởng và phó thác vào tình thương của Chúa. Chẳng hạn là những bậc cha mẹ, chúng ta đã cặn kẽ dạy bảo, ra sức làm gương sáng mà con cái vẫn khô khan nguội lạnh ngang bướng Và như vậy, chỉ còn một phương cách là tiếp tục cầu nguyện và phó thác. Chính Mẹ Maria sẽ giúp chúng ta làm điều này.
Là một thanh niên, chúng ta lo lắng về tương lai, không hiểu những dự tính của mình là gì và sẽ đi về đâu? Chúng ta đã bàn bạc, đã cầu nguyện mà sao vẫn còn mù mịt. Vậy thì hãy tiếp tục cầu nguyện và phó thác, chính Mẹ Maria sẽ giúp chúng ta trong việc này.
Là một người đang chao đảo về đức tin với bao nhiêu những thắc mắc, những khó hiểu. Mặc dù đã cầu nguyện nhưng chúng ta vẫn hoài nghi liệu có Chúa hay không? Vậy thì hãy cầu nguyện và phó thác Mẹ Maria sẽ giúp chúng ta thực hiện điều này.
Lạy Đức Maria, là Mẹ Thiên Chúa và Mẹ chúng con, xin hãy giúp con trong mọi cảnh huống của cuộc đời.
Mở lại những trang thư của Thánh Phaolô tông đồ gửi giáo đoàn Galát ta bắt gặp tâm tình hết sức dễ thương của Ngài.
Mở đầu thư, Thánh Phaolô khẳng định ngay: Tôi là Phaolô, Tông Đồ không phải do loài người, cũng không phải nhờ một người nào, nhưng bởi Đức Giêsu Kitô và Thiên Chúa là Cha, Đấng đã cho Người từ cõi chết trỗi dậy, tôi và mọi anh em đang ở với tôi, kính gửi các Hội Thánh miền Galát.
Cuộc đời, ơn gọi Tông Đồ của Phaolô rõ ràng như ta thấy đó, không phải tự loài người hay do loài người nhưng là bởi Đức Giêsu Kitô và Thiên Chúa là Cha.
Rõ ràng, sinh ra bởi phàm nhân, bởi cha bởi mẹ của Ngài nhưng thánh Phaolô quả quyết như thế bởi vì ngài tin như thế.
Và rồi, mở lại những trang Thánh Kinh Cựu Ước, ta không thể nào quên được hình ảnh của Ápraham - cha của những kẻ tin.
Ta biết Ápraham có hai người con. Hai người con, một người được sinh ra bởi người mẹ là người nô lệ còn người kia là người tự do. Con của người mẹ nô lệ thì sinh ra theo luật tự nhiên; còn con của người mẹ tự do thì sinh ra nhờ lời hứa. Câu chuyện đó ngụ ý rằng: hai người đàn bà là hai giao ước. Giao ước thứ nhất tại núi Sinai, thì sinh ra nô lệ: đó là Haga. Haga chỉ núi Sinai trong miền Ảrập, và tương đương với Giêrusalem, thành này cùng với các con đều là nô lệ. Còn Giêrusalem thượng giới thì tự do: đó là mẹ chúng ta.
Mẹ của lời hứa được Thiên Chúa tuyển chọn bởi tình thương của Ngài.
Con của lời hứa mà Thiên Chúa trong Cựu Ước là là con của Giao Ước cũ. Giao Ước mới là Đấng Cứu Độ trần gian được sinh ra trong cung lòng của một trinh nữ có tên là Maria.
Trong trình thuật tin mừng rất ngắn, Thánh Luca thuật lại cho ta rất chi tiết về người trinh nữ có tên là Maria đó: "Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ". (Lc 2, 16)
Đích thị rằng Maria chính là Mẹ của Hài Nhi, Mẹ của Đấng Cứu Độ và cũng là Mẹ Thiên Chúa nhờ đặc ân mà Thiên Chúa trao ban cho Mẹ.
Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa vì Con của Mẹ là Thiên Chúa. Mẹ chỉ là Mẹ trong trật tự sản sinh nhân loại, nhưng Con mà Mẹ thụ thai và hạ sinh là Thiên Chúa, nên Mẹ phải được gọi là Mẹ Thiên Chúa.
Tín lý này đã được thánh Luca minh hoạ rõ ràng trong trang Tin Mừng chúng ta vừa nghe..
Từ thế kỷ II đã được các thánh Giáo phụ Inhaxiô Antiokia, Irênêô, Cyrillô Alexandria, Augustinô, Epiphanô diễn giải sâu rộng để đối phó với lạc thuyết của các bè rối Gnosticism, Docetism. Thánh Gioan Tông đồ loan báo chứng thực rõ ràng rằng ngài đã từng mắt thấy, tai nghe và đụng chạm tới Chúa Giêsu là Ngôi Lời hằng sống đã xuất hiện.
Trong khi đó các bè rối đó vẫn nói Chúa Giêsu chỉ là ảo tượng. Lạc thuyết này muốn phá đổ tự nền tảng công cuộc Cứu chuộc của Chúa Kitô. Vì thế, các Giáo phụ dựa trên tín lý phẩm chức Thiên mẫu của Mẹ Maria để phá tan lạc thuyết này rằng Đức Trinh Nữ không thể là Mẹ nếu không có Con. Và Người không có Con, nếu Chúa Giêsu chỉ là một bóng ma. Giáo phụ Tertulianô bác bỏ Marcion người lạc giáo: "Mục đích phủ nhận thân xác Chúa Kitô, ông chối bỏ việc Người sinh ra. Hay là để chối bỏ việc Người sinh ra, ông phủ nhận thân xác Chúa. Thân xác và sự đản sinh làm chứng lẫn nhau: Không có sự đản sinh thì cũng không có thân xác. Hoặc là không có thân xác thì không có sự đản sinh.
Thế kỷ III và thế kỷ IV, các thánh Giáo phụ đều đồng thanh cao rao chúc tụng Mẹ Thiên Chúa. Năm 325, Công đồng Nicêa I lên án lạc giáo Ariô, đồng thời định tín Ngôi Lời đồng bản thể với Đức Chúa Cha, và đặt kinh Tin kính (gọi là kinh Tin kính Nicêa đọc trong thánh lễ). Tín điều này chứng minh Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật, cùng với tín lý Mẹ Thiên Chúa của các thánh Giáo phụ sẽ mở đường cho tín điều Mẹ Thiên Chúa của Công đồng Ephêsô sau này.
Công đồng Vatican II (1962-1965) dạy: "Từ muôn đời, Đức Trinh Nữ đã được tiền định làm Mẹ Thiên Chúa cùng một lúc với việc Nhập Thể của Ngôi Lời Thiên Chúa ... Đức Trinh Nữ nhờ ơn huệ và vai trò làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ được hợp nhất với Con Mẹ là Đấng Cứu Chuộc và hiệp nhất với Giáo Hội. Mẹ Thiên Chúa là mẫu mực của Giáo Hội trên bình diện đức tin, đức ái và hoàn toàn hiệp nhất với Chúa Kitô".
Nhờ Giáo huấn của Giáo Hội và lời giảng dạy của các Thánh giáo phụ, các Thánh tiến sĩ và các nhà thần học, giáo dân trong khắp Giáo Hội mỗi ngày thêm vững tin tín điều Mẹ Thiên Chúa.
Mẹ Thiên Chúa là Mẹ của Lời Hứa, Mẹ của Giao Ước mới, Mẹ của Ơn Cứu Độ trần gian mà Thiên Chúa đã hứa, đã trao ban cho con người tự ngàn xưa qua miệng các ngôn sứ, cách riêng qua những khẳng định của các thánh, đặc biệt nơi các thánh tông đồ.
Thánh Phao lô đã khẳng định với ta về Giao Ước mới: Nhưng khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử.
Không chỉ ở đây, trong nhiều đoạn thư, thánh Phaolô cũng đã khẳng định về ơn nghĩa tử mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta:
“Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người. Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô”. (Ep 1, 4-5)
“Vì những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc”. (Rm 8, 29. 29)
Trước khi tạo thành vũ trụ, Cha đã tiền định cho chúng con làm “nghĩa tử”. Nhưng Cha không muốn chúng con chỉ hưởng quyền đồng thừa kế với Đức Giê-su (Rm 8, 17) mà còn muốn chúng con nên giống Cha (Ep 1, 4), nên đồng hình đồng dạng với Người Con Ruột của Cha (Rm 8, 29)
"Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người. Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử, nhờ Đức Giêsu Kitô. Để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu”. (Ep 1, 4-6)
Ta thấy Thánh Gioan tông đồ cũng đã khẳng định về ân huệ làm con mà Thiên Chúa dành cho chúng ta:
“Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. họ được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa”. (Ga 1, 12.13)
“Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa – mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa. Sở dĩ thế gian không nhận biêt chúng ta, là vì thế gian đã không biêt Người. Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biêt rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy”. (1 Ga 3, 1-2).
Trước khi có trời đất này Cha đã chọn ta để ta trở nên tinh tuyền thánh thiện. Trước khi ta có mặt trên hành tinh này, Cha đã tiền định cho ta làm con Cha. Cho nên không phải vì ta có công trạng gì mà Cha thương ta. Cha yêu ta chỉ do lòng nhân ái của Cha, chỉ do tình thương nhưng không của Cha, bởi vì Cha là tình yêu. Cha thương ta bởi vì ta ở trong người Con Chí Ái là Đức Kitô. Vì Cha thương ta mà ta trở thành quý giá trước mặt Cha.
Ân huệ lớn nhất đời của ta phải chăng đó là được làm con của Mẹ Maria, là em của anh Hai Giêsu ?
Theo Gioan, chúng ta được làm con em Chúa Giêsu, là con của Mẹ Maria thì ta phải tin (Ga 1, 12) và phải yêu (1 Ga 4, 7).
Nhìn lại cuộc đời của Mẹ Maria ngày hôm nay mà ta tôn kính với đặc ân mà Thiên Chúa ban cho Mẹ - như Giáo Hội cũng như các môn đệ đã xác tín - chúng ta lại thấy rằng cả cuộc đời của Mẹ vẫn gói ghém trong niềm tin và tình yêu với Thiên Chúa. Mẹ tin yêu Chúa bằng cả cuộc đời, bằng cả tấm lòng, bằng cả con người, bằng cả tâm hồn của mẹ.
Trang Tin Mừng rất ngắn Thánh Luca điểm lại cho ta về Mẹ rất độc đáo, rất dễ thương và cũng rất đáng để ta suy nghĩ: còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng.
Và, cả cuộc đời, Mẹ sống trong lắng đọng để Mẹ suy đi nghĩ lại tình yêu, lòng thương xót mà Thiên Chúa trao ban cho Mẹ để Mẹ được ơn là Mẹ của Thiên Chúa, Mẹ của Đấng Cứu Độ.
Ngày hôm nay, Mừng Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, ta lại được mời gọi nhìn lại đời ta. Ta được Thiên Chúa trao ban ân huệ làm con của Lời Hứa, của Đấng Cứu Độ trần gian và là em của anh Trưởng Giêsu. Mẹ Maria dù được là Mẹ Thiên Chúa đó nhưng Mẹ
"Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh". Mẹ Maria khiêm hạ, lắng đọng để tin yêu và phó thác cuộc đời trong tay Chúa dù Mẹ là Mẹ của Thiên Chúa, Mẹ của Ơn Cứu Độ.
Chúng ta là nghĩa tử của anh Trưởng Giêsu, cũng là con của Mẹ Maria.
Người ta vẫn thường nói: "Mẹ nào con nấy !". Mẹ Thiên Chúa, Mẹ của ta đó luôn suy niệm Lời Chúa, suy niệm tình thương mà Thiên Chúa tuôn đổ trên Mẹ. Dù ai nói ngả nói nghiêng và thậm chí chà đạp, phỉ báng Mẹ, chê cười nhưng Mẹ vẫn lặng lẽ để suy đi nghĩ lại tình thương và ân huệ của Chúa dành cho Mẹ. Ta có suy đi nghĩ lại trong lòng ân huệ, tình thương mà Thiên Chúa trao ban cho ta hay không ?
Khi ta ồn ào náo động, khi ta hơn thua tranh giành, khi ta bấu víu vào thế gian cũng là khi ta không nhận ra Ơn Cứu Độ, không nhận ra Thiên Chúa là Chúa và là Chủ của cuộc đời ta. Khi ấy, ta cũng chẳng là con của Mẹ.
Ta vẫn gọi Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, ta vẫn nói Mẹ là Mẹ của ta nhưng để lời gọi, lời nói, lời tuyên tín đó được trọn hảo, được thể hiện bằng cách ta sống tâm tình mà Mẹ đã sống đó là suy đi nghĩ lại ân huệ, tình thương mà Thiên Chúa trao ban cho ta.
Xin Mẹ thêm ơn cho ta để ta cũng biết sống giữa cuộc đời đầy bon chen, sóng gió này mà lòng vẫn bình tâm để lặng lẽ, để suy đi nghĩ lại ân huệ Chúa ban cho ta như Mẹ.
Giây phút long trọng nhất trong đời Đức Mẹ là giây phút Ngôi Hai xuống thai trong lòng Đức Mẹ. Từ giây phút ấy, Đức Mẹ trở nên Mẹ Thiên Chúa: Đây là tín điều Công đồng Êphêsô đã tuyên bố ngay thời kỳ Giáo Hội sơ khai.
- Ta phải hiểu chân lý này thế nào?
Đức Maria không phải là Mẹ sinh ra Thiên Chúa tự hữu hằng có đời đời, không phải là mẹ cá nhân kết hợp với Thiên Chúa, cũng không phải là mẹ bản tính loài người có hồn xác của Chúa Giêsu, mà chỉ là Mẹ thân xác Chúa Giêsu; cũng như các bà mẹ khác chỉ sinh con về phần xác không sinh ra linh hồn đứa con. Văn hóa Đông phương cũng xác nhận điều này: cha mẹ sinh con trời sinh tính. Tính không phải là tính nết thường, nhưng có ý sâu sắc hơn, đó là bản tính, tính mệnh “Thiên mệnh chi vị tính” - Tính trời phú cho đó là linh hồn.
Tuy các bà chỉ sinh thân xác đứa con, nhưng cũng thực là mẹ đứa con. Cũng vậy, Đức Mẹ, tuy chỉ sinh thân xác Chúa Giêsu, nhưng cũng thực là mẹ Chúa Giêsu, mà Chúa Giêsu là Thiên Chúa nên Đức Maria cũng là Mẹ Thiên Chúa. Năm 431 công đồng Ephesô đã long trọng tuyên bố: “Nếu ai chối Đức Giêsu là Thiên Chúa, và bởi đó chối Đức Thánh nữ Đồng trinh Maria là Mẹ Thiên Chúa vì người đã sinh ra thân xác Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, thì bị vạ tuyệt thông.” Thật là vinh phúc cao trọng nhất cho Đức Mẹ, không ai trong loài người sánh ví được. Chính vì thế Giáo Hội đã mừng lễ này vào ngày thứ nhất trong năm, đứng đầu các lễ các thánh.
- Hạnh phúc đó do đâu?
Hoàn toàn do Thiên Chúa ban “vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta”
Thiên Chúa không muốn dựng nên thân xác thần hiện nào khác, nhưng dùng chính thân xác từ trong loài người để cứu độ loài người. Ví như muốn cứu người ăn mày có hai cách: một là cho tiền, gạo để ăn chơi nhàn rỗi, hai là dạy cho họ có công ăn việc làm để họ dùng chính khả năng họ làm ăn. Cách thứ hai rất khó nhưng chắc chắn có giá trị lâu dài và giá trị tự do hưởng ứng của họ. Cũng thế, Thiên Chúa đã dùng chính khả năng con người trong Đức Mẹ hợp tác với Chúa để cứu loài người.
Tới đây, chúng ta hiểu được một chút sự lạ lùng của Thiên Chúa cứu độ loài người với sự tham gia của Đức Mẹ. Đức Mẹ đã trọn đời dâng hiến toàn thân cho Chúa, một thân xác đồng trinh, vô nhiễm nguyên tội để Ngôi Hai xuống thế làm người cứu chuộc chúng ta, một sự lạ lùng gấp bội phép lạ bánh hóa nhiều, và giống như Chúa đã dùng bánh và rượu để biến thành Mình và Máu Thánh Chúa.
Lạy Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa, xin cho cha mẹ chúng con hiểu biết thiên chức cao trọng làm cha mẹ, tuy chỉ sinh con phần xác ở đời này, nhưng lại được làm cha mẹ cả phần hồn, phần thiêng liêng đến muôn đời. Xin cho các ngài biết cố gắng giáo dục con cháu "ngày càng lớn lên, mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và được ân nghĩa cùng Thiên Chúa" như Chúa Giêsu con Mẹ. Xin Chúa cho chúng con biết noi gương Đức Mẹ dâng lòng mến, dâng sự hy sinh hàng ngày lên Chúa nhờ sự cầu bầu của Đức Mẹ biến đổi con người chúng con nên con thảo của Mẹ, xứng đáng được ơn phúc cứu độ muôn đời của Chúa Giêsu Con Mẹ.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Tám ngày sau lễ sinh nhật của Đức Giêsu Chúa chúng ta, Giáo hội mời gọi con cái mình cử hành lễ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa với tất cả lòng kính trọng và biết ơn, vì nhờ Mẹ, Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho chúng ta.
Đức Maria đã được các giáo phụ ca ngợi, đặc biệt là thánh Ambrôsiô thành Milan (thế kỷ IV) khi nói: "Đức Maria là Đền Thờ của Thiên Chúa chứ không phải Thiên Chúa của Đền Thờ". Thánh Ignatiô thành Antiokia (+ 110) là người đầu tiên nên tên Đức Maria sau các sách Tin Mừng: "Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô đã được Đức Maria cưu mang trong lòng theo nhiệm cục cứu độ" và " Đức Giêsu cũng được sinh ra bởi Đức Maria và bởi Thiên Chúa".
Tại Đông phương, kể từ năm 350, người ta đã gán cho Đức Maria tước hiệu là "Mẹ Thiên Chúa", tuyên dương Mẹ là " Mẹ của Ngôi Lời Nhập Thể ". Như thánh Grégoire de Nazianze (330 – 390) đã viết: "Đức Kitô sinh bởi một Trinh Nữ, người nữ ấy là Mẹ Chúa Kitô".
Khi giáo chủ Constantinople là Nettôriô công khai chối bỏ thiên chức Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, thì Công đồng Chung Êphêsô (431) đã đuợc triệu tập và tuyên bố tín điều "Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa". Đó là danh xưng cao trọng nhất của Đức Maria, chính phẩm chức cao cả này là nền tảng mỗi đặc ân khác dành cho Mẹ. Công đồng Vaticanô II đã trình bày các đặc ân liên kết với phẩm chức Thiên Chúa như sau: "Không có gì lạ, nếu các giáo phụ đã thường xưng tụng Mẹ là Đấng toàn thánh, không vương nhiễm một tội nào, như một tạo vật mới do Chúa Thánh Thần uốn nắn và tác thành. Tràn đầy thánh thiện, có một không hai ngay từ lúc thụ thai, Đức Trinh Nữ thành Nazareth được Thiên thần vâng lệnh Chúa đến truyền tin và đã kính chào là "Đầy ơn phước" (Lc. 1,28). (GH.59).
Thánh Phaolô viết: "Khi đã đến lúc thời gian đầy đủ, Thiên Chúa đã sai Con Ngài sinh hạ bởi người phụ nữ, sinh dưới chế độ Luật, để cứu chuộc những người ở dưới chế độ Luật, hầu cho chúng ta được nhận làm dưỡng tử... mà nếu là con, tất bạn cũng là người thừa kế, nhờ ơn Thiên Chúa" (Gl 4, 4-7). Như thế, chúng ta dưỡng tử của Thiên Chúa và đồng thừa tự với Đức Kitô nhờ ơn Thiên Chúa. Lại nữa, Hội Thánh là Thân Thể của Chúa Kitô, Đức Maria đã là Mẹ Chúa Kitô, Đấng là Đầu của Thân Thể, thì Mẹ cũng là Mẹ của Thân Thể, Mẹ Hội Thánh, Hội Thánh được cấu thành bởi những con người chúng ta, nên Mẹ cũng là Mẹ của mỗi người chúng ta. Vì thế trong Giáo Hội, Đức Trinh Nữ Maria được kêu cầu qua các tước hiệu: trạng sư, vị bảo trợ, Đấng phù hộ và Đấng Trung gian" (GH.62)
Ngày 21/11/1964, Đức Phaolô VI long trọng tuyên bố Đức Maria Là Mẹ Hội Thánh: "Để vinh danh Đức Trinh Nữ và để chúng ta được an ủi, chúng tôi tuyên bố Rất Thánh Maria là Mẹ Hội Thánh, tức là Mẹ của toàn thể Dân Kitô Giáo, cả giáo dân lẫn mục tử, thành phần gọi Người là một Người Mẹ rất yêu dấu; và vì thế chúng tôi truyền cho toàn thể Dân Kitô Giáo hãy dâng lên Mẹ Thiên Chúa một niềm kính tôn hơn nữa và hãy nguyện cầu cùng Người bằng tên gọi rất ngọt ngào này". Và việc Đức Phaolô VI đã "công bố" và "truyền" làm như thế không phải chỉ bằng một văn kiện, mà là bằng lời nói sống động ngay trước mặt toàn thể hàng giáo phẩm thế giới đang tham dự Công Đồng Chung bấy giờ, thành phần đại diện cho toàn thể Dân Chúa.
Đó là những lý do Giáo Hội thúc dục con cái mình cầu nguyện với Mẹ: "Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử". Như vậy, long trọng mừng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, chúng ta hãy tỏ một niềm tin vững chắc vào vai trò của Mẹ trong chương trình cứu rỗi nhân loại. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa vì Ngài đã sinh ra cho chúng ta Thiên Chúa cứu chuộc.
Trong ngày đầu năm mới và cũng là Ngày Quốc Tế Hòa Bình, chúng ta vui mừng cử hành lễ Đức Maria rất thánh, Mẹ Thiên Chúa. Cả hai sự kiện này cùng diễn ra khi chúng ta đang cử hành Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, Vua Thái Bình (Is 9, 5) sinh hạ bởi Đức Trinh Nữ Maria, hòa bình đích thực của chúng ta! Chúng ta mượn lời sách Dân Số mà cầu chúc cho nhau: "Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh chị em" (x. Ds 6,26). Còn món quà nào cao quí hơn là chính Con Thiên Chúa, Đấng là Hoàng Tử Bình An được Chúa Cha ban tặng cho chúng ta. Vì tình yêu Thiên Chúa đã "ban Người Con duy nhất của Ngài" cho nhân loại (Ga 3,16). Thiên Chúa đã nhận lấy dung mạo của một con người và Thiên Chúa tỏ dung mạo của Ngài trong Người Con của Đức Trinh Nữ Maria.
Thiên Chúa từ trời cao đã giáng trần và cư ngụ trong lòng Mẹ và nhập thể trong Người Con mà Mẹ đang ẵm trên tay. Mẹ bồng Hài Nhi Giêsu, con nhìn mẹ và mẹ nhìn con âu yếm. Đức Maria trong thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa, và là Mẹ chúng ta, luôn đồng hành để dẫn chúng ta về với Thiên Chúa. Bước theo Mẹ trong cuộc sống của lòng tin bằng thái độ tín thác vào Chúa, hoàn toàn vâng phục thánh ý Ngài, chúng ta sẽ được Mẹ dìu đưa đến với Chúa, đến Nước Trời. Mẹ mời gọi chúng ta mở lòng đón nhận Chúa Giêsu, cưu mang Người bằng cách lắng nghe và sống theo Lời Người, để thực sự trở nên người có phúc, người thân của Chúa như Mẹ.
Mừng lễ Mẹ hôm nay, với trọn niềm tin tưởng, mến yêu, chúng ta hãy phó thác cho Mẹ thế giới này, đất nước ta, gia đình ta. Hãy để Mẹ hiện diện để yêu thương, chăm sóc và dẫn dắt chúng ta sống theo ý Chúa. Hãy hết lòng yêu Mẹ bằng tình con thảo hiếu!
Nhờ Mẹ cầu bầu, xin cho cuộc đời mỗi nguời chúng ta được đổ đầy bình an của Chúa trong năm mới này, để chúng ta cũng trở nên những người xây đắp an bình cho gia đình, cho mọi người bằng đời sống tin yêu phó thác vào Chúa và quên mình phục vụ tha nhân như Mẹ. Ước gì chúng ta không chỉ thành khẩn thưa lên với Mẹ bằng lời, mà bằng trọn cả con tim và cuộc sống chúng ta: "Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con, là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử. Amen."
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Mỗi khi đọc kinh kính mừng, chúng ta đều thưa lên cùng Mẹ: Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử. Khi chúng ta thưa cùng Mẹ điều đó, là chúng ta ý thức thân phận yếu đuối, mỏng dòn của mình thường hay sa đi ngã lại trong những lầm lỗi tội lỗi. Đồng thời cũng nói lên sự phó thác cậy trông nơi Mẹ, là Mẹ của Thiên Chúa và cũng là Mẹ chúng ta.
Vâng, khi nhập thể làm người Chúa Giêsu cũng được sinh ra từ một người mẹ, và suốt cuộc sống của Chúa Giêsu dường như luôn có bóng dáng của mẹ hiện diện để khích lệ, an ủi, nhất là trong lúc chịu đau thương trên thập giá. Mẹ đã ở bên Chúa, cùng hiệp thông trong đau khổ với Chúa để cứu độ trần gian. Có lẽ vì muốn chúng ta được sống trong tình mẫu tử của Mẹ, Chúa Giêsu đã trao ban Đức Mẹ cho chúng ta, khi Chúa nói với Gioan: "Đây là Mẹ của con", và thánh kinh đã ghi lại: "kể từ lúc đó, người môn đệ Chúa yêu đã đón Mẹ về nhà của mình".
Thánh Gioan đã đại diện cho nhân loại để nhận Mẹ làm Mẹ của chúng sinh. Từ nay Mẹ sẽ tiếp tục nâng đỡ chúng ta. Mẹ sẽ tiếp tục yêu thương chúng ta. Mẹ sẽ tiếp tục hiện diện trong cuộc đời chúng ta để chăm sóc, lo lắng và chở che cuộc đời chúng ta. Chúng ta có thể cảm nghiệm về tình Mẹ Thiên quốc qua hình ảnh người mẹ trần thế. Mẹ trần thế yêu thương con đến nỗi dám đánh mất chính mình cho con được lớn lên thế nào, thì người mẹ thiên quốc cũng lo cái lo của con cái dưới thế, cũng đau vời đau đau của nhân loại, cũng sẵn sàng làm tất cả đế cứu vớt nhân loại lầm than. Có lẽ ai trong chúng ta cũng thuộc lòng bài ca dao "Con cò ăn đêm" mà các bà mẹ thường hay hát ru con:
"Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
Ông ơi, ông vớt tôi vào
Tôi có lòng nào ông hãy xào măng
Có xào thì xào nước trong
Đừng xào nước đục đau lòng cò con"
Bài thơ thật ngắn gọn nhưng diễn tả về tình yêu của một người mẹ đơn côi, lặn lội nơi bến chợ, bất chấp tất cả khó khăn cực nhọc để kiếm tiền nuôi con, kể cả việc phải đi ăn đêm. Nếu số phận có đun rủi bà phải rơi xuống hố sâu lầm lỗi, bà sẵn sàng chịu mọi sự trừng phạt miễn là ông trời hãy thương lấy đàn con, gìn giữ nó được sống trong danh dự mà đoạn kết đã diễn tả: "Đừng xào nước đục đau lòng cò con". Nghĩa là người mẹ sẵn sàng chịu mọi oan ức, mọi niềm đắng cay, nhưng miễn sao con của bà đừng bị người đời trừng phạt bởi lầm lỗi của bà, đừng bị người đời khinh chê vì những đoạn trường đắng cay của mẹ.
Tình yêu của người mẹ là thế! Bà sẵn sàng hy sinh tất cả miền là đoàn con được hạnh phúc. Trong đời sống thiêng liêng chúng ta cũng có một người mẹ là Đức Maria, Mẹ của Chúa Giêsu đã được ban cho chúng ta qua thánh Gioan. Ước gì mỗi người chúng ta cũng biết đón Mẹ về nhà cuộc đời chúng ta, để chia sẻ những vui buồn trong gia đình chúng ta. Ước gì chúng ta biết trân trọng gìn giữ Mẹ như bảo ngọc châu báu mà Chúa đã ban cho chúng ta, đừng để mất Mẹ, vì mất Mẹ là mất cả bầu trời. Ước gì mỗi người chúng ta biết tin tưởng phó dâng cuộc sống gia đình của mình cho Mẹ và biết dành một vài giây phút trong ngày để thưa lên cùng Mẹ. Thánh Maria Đức Mẹ Chúa cầu cho chúng con hôm nay và trong giờ lâm tử. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Một chàng thanh niên nọ có tính khoe khoang. Ngày kia sắm được một chiếc áo mới, từ sáng sớm anh ta đã mặc chiếc áo đó và đứng ở ngã ba đường. Kẻ qua, người lại rất đông, thế nhưng chẳng có ai chú ý đến và khen anh lấy một tiếng. Cuối cùng, có một người đàn ông đến gần anh và bảo: “Anh có thấy con bò của tôi bị lạc chạy qua đây không?" Được dịp có người hỏi đến mình, anh trả lời: “Tôi mặc chiếc áo này từ sáng đến giờ, mà chẳng thấy con bò nào chạy qua đây cả.”
Thái độ trên đây của người thanh niên trái hẳn với thái độ của Đức Maria, như bài Tin mừng hôm nay thuật lại: “Người giữ kỹ mọi điều ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng.” Đức Maria đã thinh lặng không chỉ lúc này, nhưng trong suốt cuộc đời Người. Được làm Mẹ Thiên Chúa, nhưng chung quanh Người, chẳng có mấy ai biết đến tước hiệu này. Nếu vinh quang Thiên Chúa xuất hiện và các mục đồng không ngớt lời ngợi khen thì Người chỉ ghi nhớ và suy niệm trong lòng. Tại Cana, Người đã nhẹ nhàng báo cho Chúa Giêsu biết bữa tiệc không còn rượu nữa. Trong cuộc đời công khai của Chúa, Người đã âm thầm theo bước chân con. Và bên Thánh giá, trong nỗi đau đớn tột cùng, Người đã chứng kiến những giờ phút cuối cùng của con. Có thể nói Người đã sống tâm tình của một nữ tì khiêm tốn, Người chỉ muốn được phục vụ trong âm thầm, còn vinh quang danh dự thì Người xin dành cho người khác.
Trong một thế giới có quá nhiều tiếng động: tiếng động của bom đạn, của tranh chấp, của bạo lực, chúng ta hãy bắt chước thái độ thinh lặng và lắng nghe của Đức Maria, nhờ đó chúng ta sẽ tìm được bình an trong tâm hồn và tạo được hoà khí trong tương quan với tha nhân.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Hài đồng Giêsu, Chúa có một người Mẹ thật tuyệt vời. Một người Mẹ cho Chúa dòng sữa, cho Chúa tình thương. Một người Mẹ đã nói lời xin vâng bằng cả cuộc đời dấn thân cho chương trình Thiên Chúa Cha được nên trọn. Một người Mẹ hằng đẹp lòng Thiên Chúa Cha và được mọi ân huệ lớn lao đến nỗi là người có phúc hơn mọi người nữ.
Người Mẹ đó Chúa đã tặng ban cho nhân loại chúng con. Qua Môn đệ Gioan, Mẹ Maria đã nhận chúng con là con cái của mẹ. Mẹ đã đi vào trong từng cuộc đời chúng con. Mẹ vẫn đang đồng hành để chia sẻ buồn vui trong kiếp người chúng con. Chúng con xin cám ơn Chúa đã ban Mẹ Maria cho chúng con. Xin cho chúng con luôn chạy đến cùng Mẹ, luôn nương nhờ ơn phước của Mẹ, để nhờ Mẹ chúng con được đón nhận ơn lành của Chúa.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ là người có phước hơn mọi người nữ vì mẹ luôn lắng nghe và thực thi Lời Chúa. Xin Mẹ dạy chúng con biết noi gương Mẹ để sống theo lời Chúa. Xin cho cuộc đời chúng con luôn được ướp mặn bằng những trang tin mừng, để chúng con hiểu được thánh ý Chúa trong từng biến cố cuộc đời. Xin cho các gia đình luôn biết siêng năng đọc lời Chúa và thực thi khởi đi từ chính gia đình chúng con. Xin Mẹ luôn viếng thăm gia đình chúng con để hàn gắn những đổ vỡ, bất hòa đang làm mất đi sự êm ấm của gia đình. Xin Mẹ luôn hiện diện để nâng đỡ gia đình chúng con khi gặp những bất hạnh, rủi ro. Xin vực dậy niềm tin nơi những ai đang thất vọng, giúp họ vượt qua những khó khăn trong niềm tin vào Chúa như Mẹ đã từng bước đi trong niềm tin tuyệt đối vào sự quan phòng Chúa.
Lạy Mẹ Maria, hôm nay khởi đầu năm mới, chúng con xin phó dâng gia đình chúng con cho Mẹ, để nhờ lời cầu bầu của Mẹ, xin Chúa nâng đỡ những gia đình đang đổ vỡ. Biết bao nhiêu niềm tin đang bị đánh mất từ những người thân trong gia đình. Cha mẹ thiếu tin tưởng nhau. Con cái đánh mất niềm tin nơi cha mẹ. Vợ chồng bất trung với nhau. Bạn bè bất tín với nhau. Biết bao sự dữ đang tung hoành khắp nơi, khiến nhiều người rơi vào thất vọng, tủi hổ và đắng cay. Xin nhờ Mẹ chuyển cầu để tình thương Chúa gìn giữ các gia đình. Xin nhờ ơn phước của Mẹ ngõ hầu chúng con được nhận lãnh ơn lành của Chúa. Amen.
Có một nhóm giáo dân trong một thành phố nhỏ quyết định làm một máng cỏ giáng sinh ở công trường. Họ đi xin những người hảo tâm giúp đỡ. Đứng đầu danh sách những người hảo tâm là ông chủ bút một tờ tuần báo địa phương. Ông ta ủng hộ việc này cho tới lúc cha sở phát biểu. Nhiều người, nhất là trẻ em sẽ phấn khởi nhìn thấy Chúa Hài Nhi, Đức Mẹ, thánh Giuse và cả những con vật nữa, ở đây ngay tại trung tâm thành phố. Thế nhưng, ông chủ bút liền kêu to:
- Không, phải bỏ Đức Mẹ đi, đừng có bày đặt lắm chuyện làm chi.
Cha sở nghe vậy bèn nói với ông ta:
- Ông bảo gì vậy? Ông thử nói cho tôi hay: Một người sinh ra mà lại không do người mẹ, thì tôi sẽ đồng ý bỏ Đức Mẹ. Đức Mẹ phải ở với Con mình trong công trường thành phố. Tại sao không?
Đúng thế, Mẹ đã ở với Chúa Giêsu ngay từ lúc Ngài được dựng thai cho tới khi Ngài lên trời và Mẹ còn liên kết với Ngài trong suốt dòng lịch sử. Vì thế, chúng ta không thể tưởng nghĩ tới Chúa Giêsu mà không tưởng nghĩ Mẹ Ngài. Cũng như chúng ta không thể tưởng nghĩ đến một em bé mà không tưởng nghĩ đến người mẹ của em.
Chúa Giêsu là người thật nhưng cũng là Thiên Chúa thật. Đức Maria là Mẹ của Thiên Chúa làm người, theo ý nghĩa là con trẻ Mẹ sinh ra có bản tính Thiên Chúa và bản tính con người.
Ngày đầu năm dương lịch, Giáo hội muốn chúng ta tôn vinh Mẹ Thiên Chúa. Bởi vì không ai xứng đáng được gọi là mẹ sự sống cho bằng Mẹ Thiên Chúa. Mẹ đã ban sự sống nhân loại cho Chúa Giêsu, Đấng đã nói: Tôi đến cho người ta được sống và sống dồi dào. Một đời sống thể lý tốt đẹp hơn, một đời sống tinh thần tốt đẹp hơn. Điều đó sẽ làm cho mọi người được hạnh phúc trong năm mới. Chúng ta phải chú trọng giá trị của sự sống. Những vụ tàn sát, những tai nạn xe cộ, những cuộc chiến và đói kém đã cướp đi hàng trăm ngàn cuộc sống. Sự sống đã trở thành rẻ mạt. Một cuộc nghiên cứu mới đây cho biết: trẻ em Hoa Kỳ ở vào tuổi 17 đã xem 18.000 vụ tàn sát qua truyền hình. Đồng thời trong năm mới này có biết bao nhiêu bà mẹ, thay vì cho con cái mình sự sống, thì đã giết chúng bằng những vụ phá thai. Vì thế, chúng ta cần đến một người mẹ cao siêu để chấm dứt sự tàn sát này. Bước sang năm mới, Mẹ Thiên Chúa làm người, sẵn sàng cứu giúp mọi bà mẹ để trao ban sự sống thay vì huỷ diệt nó đi. Mẹ cũng sẵn sàng xin được nơi người Con của mình một sự sống tinh thần mạnh mẽ hơn, một sự sống được tiếp tục ngay cả sau cái chết thể xác. Sự sống mà người Con của Mẹ đã ban cho chúng ta một cách dồi dào trong thánh lễ và trong các bí tích. Một sự sống ngập tràn hạnh phúc mà chúng ta sẽ cầu chúc cho nhau trong năm mới này.
Trong một bài giảng, vị linh mục đã nêu lên câu hỏi.
- Vậy Đức Maria là ai?
Mọi người đều thinh lặng không một ai đã trả lời. Ngài lại hỏi thêm một lần nữa:
- Vậy ai có thể nói cho tôi hay Đức Maria là ai?
Sau cùng một bà già đã trả lời:
- Thưa cha, Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa.
Vị linh mục nói:
- Đúng lắm, Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, nhưng tôi muốn biết ngài còn là ai nữa?
Tiếp theo là những câu trả lời khác nhau:
- Mẹ là Nữ vương thiên đàng, là nơi ẩn náu của kẻ tội lỗi…
Vị linh mục mỉm cười và bảo:
- Đúng lắm, tất cả đều đúng nhưng chưa đủ, bởi vì Đức Maria còn là Mẹ tôi nữa.
Vâng, Đức Maria là Mẹ chúng ta. Trên thế gian, chúng ta không một ai đã yêu thương chúng ta, không một ai đã sẵn sàng lắng nghe chúng ta kêu cầu, cảm thông và giúp đỡ chúng ta trong mọi hoàn cảnh như Mẹ.
Hôm nay, ngày đầu năm dương lịch, chúng ta mừng kính Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Chúng ta phó thác năm mới này cho Mẹ để xin Me nâng đỡ chở che.
Sở dĩ chúng ta biết Đức Maria là Me Thiên Chúa, bởi vì Đức Maria là Mẹ của Chúa Giêsu. Đồng thời chúng ta cũng tin rằng Chúa Giêsu vừa là người vừa là Thiên Chúa. Bởi đó, một khi đã là Mẹ của Chúa Giêsu, thì Đức Maria cũng là Mẹ của Thiên Chúa làm người. Không ai được nói rằng Đức Maria đã sinh ra thiên tính của Chúa Giêsu. Nhưng chúng ta chỉ đơn giản tuyên xưng rằng Đức Maria là Mẹ của Chúa Giêsu, Đấng vừa là người lại vừa là Thiên Chúa. Từ đó chúng ta có thể đi tới một kết luận quan trọng như sau:
Vì là Mẹ của Thiên Chúa làm người cho nên Đức Maria cũng là Mẹ thật của mỗi người chúng ta. Trong lòng Giáo hội, gia đình của Thiên Chúa thì Đức Kitô là anh cả còn chúng ta là những người em. Một khi Đức Maria đã là Mẹ của Chúa Giêsu thì ngài cũng là Mẹ của chúng ta nữa.
Vậy chúng ta phải làm gì để khởi đầu cho năm mới 2008 này? Nếu không có Mẹ Maria thì không có sự sống. Vì thế, ngay cả Chúa Giêsu cũng phải có Mẹ. Nếu cuộc sống con người khởi đầu từ người mẹ, thì mỗi chặng đường đời của chúng ta., chẳng hạn một năm mới, cũng khởi đầu với Đức Maria: Mẹ Thiên Chúa và Mẹ chúng ta.
Người mẹ đón nhận con mình mỗi buổi sáng, Đức Maria đón nhận chúng ta ngày đầu năm, Mẹ nghiêng mình trên chúng ta, nuôi dưỡng, bao bọc và chạy chữa chúng ta cùng với biết bao biểu lộ của yêu thương và trìu mến.
Người mẹ làm cho ngày mới của đứa con có một ý nghĩa, thì Đức Maria cũng làm cho năm mới của chúng ta có một ý nghĩa.
Để kết luận chúng ta hãy xin Mẹ Maria cầu bầu cho chúng ta hôm nay, ngày đầu năm mới và suốt cả những tháng ngày kế tiếp, để trong năm mới nay, chúng ta sẽ sống gắn bó với Chúa và Mẹ. Như thế, năm mới này sẽ là một năm bình an và hạnh phúc. Đó cũng là lời cầu chúc tôi xin gửi đến với anh chị em.
Hôm nay chúng ta mừng kính lễ Mẹ Thiên Chúa, chúng ta cầu nguyện cho nền hòa bình thế giới, và chúng ta chính thức bước vào năm mới 2012.
Khởi đầu thế kỷ 21, chúng ta đã được chứng giám việc khủng bố chiếm máy bay và đâm vào tòa tháp đôi tại Nữu Ước. Rồi từ đó, chiến tranh bùng nổ tại Afghanistan, tại Irak, khủng bố dường như có mặt ở khắp nơi. Và gần đây những cuộc thử hạt nhân ở Iran và Triều Tiên, đã làm cho thế giới nóng lên vì hận thù, vì chiến tranh.
Chính vì thế, trong tinh thần liên đới và ý thức rằng: Hòa bình là một hồng ân của Thiên Chúa, chúng ta hãy hiệp ý cầu nguyện cho yêu thương được ngự trị, cho oán thù được tiêu tan, cho mọi người biết tha thứ và yêu thương nhau như chính bản thân mình. Tất cả những ý nguyện ấy như một âm vang của lời kinh hòa bình: Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm.
Lời kinh này là của thánh Phanxicô Assie, một người được cả thế giới chọn làm biểu tượng của hòa bình, bởi vì ngài là một người nghèo khó đích thực của Thiên Chúa. Có lẽ ai trong chúng ta cũng còn nhớ cái giai thoại sau đây:
Vì đã đem hết gia tài phân phát cho kẻ nghèo đói, nên ngài đã bị người cha đem ra tòa, đòi phải từ bỏ mọi tài sản mà gia đình muốn để lại. Không một chút do dự, Phanxicô đã trút bỏ áo quần để trả lại cho người cha như một biểu tượng của tài sản cuối cùng mà ngài nhận được từ gia đình. Và cũng từ đó, Phanxicô đã trở thành người nghèo khó đích thực của Thiên Chúa.
Thế nhưng, ngài có tất cả mọi sự, bởi vì ngài có Thiên Chúa làm gia nghiệp. Một khi đã có Thiên Chúa thì ngài cũng có được niềm vui trọn vẹn. Cho nên, ngài không những có sự bình thản trong tâm hồn mà còn có sự hòa hợp với người khác và ngay cả với thiên nhiên. Hòa bình trong chính bản thân, hòa bình với tha nhân đó chính là cái lý tưởng mà ngài đã để lại cho thế giới.
Chúng ta cũng hãy chiêm ngưỡng Mẹ Maria, Nữ Vương Hòa Bình. Giáo hội có thói quen cử hành ngày hòa bình thế giới vào ngày đầu năm dương lịch kính Mẹ Thiên Chúa. Sở dĩ chúng ta gọi Mẹ là Nữ Vương Hòa Bình, bởi vì Mẹ là người nữ tì khiêm hạ và khó nghèo của Thiên Chúa. Mẹ đã trút bỏ mọi sự để trở thành trống rỗng và rồi được chính Thiên Chúa lấp đầy.
Như thế, người xây dựng hòa bình là người được Thiên Chúa lấp đầy tâm hồn mình. Cũng như Mẹ Maria và thánh Phanxicô, chúng ta cũng được mời gọi trút bỏ mọi sự. Tinh thần nghèo khó đích thực cũng chính là một thể hiện của tinh thần hòa bình. Bởi vì, khi con người không còn màng đến bất cứ một thứ riêng tư nào, khi con người không còn muốn chiếm hữu bất cứ một thứ của cải nào, thì lúc đó con người có thể bình thản đến với Chúa và với anh em.
Hòa bình là một cuộc ra đi không ngừng và ra đi là để đến với Thiên Chúa và đến với người khác, bằng tha thứ, bằng yêu thương, bằng giúp đỡ.
Bởi vì, Như lời thiên thần đã hát vang trong đêm Giáng sinh: Bình an dưới thế cho người thiện tâm.
Có một chàng thanh niên sống bê tha và tội lỗi. Anh cảm thấy chán nản và tuyệt vọng... Trong cơn khủng hoảng ấy, tình cờ anh đã bước vào một ngôi nhà thờ và đến ngồi trước tượng Đức Mẹ. Anh không thuộc một lời kinh nào để cầu nguyện và anh cũng chẳng biết Đức Mẹ là ai. Vì thế anh đã thốt lên:
- Nếu Ngài quả thực hiện diện nơi đây, thì xin hãy làm cho con được tin.
Bỗng dưng như có một làn gió mát thổi vào tâm hồn và anh cảm thấy được bình an và sau đó đã làm lại cuộc đời mình.
Từ câu chuyện trên chúng ta nhận thấy Mẹ Maria không phải chỉ là Mẹ Thiên Chúa, mà còn là mẹ của mỗi người chúng ta. Mẹ hằng yêu thương, chăm sóc và giúp đỡ chúng ta.
Khi sinh Đức Kitô, thì đồng thời, Mẹ cũng sinh ra một nhân loại mới, như lời thánh Phaolô đã xác quyết: Khi thời gian viên mãn, Thiên Chúa sai Con Ngài xuống thế, sinh làm con một người nữ và sống dưới chế độ luật Do Thái để cứu chuộc những người sống dưới luật đó, hầu chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa.
Và Công đồng Vat. II đã diễn tả: qua mầu nhiệm nhập thể, Con Thiên Chúa đã tự liên kết mình với mọi người. Ngài làm việc bằng đôi tay, suy nghĩ bằng khối óc, hành động bằng sự chọn lựa và yêu thương bằng trái tim loài người. Sinh ra từ lòng Đức Trinh Nữ Maria, Ngài thực sự trở thành một người trong chúng ta, hoàn toàn giống như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi.
Đức Maria là mẹ chúng ta, nên Mẹ luôn nâng đỡ bầu cử cho chúng ta trước mặt Chúa. Không biết đến Mẹ là không biết đến món quà quí giá mà Thiên Chúa đã ban tặng, đó chính là tình mẫu tử của Mẹ Maria đối với chúng ta.
Điều này khiến chúng ta nghĩ tới năm mới. Năm mới với niềm hy vọng mới, với cuộc đời mới, là cơ hội để chúng ta bắt đầu lại. Năm cũ đã qua rồi, năm mới như trang giấy mở rộng trước mắt chúng ta. Thật là thích hợp khi Giáo Hội chọn ngày đầu năm để mừng kính Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa. Sự kiện này nhắc chúng ta nhớ đến tình mẫu tử của Me, nhớ đó chúng ta có được niềm hy vọng mới và cuộc đời mới.
Nếu chúng ta đang tìm cho mình một hướng đi trong năm mới, thiết thưởng không một hướng đi nào vừa bảo đảm lại vừa tốt đẹp cho bằng hãy chạy đến với Đức Maria. Với chức vụ làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ có đủ khả năng để bầu cử và giúp đỡ chúng ta. Với địa vị làm mẹ chúng ta, ẹ có dư tình thương, để sẵn sàng thực hiện những điều chúng ta van xin, vì vậy chúng ta vốn thường đọc:
- Xưa nay chưa từng nghe nói có người nào chạy đến kêu xin cùng Mẹ mà Mẹ chẳng nhận lời.
Hay như thánh Bernado cũng đã bảo:
- Kêu xin Mẹ, chúng ta sẽ không bao giờ bị lầm được lạc lối.
Bởi đó trong giây phút linh thiêng này, chúng ta hãy đặt trót 365 ngày của năm mới này dưới sự che chở và nâng đỡ của Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và Mẹ chúng ta.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Từ xưa, khi mừng lễ Giáng Sinh, Giáo Hội vẫn chú tâm đến Đức Maria và không ngừng chiêm ngắm khuôn mặt của Đức Mẹ bên cạnh máng cỏ Hài Nhi Giêsu.
Nhưng ngày đầu năm dương lịch hôm nay, Giáo Hội mừng kính đặc biệt Đức Maria với tước hiệu là Mẹ Thiên Chúa. Và từ năm 1968, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI lại dành ngày đầu năm dương lịch để cầu nguyện cho hoà bình thế giới.
Thưa anh chị em,
Nhìn vào hang đá, ai lại không nói rằng Đức Maria là Mẹ của Chúa Giêsu. Và sở dĩ chúng ta chú ý đến máng cỏ là vì Hài Nhi Giêsu nằm đó là chính Thiên Chúa Nhập Thể làm người, là con của Đức Maria. Thiên Chúa hằng hữu, tự mình mà có và không ai sinh ra Ngài. Nhưng nay Thiên Chúa đã sinh làm người, sinh bởi một người nữ, một người mẹ. Đức Maria đã sinh ra Chúa Giêsu, nên Đức Maria cũng là Mẹ Thiên Chúa. Giáo Hội luôn kêu cầu Mẹ: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời”.
Trong Tin Mừng hôm nay, Mẹ Maria hiện ra như là một từ mẫu ghi sâu tất cả những gì liên hệ đến Con của mình và suy đi nghĩ lại trong lòng. Quả thật, người mẹ nào không tự hỏi về tương lai của con mình? Bất cứ dấu hiệu nào cũng khiến người mẹ suy nghĩ. Đức Maria không suy đi nghĩ lại sao được khi thấy các mục đồng đến thăm và kể chuyện về các thiên thần hiện ra ban đêm báo tin cho họ? Và Mẹ có thể nào không suy nghĩ về danh “Giêsu” (Chúa Cứu) mà từ nay theo lệnh sứ thần, Mẹ sẽ dùng để gọi Con mình. Chính sứ thần đã giải thích trong buổi truyền tin: “Bà sẽ gọi Con Trẻ là Giêsu. Ngài sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối Cao. Chính Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngai báu vua Đavít, cha Ngài, và Ngài sẽ cai trị trong nhà Giacob đến muôn đời”. Những lời đó không đơn giản dễ hiểu. Nội dung chắc chắn vô cùng phong phú. Maria dĩ nhiên phải suy đi nghĩ lại trong lòng.
Anh chị em thân mến,
Chính lúc một người mẹ trần gian gọi Thiên Chúa bằng con, thì trên trời các thiên thần ca hát: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, hoà bình dưới thế cho loài người Chúa thương”. Con Thiên Chúa gọi một người nữ bằng mẹ, để tất cả những ai sinh ra bởi người nữ, dù ở địa vị nào, giai cấp nào, đều được gọi Thiên Chúa là Cha và gọi nhau là anh em. Chúa Giêsu là Thiên Chúa làm người để làm “ôTrưởngam giữa một đoàn em đông đúc” (Rm 8,29) và “không còn phân biệt Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, nam hay nữ, vì tất cả chỉ là một trong Đức Kitô Giêsu” (Gl 3,28).
Trong lòng Trinh Nữ Maria, Thiên Chúa và con người đã gặp lại nhau, và con người đã gặp lại con người. Đó là vinh danh Thiên Chúa trên trời. Đó cũng là hoà bình dưới đất cho loài người. Vì thế, hôm nay được chọn làm ngày Thế Giới Cầu Nguyện Cho Hoà Bình. Chủ đề của sứ điệp Ngày Thế Giới Hoà Bình năm nay (1996) là: “Hãy cho trẻ em một tương lai hoà bình”. Thế giới chúng ta, kể cả thế giới của các tôn giáo, là thế giới của người lớn, của những kẻ thích làm lớn. Thế giới của chúng ta là thế giới mà trẻ thơ bị xua đuổi, bị loại trừ, nhiều khi ngay từ khi chúng mới chỉ là những bào thai, và nếu như không kịp bị huỷ hoại, thì cũng bị bỏ rơi khi mới chào đời. Còn những em nào lớn lên, thì sẽ bị khai thác bóc lột, kể cả khai thác trong cái “kỹ nghệ” tội ác, đó “du lịch tình dục”.
Đức Thánh Cha đã viết: “Những gì xảy ra cho Hài Nhi Giêsu ở Bêlem cũng đang xảy ra cho các trẻ em trên khắp thế giới. Có biết bao trẻ em đang là nạn nhân của đói khổ, của chiến tranh, đang bị cha mẹ bỏ rơi, đang sống cảnh màn trời chiếu đất, đang đau khổ vì biết bao hình thức bạo động và xung đột của người lớn”.
Để có một vài con số cụ thể, chúng ta chỉ cần lắng nghe báo cáo của tổ chức Nhi Đồng Quốc Tế (UNICEF) về tình trạng trẻ em trên thế giới năm 1995 như sau: “Trong những thập niên cuối của thế kỷ 20 đang có khoảng 2 triệu trẻ em chết vì chiến tranh, từ 4 đến 5 triệu tật nguyền, hơn 5 triệu sống trong các trại tỵ nạn, trên 12 triệu sống cảnh không nhà không cửa”. Bản báo cáo ước tính cần phải có ít nhất 34 tỷ Mỹ kim mới có thể đảm bảo các nhu cầu về dinh dưỡng, sức khoẻ, giáo dục cho các trẻ em trên khắp thế giới.
Đức Thánh Cha kêu gọi người lớn chúng ta “Hãy cho trẻ em một tương lai hoà bình”. Tương lai hoà bình của trẻ em phải là một vấn đề chiến lược của thế giới, vấn đề chính sách của quốc gia. Các nhà lãnh đạo thế giới và các nhà cầm quyền quốc gia phải chịu trách nhiệm trước nhân loại và dân tộc mình về thảm trạng của các trẻ em.
Tuy nhiên, chính những người Kitô hữu cũng cần phải ý thức rằng, với tư cách là cha mẹ, là anh chị em, là người thân trong gia đình, tất cả chúng ta đều là những người trước tiên có trách nhiệm đối với con em chúng ta. Sống cho con cái, nuôi dưỡng và giáo dục chúng nên người, đó là trách nhiệm hàng đầu của bậc cha mẹ để tạo cho trẻ em một tương lai hoà bình.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta hãy suy nghĩ về tương lai hoà bình của các trẻ em như Đức Maria hằng suy đi nghĩ lại trong lòng về những gì liên hệ đến Con của Mẹ. Mẹ suy nghĩ về Danh “Giêsu” có nghĩa là “Cứu Thế”. Danh đó phải được kêu cầu trên con cái loài người, để phúc lộc phong phú cụ thể là chính Thánh Thần mà Thiên Chúa muốn đổ xuống lòng mọi người trong năm mới, để khi chúng ta gọi Chúa là Cha thì chúng ta thấy mình là anh em với nhau (x. Bđ 2), để sống yêu thương nhau, cùng nhau xây dựng tương lai hoà bình và hạnh phúc cho mọi người anh em.
Tám ngày sau khi sinh, Chúa Giêsu được dâng vào đền thờ, chịu phép cắt bì và được đặt tên theo luật Do thái. Đối với người Do thái, tên là người. Vì thế việc đặt tên có ý nghĩa quan trọng. Giêsu có nghĩa là Thiên-Chúa-cứu. Chúa Giêsu là Thiên Chúa. Con người không thể sinh ra Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa tự nguyện làm con loài người. Nhờ đó Đức Mẹ trở thành Mẹ Thiên Chúa. Sinh ra Chúa Giêsu, Đức Mẹ sinh ra một nhân loại mới để cứu nhân loại cũ do bà Evà sinh ra, đã hư hỏng vì tội lỗi.
Đức Mẹ sinh ra nhân loại mới. Bà Evà sinh ra nhân loại cũ. Nhân loại cũ được sinh ra từ đất thấp. Thiên Chúa muốn nâng con người lên trời cao. Nhưng đất thấp lôi kéo con người chìm xuống. Vì thế con người đã từ địa vị con cái rơi xuống thân phận nô lệ. Trái lại, Đức Mẹ sinh ra một nhân loại mới. Nhân loại mới sinh xuống từ trời cao. Chúa Giêsu là Adam mới, từ trời hạ mình xuống để nâng con người lên. Giải thoát khỏi tình trạng nô lệ. Phục hồi địa vị làm con Thiên Chúa.
Đức Mẹ sinh ra Chúa Giêsu do lời chúc phúc. Bà Evà sinh con do lời chúc dữ. Sau khi hai ông bà nguyên tổ phạm tội, Thiên Chúa đã tuyên án cho bà Evà: “Ta sẽ làm cho ngươi phải cực nhọc thật nhiều khi thai nghén; ngươi sẽ phải cực nhọc lúc sinh con.” (St 3,16). Trái lại, Đức Mẹ sinh ra Chúa Giêsu do lời chúc phúc như lời Thiên sứ: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng.” Và bà thánh Êlizabeth nói: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc.” (Lc 1,42).
Đức Mẹ sinh con bởi phép Chúa Thánh Thần. Bà Evà sinh con do xác thịt. Như lời Thiên Chúa nói: “Ngươi sẽ thèm muốn chồng ngươi.” (St 1,16). Trái lại, Đức Mẹ sinh con bởi phép Chúa Thánh Thần. Như lời Thiên thần truyền: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà... vì thế Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.” (Lc 1,35). Nếu nhân loại cũ được sinh ra theo xác thịt thì nhân loại mới được sinh ra “không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa” (Ga 1,13).
Đức Mẹ quảng đại sinh ra người con quên mình. Bà Evà ích kỷ sinh ra Cain là đứa con ham hố. Vì muốn chiếm vị trí trung tâm, nó đã đẩy em là Abel ra vùng ngoại vi. Loại trừ em. Giết chết em. Trái lại, Đức Mẹ quảng đại sinh ra một người con quên mình. Chúa Giêsu là người anh cả, từ bỏ vị trí trung tâm, đi ra vùng ngoại biên nghèo khổ. Người tự hiến mạng sống, để đưa chúng ta là đàn em trở lại vị trí trung tâm, trong cung lòng Thiên Chúa.
Đức Mẹ mở lòng đón nhận sinh ra một thế giới huynh đệ. Bà Evà đóng kín vào bản thân, sinh ra những đứa con chia rẽ bất hoà. Tháp babel khiến cộng đồng nhân loại tan rã. Trái lại, Đức Mẹ mở lòng đón nhận, nên đã sinh ra Chúa Giêsu là nhân loại mới sống chan hòa tình huynh đệ. Đón tiếp mục đồng là những người nghèo khổ. Đón tiếp ba vua là những người xa lạ. Để tất cả trở thành anh em một nhà.
Đức Mẹ vâng phục sinh người con hiếu thảo. Bà Evà phản loạn sinh ra những đứa con bất hiếu, chối bỏ Thiên Chúa là Cha. Trái lại, Đức Mẹ vâng phục nên đã sinh Chúa Giêsu là người con hiếu thảo. Nhờ luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha, Chúa Giêsu qui tụ người muôn nước sống hài hoà dưới mái nhà Cha chung trên trời. Và nhờ đó ta được hưởng hạnh phúc với Chúa như lời thư Galát: “Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cùng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa.”
Ngày đầu năm ta mong ước những điều mới mẻ. Nhưng thế giới chỉ đổi mới khi có những con người mới. Điều quan trọng là bản thân ta đổi mới. Chính vì thế Giáo hội cầu bình an và đặt năm mới trong bàn tay Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa.
Như xưa Mẹ đã sinh ra Chúa Giêsu, khởi đầu nhân loại mới, nay xin Mẹ cũng sinh lại chúng ta. Để chúng ta trở nên con người mới. Vượt thoát những tầm thường ti tiện của đất thấp, để được sinh lại thanh thoát từ trời cao. Thoát khỏi lời chúc dữ để được sinh lại tràn đầy ân sủng do lời chúc phúc. Thoát khỏi ràng buộc của xác thịt nặng nề để được sinh lại trong Thần Khí tự do.
Con người mới theo khuôn mẫu Chúa Kitô sẽ biết quảng đại cho đi. Biết ra đi đến những miền ngoại biên, gặp gỡ những anh em bị loại trừ, đưa con người trở về vị trí trung tâm. Con người mới sẽ biết mở lòng đón nhận mọi anh em dù khác biệt. Xây dựng thế giới thành một gia đình thân thương, biến thế giới thành một mái nhà chung bình an hạnh phúc. Mọi người trở thành anh em con cùng một Cha trên trời.
Như thế nhân loại được đặt trong bàn tay Thiên Chúa. Và thế giới được chúc phúc như lời Chúa hứa trong sách Dân Số: “Chúc như thế là đặt con cái Israel dưới quyền bảo trợ của Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng.” Đó chính là nhân loại mới. Đó chính là trời mới đất mới. Đó chính là niềm bình an hạnh phúc ta mơ ước.
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, Chúa sinh xuống trần để mở ra kỷ nguyên mới. Xin cho con biết sinh lại thành con người mới. Để góp phần xây dựng thế giới an bình hạnh phúc trong tình huynh đệ chân thành. Amen.
CƯU MANG VÀ SINH HẠ MỘT THẾ GIỚI MỚI.
Hôm nay các mục đồng vào hang đá và nhận thấy một Hài Nhi sơ sinh nằm trong máng cỏ. Hài Nhi Giêsu chào đời khai sinh một thế giới mới. Đức Mẹ đã sinh ra một con người mới.
Đức Mẹ sinh ra một thế giới mới để sửa chữa thế giới cũ do Evà sinh ra. Thế giới cũ của bà Evà là một thế giới đổ vỡ. Từ chỗ bất tuân lệnh Thiên Chúa, thế giới đã đi đến chỗ bất hoà với nhau: ông Adong đổ lỗi cho bà Evà, bà Evà đổ lỗi cho con rắn. Không những bất hoà với nhau mà còn bất hoà cả với súc vật, cỏ cây, ruộng đất. Và từ chỗ bất hoà đi đến bất hạnh: Anh em Cain và Aben giết lẫn nhau. Con người phân tán, chia rẽ. Thế giới đổ vỡ này phát sinh từ lòng kiêu ngạo và thói ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân mình.
Thế giới mà Đức Mẹ sinh ra là một thế giới vâng phục Thiên Chúa. Chúa Giêsu hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha nên đã sinh xuống thế làm người và từ bỏ ý riêng, sẵn sàng vâng phục thánh ý Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết trên thập giá. Đức Mẹ vâng phục thánh ý Thiên Chúa khi thưa “Xin vâng” với thiên thần. Thánh Giuse vâng phục Thiên Chúa nên trở về nhận Đức Mẹ làm bạn. Các mục đồng vâng theo lời thiên thần đến hang Bêlem tìm Chúa. Ba Vua vâng phục theo ánh sáng ngôi sao đến thờ lạy Chúa.
Thế giới mà Đức Mẹ sinh ra là một thế giới hài hoà. Sự hài hoà không phải chỉ có giữa Chúa Giêsu với Đức Mẹ và Thánh Giuse. Cảnh Chúa Giêsu nằm giữa thiên nhiên, trong hơi ấm của bầy chiên bò, với đoàn mục đồng và Ba Vua quây quần chung quanh nói lên một thế giới chung sống hoà bình. Chúa sống hoà hợp với trời đất, với con người và với thiên nhiên. Con người sống hoà hợp với Chúa và với nhau.
Thế giới mới mà Đức Mẹ sinh ra là một thế giới quên mình. Chúa Giêsu đã quên địa vị mình là Thiên Chúa để xuống ở với nhân loại. Chúa Giêsu đã quên mình là Đấng thánh thiện để đến với người tội lỗi. Chúa đã quên mình là Thầy, là Cha, nên quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, các con cái của mình. Và nhất là Chúa đã quên mình là vô tội đến nỗi sẵn lòng hiến thân chịu chết cho loài người tội lỗi. Thánh Giuse và Đức Mẹ quên mình để đi vào chương trình của Thiên Chúa. Mục đồng quên mình, giữa đêm khuya lạnh lẽo, bỏ giấc ngủ đến tìm Chúa. Ba Vua quên mình bỏ nhà cửa tiện nghi, lên đường, chịu vất vả khó nhọc đến thờ lạy Chúa. Sự quên mình, quan tâm lo lắng chăm sóc cho người khác đã khai sinh một thế giới mới chan chứa tình yêu thương và ấm áp sự hoà thuận. Đó chính là cảnh thái bình đáng mong ước.
Ngày đầu năm mới, Giáo Hội mừng kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, với mong muốn thế giới luôn được sinh lại, được đổi mới. Chỉ khi sinh lại trong Chúa và trong Đức Mẹ, thế giới mới thực sự có hoà bình.
Ngày đầu năm mới, Giáo Hội mừng kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, với mong muốn đặt thế giới vào tay Đức Mẹ để thế giới luôn được sinh lại, được đổi mới. Chỉ khi sinh lại trong Chúa và trong Đức Mẹ, thế giới mới thực sự có hoà bình.
Ngày đầu năm mới, Giáo Hội cầu nguyện cho hoà bình thế giới, mong ước con người hãy biết sống hài hoà với nhau trong vâng phục Thiên Chúa, trong quên mình vì người khác để có một nền hoà bình thực sự trường cửu. Vì hoà bình không chỉ là vắng bóng chiến tranh nhưng còn là con người sống hài hoà trong tình tương thân tương ái.
Ngày đầu năm mới, Giáo Hội cũng mời gọi tất cả mọi người chúng ta hãy cùng với Đức Mẹ cưu mang và góp phần sinh hạ một thế giới mới. Cưu mang chắc chắn phải nặng nhọc. Sinh hạ chắc chắn phải đớn đau. Nhưng nếu mỗi người đều noi gương Chúa Giêsu, Đức Mẹ, Thánh Giuse, Ba Vua, các mục đồng và cả súc vật trong hang đá Bêlem biết vâng phục Thiên Chúa, biết sống hài hoà và quên mình thì mới mong kiến tạo được một nền hoà bình viên mãn.
Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con trở nên con người mới, góp phần cưu mang và sinh hạ một thế giới mới như lòng Chúa mong ước. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Bạn có mơ ước một thế giới mới không? Thế giới đó phải bắt đầu từ đâu trước? Từ chính bạn hay từ người khác?
2. Thế giới của Đức Mẹ có gì khác thế giới của bà Evà?
3. Đầu năm mới này, bạn dự tính làm gì để đổi mới thế giới chung quanh bạn?
Ngày đầu năm mới là một ngày thiêng liêng. Ai cũng mong ước năm mới mọi sự sẽ đổi mới. Sẽ có nhiều thuận lợi hơn trong cuộc sống. Nhất là được sống bình an. Các bài Sách Thánh đặc biệt bài Tin mừng hôm nay mời gọi ta hãy tìm đổi mới trong Chúa Giêsu. Chính Người sinh ra một nhân loại mới. Đó là nhân loại được chúc phúc, được cứu độ và sống trong an bình.
Đó là một nhân loại được chúc phúc. Khi Chúa Giêsu ra đời nhân loại được chúc phúc. Có nhiều dấu hiệu loan báo phúc lành của Chúa. Một làn ánh sáng từ trời soi sáng cánh đồng Bêlem. Xuất hiện muôn vàn thiên sứ hát mừng trên trời cao. Chúa Giêsu đem phúc lành của Thiên Chúa đến cho nhân loại. Chúa Giêsu chính là phúc lành tuyệt hảo của Thiên Chúa. Chúa Giêsu là món quà cao quí nhất Thiên Chúa tặng ban cho nhân loại. Mang lấy bản tính nhân loại, Chúa Giêsu làm cho nhân loại được chúc phúc bằng những phúc lành phong phú nhất của Thiên Chúa.
Đó là một nhân loại được cứu độ. Con trẻ được đặt tên là Giêsu. Tên Giêsu có nghĩa là Thiên Chúa cứu. Chúa Giêsu đi vào tận những tù ngục giam hãm để giải cứu con người. Người sinh ra làm một trẻ thơ để nâng đỡ những con người bé nhỏ. Người sinh trong cảnh thiếu thốn để nâng lên những ai nghèo hèn. Người bị bạo vương Hêrôđê săn đuổi để đứng về phía những người bị áp bức. Người sinh ra trong chuồng súc vật tăm tối để trân trọng những ai bị loại trừ. Người là Con Thiên Chúa xuống thế làm người để nâng con người lên làm con Thiên Chúa. Thật là một cuộc đổi mới không ai có thể ngờ tới.
Đó là một nhân loại sống trong hòa bình. Đêm Chúa Giáng Sinh trời đất giao hòa. Trời Bêlem sáng lên. Thiên nhiên trở nên xinh đẹp. Các thiên thần làm đầy không gian bằng những bài ca tuyệt diệu của cõi thiên đàng. Các mục đồng vui tươi hớn hở loan truyền tin vui. Cả một bầu khí hòa bình tỏa ra chung quanh Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đến tái lập trật tự. Trật tự đó là con người và vạn vật vâng phục Thiên Chúa. Luật lệ phát xuất từ con người luôn gây ra tranh chấp. Vì con người chỉ nghĩ đến tư lợi hạn hẹp của riêng mình. Mọi luật lệ muốn công bằng và lâu bền phải qui về Thiên Chúa. Thiên Chúa ban hòa bình thực sự. Hòa bình trong công lý. Công lý là những người bé nhỏ, yếu ớt phải được tôn trọng. Chúa Giêsu tự nguyện làm trẻ nhỏ sơ sinh chính là một nền hòa bình trong vâng phục Thiên Chúa và là công lý kêu gọi kính trọng bảo vệ những kẻ yếu hèn.
Hòa bình như thế không phải là một trật tự im lìm. Trật tự im lìm chỉ có trong nghĩa địa hay nhà tù. Đó là trật tự chết chóc, tàn lụi. Trái lại hòa bình là một năng động, là một sức sống, là sự phấn đấu không ngừng.
Ta hãy chiêm ngắm tấm gương của các mục đồng. Các mục đồng đã biết lắng nghe sứ điệp hòa bình dù giữa đêm hôm mùa đông đang say ngủ. Nghe biết sứ điệp hòa bình rồi, các mục đồng vội vã đi tìm Chúa Giêsu là nguồn mạch hòa bình, dù phải bỏ giấc ngủ, dù phải đi ngoài trời lạnh giá. Sau khi gặp Chúa, các mục đồng ra đi loan truyền sứ địêp hòa bình cho mọi người. Đó chính là những phấn đấu không ngừng cho hòa bình.
Chúng ta đặt năm mới này vào tay Đức Mẹ. Xưa Đức Mẹ đã sinh ra Đấng Cứu Thế mở đầu một nhân loại mới, nay xin Đức Mẹ cũng cho năm mới này được chúc phúc, được cứu độ và được hòa bình. Chúng ta cũng cầu nguyện cho mọi người biết noi gương mục đồng, luôn lắng nghe sứ điệp hòa bình, luôn phấn đấu đi tìm đến nguồn mạch hòa bình và luôn phấn khởi loan tin mừng hòa bình.
Lạy Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, xin cầu cho chúng con. Amen.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một bà mẹ có người con trai bỏ mình trong chiến tranh. Bà không thể nào quên được người con đó. Nỗi sầu thương cứ mãi mãi vương vấn tâm hồn bà. Bà luôn cầu nguyện để được gặp lại con, dù chỉ trong năm phút.
Một hôm, Chúa sai thiên thần báo cho bà chuẩn bị gặp lại con. Những giọt lệ bỗng biến thành niềm vui, bà thúc giục thiên thần cho bà gặp lại con ngay. Nhưng thiên thần bảo bà:
- Bà hãy bình tĩnh. Con bà đã là một người trưởng thành. Con bà đã chết 30 năm nay, bà muốn gặp nó vào tuổi nào: như một người lính chiến ngoài mặt trận, hoặc như một đứa bé chạy nhảy trên sân trường, hay như một em bé nép mình trong lòng bà?
Không do dự, bà muốn được gặp lại con như một đứa trẻ nhỏ đến xin lỗi bà vì đã không ngoan, một đứa bé yếu đuối, nước mắt chảy ràn rụa chạy đến và ngả vào lòng bà. Đó là hình ảnh mà bà không thể nào quên được về đứa con của bà.
Anh chị em thân mến,
Trong mùa Giáng Sinh, chúng ta có dịp chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ. Chúng ta không thể nhìn thấy Chúa Giêsu mà quên Đức Maria bên cạnh Ngài. Chào đời như một hài nhi, có lẽ Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng Ngài cần có một người mẹ để được cưu mang, được sinh ra, được lớn lên như một con người. Có thể nói, mùa Giáng Sinh cũng là mùa lễ Đức Mẹ. Đặc biệt ngày đầu năm Dương lịch hôm nay, phụng vụ muốn tôn kính Đức Maria với tước hiệu là Mẹ Thiên Chúa. Và từ năm 1968 Đức Giáo Hoàng Phaolô VI lại dành ngày 1 tháng Giêng nầy để cầu nguyện cho hoà bình thế giới. Chủ đề của ngày Hoà Bình Thế Giới năm nay cũng đề cập đến vai trò của người phụ nữ, người mẹ: “Phụ nữ, nhà giáo dục hoà bình”.
Nhìn vào hang đá, ai lại không nói rằng Đức Maria là Mẹ của Chúa Giêsu. Và sở dĩ chúng ta chú ý đến máng cỏ là vì Hài Nhi Giêsu nằm đó là chính Thiên Chúa nhập thể làm người, là con của Đức Maria. Trong mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người, Đức Maria đã có một vai trò đặc biệt, vì Người được chọn làm Mẹ Đức Giêsu Kitô, là Thiên Chúa. Thiên Chúa hằng hữu, tự hữu, không ai sinh ra Thiên Chúa. Nhưng nay, Thiên Chúa đã sinh ra làm người. Đức Maria đã sinh ra Đức Giêsu là người thật và là Thiên Chúa thật, nên Đức Maria cũng là Mẹ của Thiên Chúa. Ở những thế Kỷ III-V, có những lạc giáo phủ nhận tước hiệu Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, khiến phụng vụ nhấn mạnh hơn đến tước hiệu nầy.
Chúng ta đừng sợ tước hiệu nầy xúc phạm đến Thiên Chúa cao cả. Ngài đã chấp nhận giáng trần để trở nên hoàn toàn như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Ngài đã chấp nhân mọi luật lệ sinh sống, đau khổ và tử nạn, thì sao ta lại sợ nói phạm đến Ngài khi bảo Ngài là con của một người mẹ? Ngài đã gọi chúng ta là anh em và muốn là bạn hữu của mọi người, và chúng ta lấy đó làm vinh dự, thì chúng ta càng không có lý khi không muốn tuyên xưng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Suy nghĩ kỹ, chúng ta chỉ có thể thấy đây là một vinh dự lớn lao cho một người trong loài người chúng ta: Mẹ Maria. Chúng ta phải hân hoan chúc tụng Mẹ là Đấng đầy ơn phúc: “Thánh Maria, Đức Mẹ chúa Trời”.
Trong Tin Mừng hôm nay, Mẹ Maria hiện ra như là một từ mẫu ghi sâu tất cả những điều về Con và suy đi nghĩ lại trong lòng. Quả thật, người mẹ nào nào không tự hỏi về tương lai của con mình? Bất cứ dấu hiệu nào cũng khiến người mẹ suy nghĩ. Đức Maria không suy đi nghĩ lại sao được khi thấy các mục đồng đến thăm và kể chuyện về việc các thiên thần hiện ra ban đêm báo tin cho họ? Và Mẹ có thể nào không suy nghĩ về danh “Giêsu” mà từ nay theo lệnh sứ thần, Mẹ sẽ dùng để gọi con mình. Chính sứ thần đã giải thích trong buổi truyền tin: “Bà sẽ gọi con trẻ là Giêsu. Ngài sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối Cao. Chính Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngai báu Đavít, Cha Ngài và Ngài sẽ cai trị trong nhà Giacóp đến muôn đời”. Những lời đó không đơn giản, dễ hiểu. Nội dung chắc chắn vô cùng phong phú, Maria dĩ nhiên phải suy đi nghĩ lại trong lòng.
Hôm nay, các mục đồng lại kể thêm về các lời của thiên sứ. Hài Nhi trong máng cỏ là Đấng Cứu Thế, các thiên thần đã xướng ca: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”. Như vậy, Giêsu, Con của Đức Maria thực hiện lời tiên tri hứa cùng nhà Đavít. Ngài sẽ đem lại hoà bình cho Dân Chúa và vinh quang cho Thiên Chúa. Đức Maria hôm nay gẫm suy những điều ấy. Đấng Cứu Thế đem lại hoà bình, và Vua Hoà Bình. Nhưng tại sao trên thế giới hiện nay vẫn còn chiến tranh, tranh chấp, xung đột? Vì vậy, Đức Giáo Hoàng kêu gọi chúng ta hằng năm vào ngày đầu năm Dương lịch nầy hãy suy nghĩ và cầu nguyện cho hoà bình thế giới. “Phụ nữ, nhà giáo dục hoà bình”, đó là chủ đề được Đức Thánh Cha chọn cho ngày Hoà Bình Thế Giới năm 1995. Với chủ đề nầy, người ta muốn trước tiên công nhận vai trò không thể thiếu mà người phụ nữ có thể đóng góp cho hoà bình, như qua việc thường xuyên giáo dục giới trẻ, hay qua sự chống đối những hoàn cảnh bạo lực thường xảy ra. Qua chủ đề nầy, Đức Giáo Hoàng cũng ước ao vọng lên một lời mời cấp bách, thôi thúc các chị em phụ nữ này càng trở thành những người xây dựng không mệt mỏi trong khuôn khổ gia đình mình cũng như trong các tổ chức xã hội.
Thưa anh chị em,
Đất nước chúng ta đã thoát khỏi những năm chiến tranh. Nhưng chúng ta vẫn còn nhiệm vụ phải suy nghĩ về hoà bình. Bởi vì hoà bình không phải chỉ là chấm dứt chiến tranh. Hoà bình còn là xây dựng bình đẳng, ấm no, thịnh vượng, hạnh phúc nữa. Phần tích cực có thể nói còn gồm nhiều mặt hơn phần tiêu cực. Vả lại, hết chiến tranh cũng chưa phải là đã hết những hậu quả của chiến tranh là những thương tích, đổ vỡ vật chất và tinh thần. Chúng ta phải cải tạo cái cũ, xây dựng cái mới. Hoà bình hạnh phúc phải là khí thở của mọi người trên thế giới. Chúng ta đóng góp được gì? Hãy suy nghĩ về hoà bình như Đức Maria hằng suy đi nghĩ lại trong lòng. Người suy nghĩ về danh “Giêsu”, có nghĩa là cứu thế. Danh đó phải được kêu cầu trên con cái loài người, để phúc lộc được đổ xuống trên các dân (X.Bđ.1) và phước lộc phong phú cụ thể là chính Thánh Thần mà Thiên Chúa muốn đổ xuống lòng mọi người, để khi chúng ta gọi Chúa là Cha thì chúng ta Thấy mình là anh em với nhau (X. Bđ.2), để sống hoà thuận yêu thương nhau, sống vì hạnh phúc của anh em mình. Yêu hoà nình thì phải xây dựng công bằng, bác ái, phải kiến tạo bình đẳng, ấm no, thịnh vượng, hạnh phúc. Hoà bình đòi phải phấn đấu và đấu tranh, để tiêu diệt cái xấu và phát triển cái tốt. Rất nhiều công tác cụ thể đang ở tầm tay mỗi người chúng ta. Hết thảy chúng ta hãy tích cực, để không chỉ nói hoà bình nhưng muốn xây dựng hoà bình. Trong này Thế Giới Hoà Bình hôm nay và là ngày lễ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, chúng ta xin Đức Maria là Nữ Vương Hoà Bình ban cho chúng ta, cho các gia đình, cho cộng đoàn giáo xứ, nền hoà bình của Chúa Kitô – Hoà bình mà Đấng Cứu Thế, Con của Mẹ Maria đã đem xuống trần gian cho loài người trong đêm Giáng Sinh, để chúng ta biết sống hoà thuận yêu thương nhau, đoàn kết xây dựng hoà bình trên quê hương đất nước và trên toàn thế giới.
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)
Đối với Giáo Hội Chính Thống, tước hiệu nổi bật nhất của Mẹ là "Mẹ Thiên Chúa", trong khi đó đối với Giáo Hội Công Giáo, Mẹ Maria trước tiên là Mẹ của loài người.
Hai khía cạnh này của Mẹ Maria được làm nổi bật qua phụng vụ và nghệ thuật của hai Giáo Hội. Một bên những bức ảnh Icon của Giáo Hội Chính Thộng làm cho người ta nghĩ đến Đức Mẹ như một vị thần ngự trị trên Thiên Quốc hơn là người phàm. Đàng khác, trong Giáo Hội Công Giáo các bức tranh và tượng ảnh về Mẹ Maria xem ra nhấn mạnh đến khía cạnh nhân loại của Mẹ. Khía cạnh nhân loại này thường được chọn làm chân dung của Đức Mẹ. Như vậy, trong việc tôn kính chính thức của Giáo Hội cũng như trong tâm tình của người bình dân, tính siêu việt lẫn nhân trần của Mẹ Maria đều được nêu bật.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trân trọng cả hai truyền thống tôn kính này đối với Mẹ Maria. Ngài kêu gọi Âu Châu hãy thở bằng hai buồng phổi, một của Đông Phương, một của Tây Phương. Một sự dung hòa như thế mới có thể bảo tồn được sự tôn kính đúng đắn dành cho Mẹ Chúa Giêsu.
Trong Phúc Âm thánh Luca, thánh sử nói về các mục đồng như sau: "Họ liền hối hả ra đi, đến nơi họ gặp thấy bà Maria cùng với Giuse và Hài Nhi được bọc trong khăn, đặt trong máng cỏ" (Lc 2,16). Theo các nhà chú giải Kinh Thánh thì đây là một cuộc cách mạng thinh lặng. Thật thế, lần đầu tiên trong Kinh Thánh người ta thấy tên của người Mẹ đặt trước tên của người Cha. Đây không phải là một đoạn tuyệt với truyền thống "trọng nam khinh nữ" của người Do Thái, nhưng tác giả muốn sắp xếp như thế để nói lên tầm quan trọng của người phụ nữ là Mẹ Maria.
Trong Phúc Âm (Mc 10,14), thánh sử ghi lại thái độ của Chúa Giêsu đối với trẻ em, Chúa Giêsu nói như sau: "Hãy để trẻ em đến với Ta và đừng xua đuổi chúng, vì Nước Trời thuộc về những ai nên giống như chúng. Ta bảo các ngươi, ai không đón nhận Nước Trời như một trẻ em thì sẽ không được vào trong Nước ấy".
Nhưng nên giống như trẻ em là gì nếu không phải là quay trở lại với Mẹ, tín thác nơi Mẹ. Một số nhà thần bí trong Giáo Hội xem đây như là một lời khuyến dụ kín đáo của Chúa Giêsu. Phải chăng Ngài chẳng muốn chúng ta tìm đến với Đấng vì là Mẹ của Con Người, cũng là Mẹ của tất cả mọi người. Dù sao một trong những nghịch lý lớn nhất mà Tin Mừng đề ra là tiến đến trong đời sống thiêng liêng không phải là luật tiến hóa mà là luật của cải hóa.
Các cuộc Đức Mẹ hiện ra của thời hiện đại đã bắt đầu vào năm 1830, tại một cộng đoàn của Dòng Bác Ái Vinh Sơn tại đường Du Bac ở Paris Pháp Quốc, Đức Mẹ đã hiện ra cho thánh nữ Catherine Labouré và ủy thác cho thánh nữ quảng bá việc tôn kính ảnh Đức Mẹ hay làm phép lạ. Lời kinh được truyền phải đọc trong việc tôn kính ảnh Đức Mẹ có nội dung như sau: "Lạy Đức Maria, là Đấng đã được cưu mang mà không vướng mắc tội lỗi, xin cầu cho chúng con là những kẻ có tội chạy đến cùng Mẹ". Nhờ việc này mà giúp cho Giáo Hội định tín về Đức Mẹ Vô Nhiễm vào năm 1854. Thật ra, đây cũng chỉ là một tước hiệu mà Đức Mẹ đã tự xưng khi hiện ra cho Bernadetta ở hang đá Lộ Đức nước Pháp vào năm 1858.
Thật thế, nếu Mẹ Maria là tạo vật duy nhất trong nhân loại đã được cưu mang mà không mang tỳ vết của tội lỗi, bởi vì tội nguyên tổ là một thực tế chứ không phải là một huyền thoại. Vào thời ấy, cùng với những khám phá và tiến bộ trong lãnh vực khoa học, con người thời đại xác tín một cách kiêu hãnh rằng: khoa học, văn hóa và kỹ thuật rồi ra sẽ biến thế giới thành một thứ thiên đàng trần gian, như vậy nó sẽ khử trừ mọi ý niệm về tội Nguyên Tổ. Với khả năng vô tận của mình, rồi ra con người sẽ tự cứu lấy mình chứ không cần phải trông chờ có một đấng cứu thế nào cả.
Thế nhưng, lịch sử đã diễn ra không như con người của thời đại mơ tưởng, thứ nhân bản chủ nghĩa chối bỏ cái siêu việt của con người đều dẫn đến sự tự hủy cho con người. Hai trận thế chiến là sự hiện hữu hùng hồn nhất về sự hủy hoại con người.
Như vậy, sứ điệp mà Đức Mẹ muốn nhắn gởi cho con người thời đại qua các cuộc hiện ra kể từ năm 1830, trước hết là một sứ điệp về chính tội lỗi của con người. Vì thế, việc tôn kính Đức Mẹ có giá trị giải phóng con người. Dù vậy, Giáo Hội không bao giờ áp đặt việc tôn kính đối với Mẹ Thiên Chúa, nhưng để tùy cảm xúc và sáng kiến của mỗi người tín hữu. Dĩ nhiên, Đức Giáo Hoàng, hàng Giáo Phẩm, các tác giả về tu đức có thể khuyên nhủ các giáo hữu chạy đến với Mẹ Thiên Chúa bằng nhiều hình thức tôn kính khác nhau.
Dựa trên kinh nghiệm ngàn đời của mình, Giáo Hội khuyên các tín hữu tôn kính Mẹ Maria. Tuy nhiên, Giáo Hội không bao giờ buộc phải tôn kính Mẹ Maria, sẽ không bao giờ Giáo Hội buộc tôn kính các lần hiện ra của Đức Mẹ, cho dù Giáo Hội công nhận các việc hiện ra đó. Giáo Hội sẽ không bao giờ áp đặt các việc tôn kính như lần chuỗi, đi hành hương như là việc làm cần thiết cho ơn cứu rỗi. Giáo Hội sẽ không bao giờ xem là lạc đạo hay có tội khi một tín hữu không tham dự cuộc rước kiệu Đức Mẹ, hay một cuộc hành hương đến nơi Đức Mẹ hiện ra. Giáo Hội sẽ không bao giờ chối bỏ ơn cứu rỗi mà các Giáo Hội khác xây dựng trên niềm tin Kitô của họ, như trong các Giáo Hội Tin Lành.
Như vậy, việc tôn kính đối với Mẹ Maria không được nhìn theo phạm trù cần thiết mà là theo phạm trù tự do, không thuộc về lề luật mà thuộc về tình yêu. Chính tính cách tự do ấy lại càng làm nổi bật sự thu hút và những ân huệ đặc biệt của lòng tôn kính đối với Mẹ Thiên Chúa. Mẹ Thiên Chúa xem ra không muốn áp đặt lòng tôn kính dành cho Mẹ, bởi vì Mẹ vốn là người sống âm thầm, Mẹ cất giữ mọi sự và suy niệm trong lòng. Thánh Luca đã hai lần ghi lại như thế trong cùng một chương. Mẹ quả thật nói ít, hay đúng hơn Kinh Thánh nói rất ít về Mẹ, nhưng nhìn cho kỹ thì chính Mẹ lại là người gợi hứng cho Kinh Thánh.
Dĩ nhiên, với sự kín đáo và thinh lặng của Mẹ, các nhà chuyên môn Kinh Thánh đều đồng ý rằng: Các chương nói về đời tư Chúa Giêsu kể từ khi Chúa Giêsu sinh ra thì chính Mẹ là người duy nhất đã biết thời thơ ấu của Chúa Giêsu và kể lại cho cộng đồng tiên khởi. Nhưng vẫn thái độ kín đáo và thinh lặng cố hữu, Mẹ luôn đứng ở đàng sau, chỉ có những ai biết tìm đến và lắng nghe mới có thể nhận ra được sự hiện diện và tầm quan trọng của Mẹ trong Giáo Hội. Đó chính là ý nghĩa của việc tôn kính Mẹ Maria mà các tín hữu Kitô đã dành cho Mẹ ngay từ thời Giáo Hội sơ khai.
(Bài giảng của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI
Lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa, 01.01.2010)
Trong ngày đầu năm mới và cũng là Ngày Quốc Tế Hòa Bình, chúng ta vui mừng cử hành lễ Đức Maria rất thánh, Mẹ Thiên Chúa. Cả hai sự kiện này cùng diễn ra khi chúng ta đang cử hành Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, sinh hạ bởi Đức Trinh Nữ Maria, hòa bình đích thực của chúng ta! Hướng về tất cả anh chị em đang qui tụ nơi đây, đại diện cho mọi dân tộc trên thế giới, đại diện cho Giáo hội Rôma và Giáo hội hoàn vũ, đại diện cho các linh mục và tín hữu, cũng như tất cả mọi người đang hiệp thông với chúng ta qua các phương tiện truyền thanh, truyền hình, tôi muốn lặp lại lời cầu chúc của Cựu Ước: “Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh chị em (x. Ds 6,26). Dưới ánh sáng Lời Chúa, hôm nay, tôi muốn triển khai đề tài: dung mạo của Thiên Chúa và dung mạo của con người, đề tài này cống hiến cho chúng ta chìa khóa để giải thích những vấn nạn hòa bình trên thế giới.
Trong bài đọc I – trích từ sách Dân số và trong Thánh vịnh đáp ca, chúng ta đã nghe một vài cách diễn tả ẩn dụ về dung mạo của Thiên Chúa: “Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh chị em và dủ lòng thương anh chị em (Ds 6,25); “Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin tỏa ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài” (Tv 66/67,2-3). Dung mạo diễn tả rõ ràng nhất về con người, qua đó tình cảm, suy nghĩ và những ý định sâu kín trong tâm hồn được bày tỏ. Thiên Chúa vô hình, theo bản tính của Ngài, nhưng Kinh Thánh vẫn ‘gán’ cho Ngài một “dung mạo”. Trong Kinh Thánh, kiểu nói “tỏ dung nhan” diễn tả lòng nhân từ của Thiên Chúa, trong khi cách nói Thiên Chúa “ẩn mặt” ám chỉ Thiên Chúa nổi giận. Sách Xuất Hành nói: “Đức Chúa đàm đạo với ông Mô-sê, mặt giáp mặt, như hai người bạn với nhau” (Xh 33,11), Ngài hứa sẽ luôn luôn ở bên ông: “Dung nhan của Ta sẽ đi cùng ngươi, và Ta sẽ cho ngươi được nghỉ ngơi” (Xh 33,14). Các Thánh Vịnh diễn tả, các tín hữu là những người tìm kiếm dung nhan Thiên Chúa (x. Tv 26/27,8; 104/105,4). Trong cử hành phượng tự, các Thánh Vịnh diễn tả nỗi khát khao của con người được chiêm ngắm dung nhan Thiên Chúa (Tv 42,3), “người chính trực” sẽ được “chiêm ngắm dung nhan Thiên Chúa” (Tv 10/11,7).
Có thể đọc toàn bộ Thánh Kinh như là một quá trình tiệm tiến, qua đó Thiên Chúa tỏ dung mạo của Ngài ra cho con người và Ngài đã bày tỏ một cách trọn vẹn trong Chúa Giêsu Kitô. “Khi đến thời viên mãn – trong bài đọc II thánh Phaolô nhắn nhủ chúng ta – Thiên Chúa đã sai Con của Ngài (Gl 4,4) và ngay lập tức thánh Tông Đồ nói thêm “sinh bởi người phụ nữ và sinh dưới chế độ lề luật”. Thiên Chúa đã nhận lấy dung mạo của một con người và Thiên Chúa tỏ dung mạo của Ngài trong Người Con của Đức Trinh Nữ Maria. Vì lý do đó, chúng ta tôn kính Đức Maria với tước hiệu cao trọng nhất “Mẹ Thiên Chúa”. Đức Maria đã gìn giữ trong tâm hồn mầu nhiệm thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa và Mẹ là người đầu tiên được chiêm ngưỡng dung mạo Thiên Chúa, Đấng đã trở thành người phàm trong lòng Mẹ. Người mẹ có mối tương quan đặc biệt, duy nhất và đôi khi độc quyền với đứa trẻ mới được sinh ra. Dung mạo đầu tiên mà đứa trẻ nhìn thấy là người mẹ, cái nhìn này quyết định mối tương quan của đứa trẻ với cuộc sống, với chính nó, với người khác và với Thiên Chúa. Cái nhìn này cũng quyết định tại sao đứa trẻ có thể trở thành “người con của hòa bình” (Lc 10,6).
Trong truyền thống Bizantinô, giữa nhiều bức họa Đức Trinh Nữ Maria, có một bức họa được gọi là Đức Maria “ngọt ngào, êm dịu”, trong bức họa đó gương mặt của Hài Nhi Giêsu áp sát gương mặt Đức Maria. Hài Nhi Giêsu nhìn Mẹ Maria. Đối với chúng ta, bức họa này qui chiếu về Đức Maria, người đã cầu nguyện liên lỉ và hằng tuân giữ Lời Chúa, qui chiếu về sự “êm ái, ngọt ngào” của Thiên Chúa từ trời cao đã giáng trần và cư ngụ trong lòng Mẹ và nhập thể trong Người Con mà Mẹ đang ẵm trên tay. Trong bức họa này, chúng ta có thể chiêm ngắm một vài nét phác họa nào đó về chính Thiên Chúa: dấu chỉ tình yêu vô biên, vì tình yêu đó Thiên Chúa đã “ban Người Con duy nhất của Ngài” cho nhân loại (Ga 3,16). Nhưng bức họa này cũng cho chúng ta biết, trong Đức Maria, dung mạo của Giáo hội chiếu tỏa ánh sáng của Chúa Kitô cho chúng ta và cho toàn thế giới; qua Đức Maria, Giáo hội gửi đến mỗi người Tin Mừng: “Anh em không còn là nô lệ nữa, nhưng là con cái” (Gl 4,7) – như chúng ta nghe đọc trong thư của thánh Phaolô.
Anh em Giám mục, Linh mục, quí vị Đại sứ và các bạn thân mến! Suy tư về mầu nhiệm dung mạo của Thiên Chúa và dung mạo của con người là con đường ưu tiên dẫn đến hòa bình. Thật vậy, con đường này khởi đầu bằng cái nhìn tôn trọng con người, nhìn nhận phẩm giá của người khác dù người đó thuộc bất cứ mầu da, chủng tộc, ngôn ngữ hay tôn giáo nào. Nhưng ai, nếu không phải là Thiên Chúa có khả năng bảo đảm một cách “sâu xa nhất” dung mạo của con người? Thật ra, chỉ khi nào chúng ta có Thiên Chúa trong tâm hồn, chúng ta mới có thể đón nhận dung mạo của người anh em xứng hợp với phẩm giá của họ, nghĩa là không phải như phương tiện nhưng như là mục đích, không phải như đối thủ hay kẻ thù nhưng như một “cái tôi” khác của chính tôi, một khía cạnh không cùng của mầu nhiệm con người. Nhận thức của chúng ta về thế giới, đặc biệt về anh chị em đồng loại, căn bản phụ thuộc vào sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong chúng ta. Đây là một sự “cộng hưởng”: Ai có tâm hồn vô cảm, người ấy không thể nhận ra những giá trị cao cả nơi anh chị em của mình. Trái lại, nếu chúng ta cư ngụ trong Thiên Chúa, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra sự hiện diện của Ngài trong thiên nhiên, đặc biệt nơi anh chị em, mặc dù, đôi khi dung mạo của con người đã bị méo mó do sự dữ, do đời sống khó khăn, khiến chúng ta không thể nhận ra sự “hiển dung” của Thiên Chúa nơi dung mạo anh chị em của mình. Hơn nữa, để hiểu nhau và tôn trọng nhau như là anh chị em, chúng ta cần phải liên hệ đến dung mạo của Thiên Chúa, cha chung của tất cả chúng ta, Đấng đã yêu mến tất cả chúng ta ngay cả khi chúng ta còn nhiều sai lỗi và bất toàn.
Khi còn nhỏ tuổi, điều quan trọng đối với trẻ em là được giáo dục biết tôn trọng người khác, ngay cả sự khác biệt của họ. Trong các lớp học phổ thông qui tụ trẻ em đến từ nhiều quốc gia, ngay cả trong các lớp học mà các em cùng chung một quốc gia, dung mạo của các em như là một lời tiên báo về viễn ảnh một nhân loại mà chúng ta gọi là: gia đình của mọi gia đình, hay gia đình nhân loại. Những em nhỏ tuổi hơn trong số những em này lại là những em gợi lên trong chúng ta mối tình huynh đệ ngọt ngào, êm dịu nhất dù giữa các em có sự khác biệt, chúng khóc cười như nhau, chúng có nhu cầu như nhau, chúng liên kết với nhau một cách tự nhiên, chúng chơi chung với nhau… Dung mạo của trẻ thơ như là một phản ánh dự phóng của Thiên Chúa đối với thế giới. Tại sao chúng ta làm mất đi nụ cười của chúng? Tại sao chúng ta làm vẩn đục trái tim của chúng? Rất tiếc, bức họa Đức Maria “êm dịu” đang hiện diện giữa hình ảnh của biết bao nhiêu trẻ em cũng như mẹ của các em đang đau khổ vì chiến tranh và bạo lực. Họ bị biến thành những người lưu vong, tị nạn, bị bó buộc phải di cư. Dung mạo của họ bị hủy hoại vì đói khát và bệnh tật, bị biến dạng vì đau khổ và thất vọng. Dung mạo của các trẻ em vô tội là hồi chuông báo động không lời đối với trách nhiệm của chúng ta. Đối diện với hoàn cảnh của trẻ em vô phương tự vệ, tất cả những lý lẽ sai trái biện minh cho chiến tranh và bạo lực không có lý do đứng vững. Chúng ta phải xây dựng hòa bình bằng cách loại bỏ mọi loại vũ khí, cùng nhau xây dựng một thế giới xứng hợp hơn với nhân phẩm con người.
Trong sứ điệp của tôi nhân Ngày Hòa Bình Thế Giới lần thứ XLIII: “Nếu bạn muốn xây dựng hòa bình, bạn hãy bảo tồn thiên nhiên”, sứ điệp đặt trọng tâm trên phương diện dung mạo của Thiên Chúa và dung mạo của con người. Thật vậy, chúng ta có thể khẳng định, con người có khả năng tôn trọng thiên nhiên bằng cách thấu hiểu thiên nhiên, nếu không con người sẽ không tôn trọng chính mình và những sự vật chung quanh mình, không tôn trọng môi trường sống và không tôn trọng thiên nhiên. Ai biết nhận ra trong vũ trụ, những phản ánh dung mạo vô hình của Đấng Tạo Hóa, người đó sẽ yêu mến thiên nhiên và nhận ra được những giá trị biểu tượng của chúng. Đặc biệt, trong các Thánh Vịnh, chứa đựng những chứng từ rất phong phú về mối tương quan giữa con người với thiên nhiên: trời đất, biển khơi, núi đồi, sông ngòi, sinh vật….Tác giả thánh vịnh đã thốt lên: “Công trình Ngài, lạy Chúa, quả thiên hình vạn trạng! Chúa hoàn thành tất cả thật khôn ngoan, những loài Chúa dựng nên lan tràn mặt đất” (Tv 104/103,24).
Đặc biệt, phương diện “dung mạo” mời gọi chúng ta dừng lại trên đề tài mà trong sứ điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới, tôi đã gọi là “môi sinh của nhân loại”. Có một mối liên hệ mật thiết giữa việc tôn trọng con người và bảo tồn thiên nhiên. “Trách nhiệm đối với thiên nhiên bắt nguồn từ trách nhiệm đối với từng người và đối với toàn thể nhân loại” (số 12). Nếu con người không được tôn trọng, môi trường sống của con người cũng không được tôn trọng; nếu văn hóa hướng đến chủ nghĩa hư vô, nếu không đề ra những chương trình cụ hành động cụ thể, nếu như không thực hiện những chương trình đã đề ra, thiên nhiên sẽ bị hủy hoại. Thật vậy, có một mối liên hệ hỗ tương giữa dung mạo của Thiên Chúa và “dung mạo” của môi sinh: “Khi môi sinh của nhân loại được tôn trọng trong đời sống xã hội, môi trường sinh thái được bảo tồn” (nt; Bác Ái Trong Chân Lý, s. 51). Một lần nữa, tôi muốn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc giáo dục về môi sinh, cũng như thúc đẩy truyền thông một cách sâu rộng hơn về “trách nhiệm đối với môi sinh”, đặt nền tảng trên việc tôn trọng con người, quyền lợi và những nghĩa vụ căn bản của họ. Chỉ có như thế, nỗ lực đối với môi sinh mới có thể thực sự mang lại hòa bình và xây dựng hòa bình.
Anh chị em thân mến, trong mùa Giáng sinh, chúng ta nghe một thánh vịnh, giữa nhiều thánh vịnh khác, diễn tả việc Chúa đến đã biến đổi thiên nhiên và khai mở một lễ hội của vũ trụ. Thánh vịnh này khơi mào với lời mời gọi toàn thể vũ trụ hãy dâng lời ca ngợi Chúa: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu” (Tv 95/96,1). Nhưng có một điều chắc chắn, lời kêu gọi này hướng đến niềm vui của toàn thể nhân loại: “Trời vui lên, đất hãy nhảy mừng, biển gầm vang cùng muôn hải vật, ruộng đồng cùng hoa trái, nào hoan hỷ, hỡi cây cối rừng xanh (Tv 95/96,11-12). Ngày lễ của đức tin trở thành ngày lễ của con người và của thiên nhiên. Lễ giáng sinh diễn tả ý nghĩa đó, qua việc trang trí cây cối, đường xá, nhà cửa. Tất cả trở nên rực rỡ vì Thiên Chúa đã hiện diện giữa chúng ta. Đức Trinh Nữ Maria tỏ Hài Nhi Giêsu cho các mục đồng đang vui mừng, hân hoan ca tụng Thiên Chúa (x. Lc 2,20). Giáo hội tiếp tục giới thiệu mầu nhiệm đó cho con người mọi thời, bày tỏ cho họ dung mạo của Thiên Chúa, với ân phúc của Ngài, họ có thể tiến bước trên con đường hòa bình.
+ Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI
(Suy niệm của Lm. Tạ Duy Tuyền)
Mỗi khi đọc kinh kính mừng, chúng ta đều thưa lên cùng Mẹ: Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử. Khi chúng ta thưa cùng Mẹ điều đó, là chúng ta ý thức thân phận yếu đuối, mỏng dòn của mình thường hay sa đi ngã lại trong những lầm lỗi tội lỗi. Đồng thời cũng nói lên sự phó thác cậy trông nơi Mẹ, là Mẹ của Thiên Chúa và cũng là Mẹ chúng ta.
Vâng, khi nhập thể làm người Chúa Giêsu cũng được sinh ra từ một người mẹ, và suốt cuộc sống của Chúa Giêsu dường như luôn có bóng dáng của mẹ hiện diện để khích lệ, an ủi, nhất là trong lúc chịu đau thương trên thập giá. Mẹ đã ở bên Chúa, cùng hiệp thông trong đau khổ với Chúa để cứu độ trần gian. Có lẽ vì muốn chúng ta được sống trong tình mẫu tử của Mẹ, Chúa Giêsu đã trao ban Đức Mẹ cho chúng ta, khi Chúa nói với Gioan: “Đây là Mẹ của con”, và thánh kinh đã ghi lại: “kể từ lúc đó, người môn đệ Chúa yêu đã đón Mẹ về nhà của mình”.
Thánh Gioan đã đại diện cho nhân loại để nhận Mẹ làm Mẹ của chúng sinh. Từ nay Mẹ sẽ tiếp tục nâng đỡ chúng ta. Mẹ sẽ tiếp tục yêu thương chúng ta. Mẹ sẽ tiếp tục hiện diện trong cuộc đời chúng ta để chăm sóc, lo lắng và chở che cuộc đời chúng ta. Chúng ta có thể cảm nghiệm về tình Mẹ Thiên quốc qua hình ảnh người mẹ trần thế. Mẹ trần thế yêu thương con đến nỗi dám đánh mất chính mình cho con được lớn lên thế nào, thì người mẹ thiên quốc cũng lo cái lo của con cái dưới thế, cũng đau vời đau đau của nhân loại, cũng sẵn sàng làm tất cả đế cứu vớt nhân loại lầm than. Có lẽ ai trong chúng ta cũng thuộc lòng bài ca dao “Con cò ăn đêm” mà các bà mẹ thường hay hát ru con:
“Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
Ông ơi, ông vớt tôi vào
Tôi có lòng nào ông hãy xào măng
Có xào thì xào nước trong
Đừng xào nước đục đau lòng cò con”
Bài thơ thật ngắn gọn nhưng diễn tả về tình yêu của một người mẹ đơn côi, lặn lội nơi bến chợ, bất chấp tất cả khó khăn cực nhọc để kiếm tiền nuôi con, kể cả việc phải đi ăn đêm. Nếu số phận có đun rủi bà phải rơi xuống hố sâu lầm lỗi, bà sẵn sàng chịu mọi sự trừng phạt miễn là ông trời hãy thương lấy đàn con, gìn giữ nó được sống trong danh dự mà đoạn kết đã diễn tả: “Đừng xào nước đục đau lòng cò con”. Nghĩa là người mẹ sẵn sàng chịu mọi oan ức, mọi niềm đắng cay, nhưng miễn sao con của bà đừng bị người đời trừng phạt bởi lầm lỗi của bà, đừng bị người đời khinh chê vì những đoạn trường đắng cay của mẹ.
Tình yêu của người mẹ là thế! Bà sẵn sàng hy sinh tất cả miền là đoàn con được hạnh phúc. Trong đời sống thiêng liêng chúng ta cũng có một người mẹ là Đức Maria, Mẹ của Chúa Giêsu đã được ban cho chúng ta qua thánh Gioan. Ước gì mỗi người chúng ta cũng biết đón Mẹ về nhà cuộc đời chúng ta, để chia sẻ những vui buồn trong gia đình chúng ta. Ước gì chúng ta biết trân trọng gìn giữ Mẹ như bảo ngọc châu báu mà Chúa đã ban cho chúng ta, đừng để mất Mẹ, vì mất Mẹ là mất cả bầu trời. Ước gì mỗi người chúng ta biết tin tưởng phó dâng cuộc sống gia đình của mình cho Mẹ và biết dành một vài giây phút trong ngày để thưa lên cùng Mẹ. Thánh Maria Đức Mẹ Chúa cầu cho chúng con hôm nay và trong giờ lâm tử. Amen
Hình ảnh đẹp nhất về hòa bình là hình ảnh một phụ nữ âu yếm bồng con. Và hình ảnh hung bạo nhất của chiến tranh là hình ảnh một phụ nữ khóc than bên xác của con mình, nạn nhân của bất cứ loại vũ khí nào.
Khi Thiên Chúa muốn mặc khải cho chúng ta rằng Ngài đến mặc khải công trình cứu độ mà Ngài thực hiện để “làm cho chúng ta trở thành con cái Ngài”, thì Ngài đã hiến dâng chính mình như một trẻ thơ được bồng ẵm trong tay âu yếm của một phụ nữ, Đức Maria, thân mẫu Ngài.
Trong lễ này, ta hãy chiêm ngưỡng Đức Maria thân mẫu Chúa Giêsu, vua hòa bình, như Lời Chúa trình bày cho chúng ta.
Tình mẫu tử của Đức Maria.
Tin Mừng gợi lên một cách kín đáo nhưng đúng đắn thực tại tình mẫu tử của Đức Maria. Chỉ hai nét đã đủ, trong ấy mọi người phụ nữ làm mẹ sẽ nhận ra được mình: lo lắng cho hài nhi và liên lỉ chú ý đến những biến cố trong cuộc đời của con.
Việc Chúa Giêsu sinh ra đã không làm cho Đức Maria ngạc nhiên. Người đã giúp đỡ bà chị họ Êlisabet và có lẽ nhiều người phụ nữ khác trong làng nữa. Người biết phải săn sóc, âu yếm, an ủi trẻ sơ sinh như thế nào. Và, như tất cả những người mẹ chất chứa trong ký ức của lòng mình vô số kỷ niệm từ những đứa con bà đã cưu mang và đã sinh hạ, Đức Maria nhớ tất cả những gì đã xảy ra liên quan đến Chúa Giêsu. Người ta nhìn thấy Mẹ đầy hạnh phúc sâu xa, đầy vinh dự mà tất cả mọi người mẹ đều có.
Nhưng tình mẫu tử của Đức Maria khác biệt với tình mẫu tử của những người mẹ khác. Tin Mừng cho ta hiểu điều này qua một chi tiết khiến cho nhiều Kitô hữu đầu tiên và cả chúng ta nữa phải ngạc nhiên: Đức Maria và thánh Giuse đã không tự mình đặt tên cho con trẻ. Trẻ này, mặc dù sinh bởi Đức Maria nhưng là Con Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa khi đặt tên cho con trẻ sinh bởi Đức Maria, đã khẳng định mình là Cha. Đức Maria và thánh Giuse chấp nhận mầu nhiệm lớn lao này liên quan đến Con của mình. Hai đấng tôn trọng Ngài và muốn cho người ta tôn trọng Ngài khi đón tiếp các mục đồng tò mò và phấn khởi tìm đến trước một trẻ sơ sinh trong dòng họ vua Đavít.
Thời hòa bình.
Thánh Phaolô, người đầu tiên trong Thánh Kinh Tân Ước nói đến Đức Maria, đã khẳng định việc người làm mẹ, việc này chứng tỏ thực tại của ơn cứu độ.
Việc Đức Maria làm mẹ khai mạc thời đại mới, thời đại ân sủng. Người phụ nữ đầu tiên sinh con đã khai mạc lịch sử nhân loại. Vào những lúc khác, trong lịch sử Cựu Ước, mỗi giai đoạn mới lại được mở ra bằng một việc sinh con. Mẹ của Môsê sinh ra ông, bà Rút sinh ra tổ tiên của Đavít và của Chúa Giêsu. Bà Anna sinh Samuel, bà Êlisabet sinh Gioan Tẩy Giả. Việc Đức Maria sinh con, công trình của ân sủng chứ không phải của xác thịt, là biến cố mở đầu ơn cứu độ mà Thiên Chúa muốn ban cho loài người.
Việc làm mẹ này cũng mang một tính cách đặc biệt. Nó được loan báo bởi tiếng kêu: Hòa bình cho nhân loại! Nó bày tỏ công cuộc hòa bình, bởi vì hết thảy mọi người được mời gọi đến hòa giải với Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu sinh bởi Đức Maria. Cho đến tận thế tính cách làm Mẹ của Đức Maria vẫn là hình ảnh mà Thiên Chúa để lại hầu giúp chúng ta thực hiện công việc hòa bình giữa chúng ta.
Kết luận.
Khi kết thúc việc cử hành thánh lễ này chúng ta sẽ thưa với Chúa về niềm hãnh diện của chúng ta khi nghĩ đến Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Chúng ta cũng hiểu rằng chúng ta phải đi đến tận cùng niềm hãnh diện đó; là con cái, chúng ta thưa Lạy Cha với Thiên Chúa, vậy trong năm mới này chúng ta có thể sống bình an với nhau không?
Đón chào năm mới, chắc chắn có nhiều thái độ khác nhau. Người trẻ vui mừng vì càng thêm tuổi, càng thêm cao lớn. Người già có lẽ đón xuân với nhiều e ngại, dè dặt. E ngại không phải chỉ vì ngày tháng còn lại, nhưng còn vì thấy mái tóc và nét mặt ngày càng biến đổi mau lẹ. Bao nhiêu người đã muốn che dấu nỗi e ngại đó bằng những đợt nhuộm tóc hàng tháng. Người giàu có hơn lại đi căng da mặt mỗi năm. Ít nhất mỗi người đều cố gắng giữ mãi tuổi xuân hay làm cho mình trẻ lại bằng những mỹ phẩm. Ngày nay, thẩm mỹ viện không phải chỉ đón tiếp nữ giới. Cả phái mày râu cũng bước vô đó để sửa cằm, mắt, mũi và... đổi giống nữa.
Ai cũng muốn trẻ đẹp mãi. Nhưng vẻ đẹp đích thực là gì? Giá trị con người nằm ở chỗ nào? Nhìn lên Mẹ Maria, Thánh Mẫu Thiên Chúa, chúng ta mới thấy tất cả vẻ đẹp, giá trị và sự sống đích thực của con người.
Từ ngày còn ngồi trên gối mẹ, chúng ta đã đọc: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời...” Trí khôn chúng ta còn quá non nớt và khờ dại, làm sao hiểu được mầu nhiệm cao sâu đó? Cho tới bây giờ, chúng ta vẫn không thấu hiểu những gì chúng ta vẫn đọc hằng ngày. Vậy mà, Mẹ Maria vẫn ban ơn và cầu bầu cho chúng ta.
Mặc dù tội lỗi, chúng ta vẫn được Chúa thương ban cho chúng ta cầu khẩn Mẹ với danh hiệu cực thánh: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời...” Càng tội lỗi, chúng ta càng đáng được Mẹ đoái thương. Sở dĩ chấp nhận làm Thánh Mẫu Thiên Chúa, vì Mẹ đã sinh ra Con Thiên Chúa làm người để cứu chuộc chúng ta. Mẹ đã ban cho Chúa một thân xác để có thể sống và trở nên giống chúng ta hoàn toàn. Bởi thế, khi tuyên xưng Đức Mẹ Thiên Chúa, chúng ta tin chắc chắn về mầu nhiệm nhập thể của Ngôi Hai Thiên Chúa. Đàng khác, khi cầu nguyện với Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, chúng ta còn tin chắc sẽ được Thiên Chúa cứu độ.
Nhận tước hiệu Thánh Mẫu Thiên Chúa, Mẹ muốn chứng minh cho mọi người biết Con Thiên Chúa có một thân xác đích thực do Thánh Linh tạo dựng trong lòng Mẹ. Đàng khác, Mẹ muốn cứu tất cả nhân loại. Với chức vị Thánh Mẫu Thiên Chúa, Mẹ chỉ muốn nói thực tế Mẹ đã sinh ra Con Thiên Chúa như lời sứ thần truyền tin. Từ giờ phút đó, Mẹ nghiễm nhiên trở thành Đức Mẹ Thiên Chúa. Tín điều này đã được công đồng Êphêsô tuyên tín năm 431. Cả Giáo Hội Đông và Tây đều tôn kính và trân trọng tước vị cao cả đó của Mẹ.
Tin như thế, Giáo hội không mù quáng, như nhiều người lầm tưởng. Họ tưởng Đức Mẹ sinh ra bản tính và ngôi vị Thiên Chúa. Nếu thế, Thiên Chúa không còn là nguyên ủy của mọi nguyên ủy nữa. Chẳng lẽ Thiên Chúa còn phải lệ thuộc như vậy? Đúng ra, chức vị Thánh Mẫu Thiên Chúa chỉ liên hệ tới Ngôi Hai, chứ không bao trùm cả Ngôi Nhất và Ngôi Ba. Cả bản tính Thiên Chúa, Mẹ cũng không đụng chạm tới được. Nhưng vì sinh ra con người Đức Giêsu, gồm Ngôi Lời, Thiên tính và nhân tính, nên Mẹ xứng đáng được tôn phong làm Thánh Mẫu Thiên Chúa.
Tước hiệu đó cao trọng vô cùng, nhưng không đủ hấp dẫn Mẹ đến nỗi Mẹ quên tất cả mọi sự. Mẹ không muốn đổi danh dự của một trinh nữ lấy tước hiệu đó. Tới khi được thiên thần bảo đảm Thánh Thần sẽ hành động tất cả, Mẹ mới khiêm tốn thưa lời xin vâng. Cử chỉ đó đã khiến Mẹ được Thiên Chúa quý trọng và nâng cao Mẹ vượt trên các thiên thần và các thánh trên trời.
Mẹ quả là một con người biết tự trọng và có trách nhiệm về những việc xảy ra. Chính vì thế, nơi cung lòng Mẹ, đất trời đã gặp gỡ và tấu lên ca khúc bình an. Một cuộc hiệp thông lớn lao đã diễn ra ngay trong lòng Mẹ. Có một nhân vị vô cùng cao trọng đang giang tay nối người anh em nhân loại với Thiên Chúa là Cha. Nếu Mẹ không cương trực và khiêm cung chấp nhận sinh Con Thiên Chúa, làm sao có một nhân vị làm trung gian nối đất trời như vậy?
Từ ngày Chúa Nhập Thể, con người trở thành “trung tâm của hòa bình.” Bởi thế, “tôn trọng con người” là “thăng tiến hòa bình.” (Bênêđictô XVI) Đúng thế, trước khi Chúa làm người, không ai có thể nối kết đất trời và dẫn con người đi vào cuộc hiệp thông và hòa giải với Thiên Chúa và với con người. Trong công cuộc hòa giải lớn lao này, Mẹ Maria đã đóng một vai trò rất quan trọng. Nếu Mẹ không cưu mang và sinh hạ Con Thiên Chúa, chắc chắn Mẹ cũng không thể trở thành Thánh Mẫu Thiên Chúa. Nhưng ngay khi Mẹ chấp nhận làm Thánh Mẫu Thiên Chúa, Mẹ trở thành Nữ Vương Hòa Bình, vì cung lòng Mẹ đã cưu mang Thái Tử Hòa Bình là Con Thiên Chúa.
Lạy Chúa, cảm tạ Chúa đã thương cho con nhận biết và tin thật Mẹ Maria là Thánh Mẫu Thiên Chúa và Nữ Vương Hòa Bình. Xin cho con trung thành và siêng năng kêu cầu “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời” suốt cuộc đời con để hòa bình luôn ngự trị trên khắp hoàn cầu. Amen.
Ngày đầu năm mới và cũng là ngày Quốc Tế Hòa Bình, Giáo Hội hân hoan cử hành lễ Đức Maria rất thánh, Mẹ Thiên Chúa. Cả hai sự kiện này cùng diễn ra khi Giáo Hội đang cử hành mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người, Ngài là Hoàng Tử Bình An, là hòa bình đích thực của nhân loại.
Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban chính Con của Ngài sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria. Đức Mariađã được nâng lên địa vị là Mẹ Thiên Chúa và Giáo Hội muốn đặt lễ hôm nay lên hàng đầu của năm tháng ngày giờ.
1. Ý nghĩa của Truyền Tin.
Tại sao một thiếu nữ nhỏ bé sống ở làng nghèo Nadaret lại trở thành Mẹ Thiên Chúa? Nhìn về mặt bề ngoài, Mẹ Maria không có gì nổi bật so với những người phụ nữ thời ấy. Tên Maria là một tên rất phổ biến, giống như tên Tuyết, Cúc, Đào…trong giới phụ nữ Việt Nam. Mẹ Maria người làng Nadaret (Lc 1,26), một làng rất tầm thường như sau này Nathanael nhận xét: “Từ Nadaret làm sao có cái gì hay được?” (Ga 1,46).
Để có câu trả lời, cần tìm về ý nghĩa của biến cố Truyền Tin. Thi sĩ Hàn Mặc Tử viết bài thơ ‘Ave Maria’ bất hủ từ câu chuyện này.
Hỡi Sứ thần Thiên Chúa, Gabriel.
Khi Người xuống truyền tin cho Thánh Nữ.
Người có nghe xôn xao muôn tinh tú.
Người có nghe náo động cả muôn trời.
Người có nghe thơ mầu nhiệm ra đời.
Để ca tụng bằng hương hoa sáng láng.
Bằng tràng hạt, bằng Sao Mai chiếu rạng.
Một đêm xuân là rất đỗi anh linh.
Cho tôi thắp hai hàng cây bạch lạp.
Khói nghiêm trang sẽ dâng lên tràn ngập.
Cả Hàn Giang, cả màu sắc thiên không.
Lút linh hồn và ám ảnh hương lòng.
Cho sốt sắng, cho đê mê nguyền ước.
Tấu lạy Bà, lạy Bà đầy ơn phước.
Cho tình tôi nguyên vẹn tựa trăng rằm…
Sứ thần Gabriel đến Nadaret chào thôn nữ Maria:“Mừng vui lên hỡi Đấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng Bà”. Ba tiếng “Đầy-ân-sủng” gộp lại trở thành như là tên gọi riêng của Đức Maria. Mẹ được tràn đầy ân sủng. Mẹ luôn luôn có Thiên Chúa ở cùng. Không có giây phút nào mà Mẹ không có Thiên Chúa với mình. Không có giây phút nào mà Mẹ không trọn vẹn thuộc về Chúa. Không có bất cứ dấu vết tội lỗi chen vào giữa Mẹ và Thiên Chúa (Lm Nguyễn Hồng Giáo).
Tại sao Thiên thần nói với Maria: hãy vui lên?. Lời mời gọi này nhắc lại lời Ngôn sứ Xôphônia thế kỷ thứ VI báo tin ngày cứu độ cho Israel: “Reo vui lên hỡi thiếu nữ Sion, hò vang dậy đi nào, nhà Israel hỡi…Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi, Người là vị cứu tinh, là Đấng anh hùng” (Xp 3,14-17). Sứ thần Gabriel cũng mời gọi Đức Maria hãy vui lên vì giờ cứu độ của Thiên Chúa đã đến. Sứ thần trình bày: “Này Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu. Đức Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng Đavit tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacop đến muôn đời, và vương quyền của Người sẽ vô cùng vô tận” (Lc 1,31-33).
Là một tâm hồn luôn luôn nghiền ngẫm Kinh thánh, chắc hẳn Đức Maria nhớ lại Lời Chúa đã dùng Ngôn sứ Nathan mà thề hứa với vua Đavit xưa. Nhưng điều mà Mẹ không bao giờ nghĩ tới là mình có thể có vai trò gì trong việc thực hiện lời tiên tri ấy. Chuyện “không thể” được đầu tiên là làm sao mình sinh con được vì đã quyết “không biết đến chuyện vợ chồng” để sống trọn vẹn cho một mình Thiên Chúa mà thôi. Sau khi được Sứ thần giải thích rằng “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”. Maria khiêm nhường thưa lại: ‘Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Và thế là Ngôi Hai Thiên Chúa đã nhập thể làm người trong lòng Đức Trinh Nữ. Và thế là Đức Maria khiêm nhường đã trở thành thánh mẫu của Thiên Chúa.
Mẹ được Thiên Chúa sủng ái, và được trở nên cao trọng, vì Mẹ khiêm nhường. Đức khiêm nhường dẫn Mẹ đến chỗ hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa.Trong bài Magnificat, chính Đức Mẹ đã nói về mình rằng:
Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa
Thần trí tôi hớn hở vui mừng
Vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn,
Chúa đoái thương nhìn tới.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường
Đức Mẹ thuộc truyền thống những người nghèo khó, hèn mọn được Thiên Chúa che chở cách riêng. CĐ Vaticanô II trong hiến chế tín lý về Giáo hội đã dạy: “Đức Maria đứng đầu trong hàng ngũ những người khiêm nhường và nghèo khó của Chúa vẫn mong đợi và lãnh nhận ơn cứu độ với lòng tin tưởng” (số 55).
Từ biến cố Truyền tin, qua lời đáp xin vâng của Mẹ, Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập thể trong lòng dạ Mẹ. Đức Maria trở thành Mẹ Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế. Giáo hội đã tuyên bố Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, Người có ngôi vị duy nhất trong hai bản tính. Đức Maria là Mẹ Chúa Giêsu, Mẹ Thiên Chúa làm người, nên là Mẹ của Thiên Chúa. Công đồng Êphêsô 431 đã minh định điều ấy khi tuyên tín Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa.
Đức Maria đã trở thành Mẹ của Chúa qua thái độ khiêm nhường và lời đáp xin vâng phát xuất từ lòng tin của Mẹ. Do đó, khi tuyên xưng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, chúng ta không chỉ hiểu chức làm mẹ đó chỉ thuộc về thân xác mà thôi, nhưng nhìn nhận Đức Maria là Mẹ do hành vi tin hoàn toàn tự do của Ngài, như bà Êlisabet đã thốt lên: “Phúc cho em vì đã tin những lời Chúa phán”. Chúa Giêsu có lần đã tuyên bố: “Mẹ và anh em Ta là những ai biết lắng nghe và thực hành Lời Thiên Chúa” (Lc 8,21).
2. Tín điều Mẹ Thiên Chúa
Mẹ Thiên Chúa trở thành một tín điều và là mầu nhiệm của đức tin Công Giáo. Tước hiệu này đã trở nên một phần vĩnh viễn trong những kinh tuyên xưng đức tin và trong phụng vụ của toàn thể Giáo Hội Công Giáo.
Tín điều Mẹ Thiên Chúa được xây dựng trên nền tảng Thánh Kinh.
Tiên tri Isaia loan báo: “một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh con trai và sẽ đặt tên con trẻ là Emmanuel” (Is 7,14). Đức Maria sinh ra Đấng Emmanuel, nên Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Lời tiên tri được thực hiện khi sứ thần Gabriel báo tin cho Mẹ Maria: "Bà sẽ thụ thai, sinh con trai và sẽ đặt tên con trẻ ấy là Giêsu... Vì thế Con Trẻ sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa." (Lc 1,31-35).
Thánh Phaolô viết: ‘Thiên Chúa đã sai con mình đến sinh bởi người nữ và sinh dưới chế độ luật” (Gal 4,14). Trong Tin mừng Gioan, Mẹ Maria được gọi là Mẹ Chúa Giêsu (2,1 ; 19,26), và trong Tin mừng Luca, Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa đến thăm bà Elidabet (1,43).
Các Kitô hữu thời sơ khai được các Tông Đồ hướng dẫn, luôn có một niềm tin vững chắc vào thiên chức Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria. Điều này được chứng tỏ bằng những việc tôn kính phổ quát như Kinh Tin Kính của các Tông Đồ.
Tước hiệu Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa, đã được các giáo phụ như Thánh Cyrilô, Athanasiô, Ignatiô Antiochia, tin yêu và truyền dạy.
Công Đồng Êphêsô năm 431 tuyên tín Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa.
Công Đồng Constantinople III (680-681) xác quyết rằng: Chúa Giêsu Kitô được sinh ra bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, và Đức Trinh Nữ Maria chính thức và thật sự là Mẹ Thiên Chúa theo nhân tính của Chúa Kitô.
Đức Giáo Hoàng Piô XI, đã ra thông điệp “Mediator Dei” mừng kỷ niệm 1.500 năm Công Đồng Êphêsô và công bố lễ Mẹ Thiên Chúa, mừng trong toàn thể Giáo Hôi vào ngày 11 tháng 10.
Đức Piô XII, đã thiết lập Năm Thánh Mẫu vào năm 1954 và tuyên bố rằng chức Mẹ Thiên Chúa là nguồn gốc tất cả mọi ơn sủng và đặc sủng của Mẹ Maria.
Công Đồng Vaticanô II dành chương VIII trong Hiến Chế Lumen Gentium, nói về Mẹ Thiên Chúa. Và trong Hiến Chế về Phụng Vụ, các Nghị Phụ Công Đồng đã chuyển lễ Mẹ Thiên Chúa ngày 11 tháng 10 sang ngày 1 tháng 1 hàng năm.
Thánh Lễ thật phong phú với những lời cầu nguyện cùng Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Giáo Hội. Cả 4 kinh nguyện Thánh Thể đều nhắc tới Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa. Trong kinh nguyện Thánh Thể I, linh mục chủ tế đọc: Hiệp cùng Hội Thánh, chúng con kính nhớ Đức Maria vinh hiển trọn đời đồng trinh Mẹ Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Kinh nguyện Thánh Thể II, III và IV đọc: Cùng với Đưc Trinh Nữ Maria Mẹ Thiên Chúa...
“Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con…” là lời kinh được đọc lên hàng triệu triệu lần mỗi ngày. Danh hiệu Mẹ Chúa Trời được đọc trong phụng vụ của Giáo Hội, trong kinh nguyện riêng tư tại gia đình, trên xe, trên giường bệnh... Càng hiểu biết và yêu mến mầu nhiệm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, chúng ta càng hiểu biết và yêu mến cách trọn vẹn hơn mầu nhiệm Chúa Cứu Thế, Người Con rất yêu dấu của Đức Mẹ.
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Giáo Hội mừng lễ Mẹ Thiên Chúa vào ngày đầu năm Dương lịch, cũng là ngày cầu nguyện cho hòa bình thế giới như một nhắc nhớ việc chiêm ngưỡng Mẹ là một Tạo Vật mới tinh tuyền của Thiên Chúa, một Evà mới khởi đầu một thời đại mới, một tạo dựng mới. Kỷ nguyên cứu độ đã khởi sự qua việc Chúa Giêsu nhập thể trong cung lòng Đức Mẹ sau lời xin vâng. Mẹ được tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế để bắt đầu kỷ nguyên cứu độ. Nếu Evà cũ đã bất tuân để vùi lấp con người trong khổ đau và sự chết, thì Đức Mẹ với tâm tình xin vâng đã đưa Chúa Giêsu đến với nhân loại mang lại sự sống và tình yêu. Từ đây nhân loại sẽ bước đi trong ánh sáng cứu độ. Chúa Giêsu vị Vua Thái Bình, Hoàng Tử Bình An đã đi vào lòng thế giới, để thiết lập vương quốc Nước Trời qua Mẹ Maria. Đức Thánh Cha Phaolô VI đã viết: “Vì sự trùng hợp tốt đẹp giữa ngày 01 tháng giêng với ngày thứ tám giáp lễ Giáng Sinh mà chúng tôi đã đặt ngày đó là ngày Thế Giới Hòa Bình, mà thế giới mỗi ngày càng hưởng ứng thêm, và thành quả của hòa bình đã phát sinh trong lòng nhiều người.” (Marialis Cultus, số 5).Chúa Giêsu được xưng tụng là Hoàng Tử Hòa Bình, đến chuộc tội nhân loại, giao hòa con người với Chúa Cha. Mẹ Maria luôn gắn bó, hợp tác, hiệp công với Con của mình nên đã trở nên Nữ Vương Hòa Bình cho toàn thế giới. Mẹ đã đóng góp cả cuộc đời mình cùng với Chúa Giêsu mà giải phóng con người khỏi ách nô lệ tội lỗi.Chủ đề Sứ điệp Hòa Bình năm nay là “Không còn nô lệ nữa, nhưng chỉ còn tình huynh đệ với nhau”. ĐTC Phanxicô viết: “Việc quay trở về với Đức Kitô, bắt đầu một cuộc sống là người môn đệ trong Đức Kitô, làm nên một sự tái sinh (x. 2Cr 5,17; 1Pt 1,3) vốn tái tạo lại tình huynh đệ như là mối dây nền tảng của đời sống gia đình và đời sống xã hội” (Sứ điệp ngày Thế Giới Hòa Bình 2015).
Đức Mẹ khuyên mọi tín hữu siêng năng lần hạt và coi chuỗi kinh Mân Côi như là phương tiện hun đúc hòa bình. Ngày 13 tháng 10 năm 1917 tại Fatima, Đức Mẹ đã hiện ra để lại lời nhắn nhủ dưới hình thức của huấn lệnh là: cải thiện đời sống, siêng năng lần hạt, tôn sùng trái tim Mẹ. Đây chính là lộ trình nên Thánh bao gồm ba bước tiếp theo nhau và chuỗi Mân Côi được đặt như là một nhịp cầu giữa một bờ là tội lỗi nhân loại và bờ bên kia chính là ơn thánh hóa của Thiên Chúa. Cũng như việc lần hạt chuyên cần là một phương tiện hiệu quả giúp người ta đạt được hòa bình. Chính trong ý nghĩa này, kinh Mân Côi phải được gọi là Kinh của hòa bình. Ở đâu kinh Mân Côi được cổ võ thì ở đó cũng vang lên lời cầu nguyện tha thiết: “Nữ Vương ban sự bình an cầu cho chúng con”.
Lễ Mẹ Thiên Chúa kết thúc tuần Bát Nhật Giáng Sinh làm tỏa sáng vẻ đẹp kỳ diệu của tình yêu cứu độ. Ngôi Hai đã vâng phục nhập thể cứu độ nhân loại. Với tiếng xin vâng, Đức Maria làm Mẹ Ngôi Lời nhập thể và làm Mẹ hết thảy những ai được tháp nhập vào thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô.
Lạy Mẹ Maria Nữ Vương Hòa Bình, Mẹ đã chọn phần tuyệt hảo là lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa. Xin cho chúng con luôn biết noi gương Mẹ, gắn bó cùng Chúa trọn đời. Amen.
Suy niệm
Làm người ai cũng cần có mẹ.
Mẹ là người cưu mang, sinh ra và dưỡng nuôi con cho khôn lớn.
Khi Con Thiên Chúa làm người, mang lấy trọn phận người,
Ngài cũng cần một người mẹ, như bao người khác.
Mẹ Maria là thiếu nữ, là trinh nữ được Thiên Chúa tuyển chọn,
Để thụ thai và sinh hạ Con Một Thiên Chúa.
Khi Công Đồng Êphêsô (năm 431) gọi Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa,
Công Đồng không có ý dạy
Đức Mẹ sinh ra Chúa Cha hay Chúa Thánh Thần.
Đức Mẹ chỉ sinh ra Đức Giêsu,
Mà Đức Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể,
Nên Mẹ thực sự là Mẹ Thiên Chúa (Theotokos).
Chắc Mẹ Ma ria không thể hiểu hết và hiểu ngay
Màu nhiệm lớn lao mà Mẹ đang cưu mang trong dạ.
Khi các mục đồng kể lại những điều huy hoàng họ nghe thấy ở Belem,
Mẹ Maria ghi nhớ tất cả những điều ấy và suy đi nghĩ lại trong tim mình.
Để đi vào mầu nhiệm cách sâu xa, cần ơn soi sáng của Chúa,
Nhưng cũng cần thái độ chiêm niệm, nghiền ngẫm trong lặng thinh.
Chúng ta thường để ý đến biến cố Truyền Tin và biến cố Giáng Sinh,
biến cố Ngôi Lời bắt đầu hiện hữu trong lòng mẹ và biến cố chào đời.
Nhưng chúng ta không được quên chín tháng Mẹ cưu mang người Con.
Con Thiên Chúa đã lớn lên từ từ trong lòng Mẹ như các thai nhi khác.
Muốn sinh Đức Giêsu cho thế giới hôm nay,
Chúng ta cũng cần nhiều thời gian để cưu mang Ngài trong cuộc đời ta,
để Ngài trở nên đủ cứng cáp khi chào đời.
Chúng ta cũng phải chấp nhận cả sự đau đớn khi sinh hạ.
Bước qua một Năm Mới, mở trang đầu của cuốn lịch mới,
Chúng ta mong những điều mới mẻ tốt lành xảy đến cho mình
Và muốn tặng cho nhau một câu chúc đầy ý nghĩa:
“Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em!”(Ds 6, 26)
ĐỨC MARIA - MẸ THIÊN CHÚA
Trong Anh ngữ, tháng một (January) là đặt theo tên của một vị thần La-Mã, vị thần này có hai mặt, một mặt nhìn về quá khứ và một mặt hướng đến tương lai. Thật vậy, đây là thời điểm để cho chúng ta nhìn lại một năm đã qua và hướng về một năm mới trước mặt. Một năm đã qua đi, tôi đã làm được những gì, và gặt hái được những gì? Tôi đã tận dụng thời gian ấy để thăng tiến trong những ước nguyện và mục tiêu trong cuộc sống của mình như thế nào? Tôi có dùng những thời gian qua để nâng cao mục đích của sự hiện hữu của tôi không? Tôi có thể làm tốt hơn năm ngoái theo cách sử dụng thời giờ cho những đòi hỏi của việc làm, của gia đình, của bạn bè, của xã hội, và sự đòi hỏi của đời sống tâm linh của riêng tôi? Tôi đã gặt hái được gì và điều gì đã không thành tựu trong năm qua? Làm thế nào để tôi củng cố được những thành tựu trong năm qua đồng thời đảo ngược những thất bại và mất mát trong năm mới? Qua sự kiểm điểm chính mình bằng những câu hỏi nêu trên, chúng ta nhận ra rằng sự kiểm điểm ấy sẽ đưa chúng ta tìm được mục đích và những quyết tâm cải hóa trong năm mới.
Có người nói với chúng ta rằng: mình chẳng cần phải có quyết tâm cải đổi trong năm mới. Đừng tin họ! Chúng ta phải định mục tiêu cho chính chúng ta và đề ra những cải đổi cần thiết tóm gọn trong những điều chúng ta đã kiểm điểm. Chúng ta cần phải kiểm điểm đời sống của chúng ta hằng năm, vì như triết gia Socrates nói, cuộc đời không có kiểm điểm là cuộc đời không đáng sống.
Báo chí ngày nay đầy rẫy những quyết tâm cải cách cho cá nhân hoặc tập thể. Hầu hết những điều ấy thường chỉ là những mong ước hơn là quyết tâm. Sự khác biệt giữa mong ước và quyết tâm như thế nào? Mong ước là nhận ra được mục đích người ta muốn đạt được, quyết tâm cải cách là định rõ từng bước người ta phải tiến hành để đạt được mục đích. Sự mong ước: đây là điểm tôi muốn đạt, còn quyết tâm thì nói: đây là lề lối tôi sẽ áp dụng, đây là những điều tôi sẽ làm để đạt được thành qủa. Người hay mong ước thì nói rằng: “Tôi muốn thi đậu trong năm nay” và người có quyết tâm thì nói: “Tôi sẽ dành ra một tiếng đồng hồ mỗi ngày để học cho đậu cuộc thi này”. Người hay mong ước thì nói: “Năm nay, tôi sẽ có thêm sự an bình và thương yêu trong gia đình tôi” còn người có quyết tâm thì nói: “Tôi sẽ dành nhiều thì giờ hơn nữa cho gia đình, nơi bàn ăn hơn là vội vã để xem truyền hình, để chúng tôi có dịp tìm hiểu và thông cảm nhau hơn”. Người hay mong ước thì nói: “Năm nay, tôi sẽ sống một đời sống kết hợp với Chúa” còn người có quyết tâm thì nói: “Hằng ngày, tôi sẽ dành ra thời gian này để cầu nguyện và nghe lời Chúa”. Sự khác biệt giữa mong ước và quyết tâm là: Chúng ta có chuẩn bị để làm những gì có thể làm được để tạo ước mơ thành sự thật chưa? Chúng ta có chuẩn bị để trả giá cho những điều mình sắp làm chưa?
Đoạn phúc âm hôm nay cho chúng ta thấy Đức Maria là gương mẫu của cuộc sống mới trong Chúa Kitô, cuộc sống mà tất cả chúng ta mong ước cho mình trong năm mới. Chúng ta thấy rằng Đức Maria đã được chuẩn bị để làm những công việc cho mục đích tạo cuộc sống mới này. Đức Maria đã làm gì? Chúng ta đọc thấy rằng khi các mục đồng đến thờ lạy Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ, họ nói rằng các thiên thần đã báo tin cho họ biết. “Nhưng Đức Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Luca 2:19). Lại nữa, sau khi tìm được thiếu niên Giêsu trong đền thờ, chúng ta cũng được nghe rằng “Riêng Đức Mẹ thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Luca 2:51). Đức Maria là người đàn bà đã tôn kính lời Chúa, đã trân qúy lời Chúa và đã dành thời giờ để suy niệm Lời của Chúa. Thật ra, sự thánh thiện của Đức Maria đã thông phần với hồng ân của Thiên Chúa, nhưng chúng ta cũng không quên rằng: Đức Maria đã cần phải dành nhiều nỗ lực để được đồng cộng tác trong ân sủng của Thiên Chúa. Người đã suy niệm Lời Chúa để nhận biết những điều Chúa đã nói với mình trong từng giai đoạn của đời mình, cuộc đời được làm tôi tớ của Chúa.
Hai thí dụ kể trên về Đức Maria đã suy niệm, cân nhắc lời Chúa, như sau khi các mục đồng đến thờ lạy Chúa Hài Đồng và sau khi tìm được Chúa Giêsu trong đền thờ, cho thấy rằng Đức Maria đã tìm ra lời Chúa trong sự mặc khải thiêng liêng (lời của thiên thần báo cho mục đồng) và trong kinh nghiệm của chính Người (khi gặp lại Con trong đền thờ). Tương tự như vậy, ngày nay Chúa nói với chúng ta qua sự mặc khải thiêng liêng (kinh thánh, các bài giảng, những điều giảng dậy của Hội Thánh) ngay cả qua những kinh nghiệm cá nhân, nếu chúng ta dành thì giờ để suy gẫm như Đức Maria đã làm.
Cho dù chúng ta đang ở trong tình huống nào, một sự khốn khó, một điều bất như ý, trước một quyết định khó khăn – Chúa có phương thức giải quyết, Chúa có giải đáp đúng đắn cho chúng ta. Hãy kể những điều ấy cho Chúa nghe trong lời kinh nguyện, nhưng cũng lắng nghe những gì Chúa nói với chúng ta. Cầu nguyện là đối thoại với Chúa, nhưng đôi khi chúng ta chỉ muốn nhấc điện thoại đọc lên một chuỗi những khó khăn của mình cho Chúa nghe và cúp điện thoại để không nghe những gì Chúa muốn nói với chúng ta. Hôm nay, chúng ta hãy quyết tâm lắng nghe tiếng Chúa, trân qúy và suy niệm trong lòng. Từ đấy chúng ta sẽ có thể nhận biết những cải hóa cần thiết cho cuộc sống mới kết hợp với Chuá.
Chủ đề: "Đức Maria không phải chỉ là Mẹ Thiên Chúa mà còn là Mẹ của hết thảy chúng ta."
Cách đây nhiều năm, Fulton Oursler là biên tập viên của một tạp chí nội địa được các độc giả hoan nghênh nhiệt liệt, câu chuyện đàng sau sự thành công của anh rất hấp dẫn. Nhưng câu chuyện anh tìm kiếm Thiên Chúa còn hấp dẫn hơn nữa.
Với tư cách một phóng viên cho tờ báo Baltimore American, đã dự những buổi họp của giáo phái Methodist, các hội nghị của gíao phái Baptist, và những buổi sinh hoạt ngoài trời. Anh cùng dự cả những buổi họp để chờ các vong hồn xuất hiện trong phòng tối. Anh nói: “vào tuổi 30, ngoài những chuyện ấy ra, tôi còn tự nhận mình là người theo thuyết bất khả tri (agnostic). Nhưng thay vì tìm được bình an, sự vô tín ngưỡng khiến anh cảm thấy tâm hồn mình hoàn toàn trống trải và bất hạnh. Sự trống trải bất hạnh ấy về sau lại biến thành một nỗi u uất gặm nhấm tâm hồn anh. Thế rồi một ngày kia, cơn khủng hoảng trầm trọng đó đã làm cho gia đình anh phải lo sợ. Anh cần được cứu giúp. Nhưng sự cứu giúp mà anh cần là một thứ cứu giúp mà bạn bè anh không thể làm được cho anh. Anh không biết cầu cứu ai, kể cả Thượng Đế, vì anh có tin vào Ngài đâu.
Tại New York, vào một ngày lộng gío, anh rảo bước trên đại lộ Thứ Năm. Tới nhà thờ chính toà, anh dừng lại, ngắm nhìn ngôi giáo đường và suy nghĩ. Anh đang tuyệt vọng. Mấy phút sau, anh định thần lại bước lên các bậc thang, vào bên trong nhà thờ và ngồi xuống, sau một vài phút tập trung tư tưởng, anh cúi đầu xuống và xin Thiên Chúa ban đức tin cho anh. Anh ngồi đó một lát rồi đứng dậy. Anh tới gian nhà nguyện của Đức Mẹ ở trong giáo đường. Anh bước vào trong, quì gối xuống, và cầu nguyện như sau:
“Mười phút nữa hay sớm hơn, tôi có thể thay đổi ý định, tôi có thể chế diễu tất cả những việc này và lại trở lại với sự sai lầm của tôi. Vì thế xin đừng chú ý đến tôi nữa. Vì trong giây phút ngắn ngủi này, tôi cảm thấy tâm hồn bình an. Đây là cố gắng lớn nhất của tôi, xin Ngài hãy khấng nhận và quên đi những gì khác. Và nếu Ngài thực sự có mặt tại đây xin hãy cứu giúp tôi”.
Vào giây phút đó, anh nói, bắt đầu có một sự biến đổi kỳ lạ trong cuộc đời anh. Cuối cùng, sự biến đổi đó đã khiến anh trở nên một Kitô hữu có một niềm tin tưởng sâu xa.
***
Việc Fulton Oursler tìm kiếm Thiên Chúa đã kết thúc tại một giáo đường. Đời sống tâm linh và cuộc sống mới của anh bắt đầu tại một nhà nguyện dâng kính Đức Maria Mẹ Thiên Chúa. Thật là một nơi thích hợp cho sự việc đó. Đức Mẹ không phải chỉ là Mẹ Thiên Chúa. Ngài còn là Mẹ của toàn nhân loại về mặt tâm linh. Vì khi Đức Mẹ sinh Chúa Giêsu, Ngài cũng sinh ra một nhân loại mới. Thánh Phaolô diễn tả mầu nhiệm đó trong bài đọc II như sau:
“Khi thời gian viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con Ngài xuống, sinh làm con một người nữ, và sống dưới chế độ luật Do Thái để cứu chuộc những người sống dưới chế độ lề luật đó, hầu chúng ta được trở thành con cái Thiên Chúa… và vì bạn là con của Thiên Chúa, nên Ngài sẽ cho bạn tất cả những gì Ngài dành cho con cái Ngài”.
Bàn luận về mầu nhiệm cao cả này, Hiến Chế về Giáo hội trong thế giới ngày nay của công đồng Vatican II nói:
“Qua mầu nhiệm nhập thể, một cách nào đó, Con Thiên Chúa đã tự liên kết mình với mọi người, Ngài làm việc bằng đôi tay, suy nghĩ bằng khối óc, hành động bằng sự chọn lựa, và yêu thương bằng trái tim loài người, sinh từ lòng Đức Maria Ngài thực sự trở thành một người trong chúng ta hoàn toàn giống như chúng ta ngoại trừ tội lỗi”.
Thật vậy, khi Đức Mẹ sinh ra Chúa Giêsu Ngài cũng sinh ra một nhân loại mới, vì thế Đức Mẹ không phải chỉ là Mẹ Thiên Chúa, mà ngài còn là Mẹ tất cả mọi người chúng ta nữa.
Vì Đức Mẹ là Mẹ chúng ta, nên ngài là một trạng sư bào chữa cho chúng ta rất hữu hiệu trên trời. Không biết Đức Maria là mẹ mình, chính là không biết đến món quà mà Thiên Chúa ban tặng chúng ta, tức tình mẫu tử của Đức Maria dành cho chúng ta.
Điều đó khiến chúng ta nghĩ tới năm mới. Năm mới với hy vọng mới. Năm mới với cuộc đời mới. Năm mới là cơ hội để chúng ta bắt đầu lại.
Năm ngoái là quá khứ, đã qua rồi. Năm nay vừa mới sinh ra và ở trước mặt ta. Đó là món quà Thiên Chúa tặng chúng ta. Những gì chúng ta làm được với món quà ấy, chính là món quà mà chúng ta sẽ dâng lên Thiên Chúa. Thật là thích hợp khi Giáo hội chọn ngày đầu năm để mừng kính lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa. Vì điều đó nhắc nhở chúng ta rằng tình mẫu tử của Đức Maria mà bạn và tôi được Thiên Chúa ban cho một đời sống hoàn toàn mới, một niềm hy vọng mới, thứ hy vọng mà chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể ban tặng. Nếu chúng ta đang tìm một quyết định cho năm mới này thì không có một quyết định nào tốt đẹp hơn là tạo cho Đức Maria một vai trò quan trọng hơn trong đời sống chúng ta. Và một trong những cách để thực hiện quyết định đó là thực hiện bằng cầu nguyện.
Chúng ta có thể xin Đức Maria bầu cử cho chúng ta như Ngài đã từng bầu cử cho biết bao những đứa con khác của Ngài trong lịch sử. Một cách đơn giản để thực hiện điều đó là cầu nguyện hằng ngày bằng bài kinh đặc biệt kính Đức Maria, tức kinh Kính Mừng. Một cách khác để làm điều đó là bắt chước cách cầu nguyện của chính Đức Maria. Trước hết, Ngài cầu nguyện bằng cách suy niệm về hoạt động của Thiên Chúa, không phải chỉ ở trong lịch sử loài người, mà ở ngay trong cuộc sống của Ngài nữa. Thánh Luca đã cho chúng ta một cái nhìn về cách cầu nguyện này vào cuối bài tường thuật của Ngài về việc Đức Giêsu sinh ra: “Maria ghi nhớ tất cả những chuyện ấy và suy niệm trong lòng” (Lc 2, 19). Một cách cầu nguyện khác nữa của Đức Maria là nói với Thiên Chúa cách hồn nhiên những gì xuất phát từ trái tim Ngài. Thánh Luca cho chúng ta một cái nhìn về cách cầu nguyện này khi mô tả Đức Maria cầu nguyện trong cuộc viếng thăm bà Isave. Chúng ta hãy dùng lời kinh ấy để kết thúc bài giảng hôm nay. Xin mời anh chị em im lặng cùng cầu nguyện với tôi:
“Linh hồn tôi tán dương Thiên Chúa,
Thần trí tôi hoan hỉ vui mừng trong Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi,
Ngài đã đoái thương đến tôi, là tôi tớ thấp hèn của Ngài
“Kể từ nay muôn đời sẽ khen tôi có phúc, vì Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những việc trọng đại.
“Ngài đã giơ cánh tay thần lực nâng những người hèn mọn lên …
“Ngài đã giữ lời đã phán hứa với các tổ phụ…
“Ngài đã nhớ tỏ lòng từ bi với Abrham và dòng dõi của ông tới muôn đời” (Lc 1: 46-55)
Chủ đề: Đức Maria là Mẹ chúng ta, và cũng là khuôn mẫu dạy chúng ta phải tin tưởng vào Chúa như thế nào.
Có một linh mục được mời tới giảng phòng cho một khoá tĩnh tâm. Các cô gái nọ trao cho ngài một lá thư, ngài liền bỏ vào túi nhưng rồi quên béng đi. Sau khóa tĩnh tâm, ngài tìm thấy lá thư ấy. Ngài mở ra và đọc thấy những dòng sau đây; “Con bị bệnh tâm thần và được điều trị suốt 8 tháng nay. Sự kiện này con chỉ cho vài người thân biết thôi. Số là khi còn bé, con bị lâm vào một tâm trạng sợ hãi khủng khiếp vì bị người khác căm ghét, hành hạ, bạc đãi, nỗ lực lớn lao nhất của con hiện nay là thắng vượt và chuyển biến nỗi sợ hãi ấy. Con không cần nhắc đến từng chi tiết nhưng tựu trung nỗi sợ ấy là do nơi người mẹ của con… con có ác cảm với mọi khái niệm về người mẹ đến nỗi con quyết tâm khước từ tình yêu của Đức Maria, Mẹ của Chúa Giêsu. Sau khi nghe bài giảng của cha trong tuần tĩnh tâm, con đi bộ ra ngoài, lòng cảm thấy cô đơn khủng khiếp. Con cầu xin Chúa ban ân sủng giúp con phá đi bức tường ngăn cách khiến con không thể tin tưởng phó thác được… con muốn khóc to lên, nhưng suốt mấy tháng trời vẫn không khóc được… chắc cha cũng biết căn nhà nhỏ bé, tròn tròn gần cạnh nghĩa trang chứ? Con đã đến đó vì tò mò và con mở cửa bước vào. Khi nhìn vào trong, lòng con cảm thấy sợ hãi. Ở đây có tượng Đức Mẹ Maria. Cảm giác đầu tiên của con là muốn giận dữ bỏ đi ngay, nhưng rồi có cái gì đó đã từ từ lôi kéo con đến quì dưới chân Ngài. Và con đã quì gối xuống vừa gục vào vạt áo dài của Ngài vừa khóc, sau đó, con cảm thấy tâm hồn nhẹ nhàng trong trắng, và mong ước, mình được là một đứa trẻ, một người con đầy tin tưởng và phó thác… hơn thế nữa, con còn cảm nhận được tình yêu của một người mẹ dành cho con khiến con nẩy sinh một ước muốn thực sự là tha thứ cho mẹ ruột của mình”.
Câu chuyện cảm động trên gợi lên những hình ảnh tuyệt hảo cho chúng ta trong ngày lễ Mẹ Thiên Chúa mà chúng ta mừng hôm nay. Lễ này nêu bật hai điểm về Đức Maria. Thứ nhất: Đức Maria là Mẹ chúng ta. Ngài không chỉ là mẹ Chúa Giêsu, Đấng sống cách đây hơn 2000 năm. Ngài còn là Mẹ chúng ta nữa. Từ trời cao, Ngài vẫn mong muốn giúp đỡ chúng ta như một người Mẹ. Thứ đến, Đức Maria cũng là khuôn mẫu của chúng ta. Chúng ta phải tôn sùng và bắt chước ngài. Ở đây, chúng ta chỉ cần nêu ra một nét đặc trưng nơi Đức Mẹ, đó là Mẹ tuyệt đối tín thác vào Thiên Chúa. Khi thiên sứ báo cho mẹ biết mẹ sẽ sinh con trai bởi phép Chúa Thánh Thần, thì Mẹ hiểu ngay rằng việc này có thể sẽ khiến Thánh Giuse cắt đứt quan hệ bạn đính hôn với Mẹ - và điều này chỉ chút xíu nữa là đã thực sự xảy ra - Thế nhưng Mẹ vẫn vững tin vào chúa. Khi nghe mục đồng kể lại lời các Thiên thần, Mẹ cũng không hiểu, nhưng lần nữa, Ngài vẫn tín thác vào Chúa, về sau, khi Mẹ và Thánh Giuse đem hài nhi Giêsu vào đền thờ, cụ già Simêon đã nói với Mẹ: “Sầu khổ sẽ như một mũi gươm nhọn đâm thâu qua trái tim bà” (Lc 3: 35). Lần này, Mẹ Maria cũng chẳng hiểu rõ ý nghĩa lời trên nhưng Mẹ vẫn tín thác vào Chúa. Rồi khi lên mười hai tuổi, Đức Giêsu ở lại trong đền thờ. Lúc gặp lại Đức Giêsu, Mẹ Maria hỏi Ngài lý do tại sao, Ngài đáp lại: “Mẹ không biết con phải lo việc cho Cha con sao? một lần nữa, Mẹ Maria chẳng hiểu gì cả nhưng Mẹ cẫn cứ tín thác vào Chúa.
Ngày nay Mẹ Maria có thể giúp chúng ta biết tín thác vào Chúa. Xin hãy nhớ lại câu chuyện cô gái trong khoá tĩnh tâm nọ. Cô ta đã phải trải qua một Kinh nghiệm thời thơ ấu đầy kinh hãi khiến cô mất hẳn niềm tin. Cô muốn tin tưởng trở lại nhưng không thể được. Thế rồi, một ngày nọ, hoàn toàn do tình cờ, cô đã quì xuống dưới chân Mẹ Maria và quyết định cầu nguyện với Ngài. Chúng ta hãy nhắc lại chính những lời của cô ta. “Con đã cầu xin Chúa ban ân sủng giúp con phá tan đi bức tường ngăn cách khiến con không thể tin tưởng và phó thác được”. Đức Maria đã nhận lời cô cầu xin và cô đã tìm được niềm tin.
Và Đức Maria cũng có thể giúp chúng ta tin tưởng phó thác giống như Ngài từng giúp cô gái nói trên. Chẳng hạn, chúng ta là bậc cha mẹ biết quan tâm đến con cái mình. Nhưng xảy ra là chúng chẳng còn chịu đi dâng lễ, hoặc chúng theo gương những bạn bè xấu cho dầu chúng ta đã cầu nguyện, đã làm gương sáng, đã giải thích cho chúng hiểu. Thế là chỉ còn một phương cách là tiếp tục cầu nguyện và phó thác. Chính Đức Maria sẽ gíup chúng ta làm điều này. Hoặc có thể chúng ta vẫn không chắc chắn về dự tính của mình và cũng có Chúa muốn chúng ta làm gì. Chúng ta đã bàn bạc với cha mẹ và những vị cố vấn, đã cầu xin ơn Chúa hướng dẫn, thế mà chúng ta vẫn còn tối tăm mờ mịt. Vậy thì chúng ta chỉ còn biết tiếp tục cầu nguyện và phó thác vào Chúa. Đức Maria sẽ giúp chúng ta trong việc này. Hoặc chúng ta là một người đang suy tư về đức tin của mình. Chúng ta lo âu vì biết rằng đức tin mình vẫn còn yếu kém, chúng ta đã cầu xin Chúa giúp nhưng xem ra Ngài vẫn chưa nhậm lời, để rồi chúng ta bị rơi vào thắc mắc chẳng hiểu Ngài có hay không nữa. Thế là chúng ta chả còn làm gì được ngoài việc tiếp tục cầu nguyện và phó thác cho Chúa. Mẹ Maria sẽ gíup chúng ta thực hiện điều này.
Lễ hôm nay nhắc chúng ta nhớ rằng Đức Maria là khuôn mẫu, đồng thời là mẹ của chúng ta, trong lúc nguy khốn, chúng ta cần hướng về Ngài để van xin Ngài trợ gíup. Ngài hằng ao ước cứu giúp chúng ta miễn là chúng ta biết kêu cầu Ngài. Nếu muốn tìm một giải pháp cho năm mới thì không gì tốt hơn là chúng ta hãy quyết định dành cho Đức Mẹ Maria một vai trò to tát hơn trong cuộc đời chúng ta.
Chúng ta hãy kết thúc với kinh nguyện hằng ngày mà thánh Bernard vẫn thường dâng cho Đức Maria.
“Lạy Trinh Nữ Maria là Mẹ rất nhân từ, xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ xin bầu chữa cứu gíup mà Mẹ chẳng nhậm lời…. Nhân vì niềm tin cậy ấy, chúng con hướng về Mẹ, ôi Mẹ đồng trinh trên hết các kẻ đồng trinh, chúng là những tội nhân khốn khổ xin đến trình diện trước Mẹ, Lạy Mẹ Ngôi Lời nhập thể xin đừng ngoảnh mặt đi mà hãy đoái thương lắng nghe và khấn nhậm lời chúng con. Amen.
Suy Niệm:
Thế giới đang sống có 7 kỳ quan thế giới. Mỗi kỳ quan đều toát lên vẻ đẹp, nét hùng vĩ và sự tuyệt tác của thiên nhiên. Ấy là những kỳ quan gắn liền với thế giới hữu hình. Người ta còn khám phá ra một kỳ quan trong thế giới vô hình, ấy là lòng mẹ: công đức trời bể, âm thầm, lặng lẽ, vất vả, lao nhọc nhưng toát lên một vai trò, vị trí vô cùng to lớn trong đời sống gia đình. Và người ta gọi đó là kỳ quan thứ 8 của thế giới này. Ngày hôm nay, khởi đầu của một năm mới, Giáo hội cho chúng ta chiêm ngắm vai trò và sứ vụ của “kỳ quan thứ 8” của mọi kỳ quan này. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Một mẫu gương về ân phúc và sự mẫu mực trong đời sống hàng ngày.
Phúc đức tại mẫu, văn hóa Việt nam chúng ta vẫn luôn đề cao vai trò của người mẹ trong gia đình. Tương lai của đứa con phụ thuộc rất nhiều vào sự giáo dưỡng của người mẹ. Sự chăm chỉ, thầm lặng, hy sinh vì gia đình của người phụ nữ trong đời sống hằng ngày, ấy là một ân phúc cho gia đình. Đức Maria hẳn phải là một ân phúc cho nhân loại chúng ta. Ân phúc vì Mẹ đã được diễm phúc, đặc ân cộng tác vào công trình cứu độ của Thiên Chúa. Ân phúc vì Mẹ đã khiêm nhường, suy đi, ngẫm lại trước hồng ân cao cả này mà trong nhiều “biến cố”, Mẹ muốn như dừng bước, chối từ, thế nhưng Mẹ đã một đời Xin vâng, để đem ân phúc đến cho nhân loại chúng ta. Mẹ đã sống đẹp trong những trắc trở, tận tụy, âm thầm để cộng tác với Thiên Chúa hầu đưa đến cho con người chúng ta ân phúc tuyệt vời cao cả nhất đó chính là Đức Giê-su Ki-tô, Thái Tử Bình An, Đấng Hòa Bình cho nhân thế.
Bên cạnh đó, Đức Maria còn là một mẫu gương trong sinh hoạt hàng ngày. Trong đời sống vật chất, gia đình Nagiaret vẫn được coi là biểu tượng của những gia đình nghèo. Thế nhưng, trong đời sống tinh thần, tổ ấm thánh gia vẫn được coi là biểu tượng của sự kính trên nhường dưới, đối nhân xử thế, khéo léo nhẹ nhàng với tương quan lối xóm. Trong những sinh hoạt đời thường đó, hẳn Mẹ Maria phải là một mẫu mực cho chồng cho con. Mẫu mực cho chồng vì Mẹ đã cũng phải gạt đi tự ái, quên đi “sự kiện” mà thánh Giuse muốn âm thầm bỏ đi. Mẫu mực cho con vì tình mẫu tử đã giúp mẹ vượt thắng những thử thách hằng ngày để cộng tác, xây dựng và làm cho Nước Chúa mau trị đến ngay cả “trước lúc khi sinh, trong khi sinh và thậm chí ngay cả sau khi sinh Ngôi Hai Thiên Chúa”. Vượt lên trên những trắc trở đó, Mẹ đã trở nên mẫu mực của sự tin tưởng, phó thác, một mực trung thành tuyệt đối với Thánh Ý Thiên Chúa.
Ngày hôm nay, khởi đầu ngày mới của một năm mới, mừng lễ Mẹ Thiên Chúa, chúng ta tin tưởng vào lời chuyển cầu của Mẹ cho thế giới chúng ta đang sống luôn được Bình An. Chúng ta cũng không quên từng người mẹ thân yêu của chúng ta. Có thể nói họ cũng là những Maria trong đời sống hàng ngày cho gia đình. Xin cho những người mẹ cũng biết “suy đi ngẫm lại” và “hằng ghi nhớ” mọi giáo huấn của Chúa và Hội thánh để mỗi người mẹ xứng đáng là “ân phúc và mẫu gương” trong và cho gia đình. Amen.
Mẹ Thiên Chúa, đó là phẩm chức cao cả nhất của Đức Maria, chính phẩm chức cao cả này là nền tảng mỗi đặc ân khác dành cho Mẹ. Công đồng Vaticano II đã trình bày các đặc ân liên kết với phẩm chức Thiên Chúa như sau:
- “Không có gì lạ, nếu các giáo phụ đã thường xưng tụng Mẹ là Đấng toàn thánh, không vương nhiễm một tội nào, như một tạo vật mới do Chúa Thánh Thần uốn nắn và tác thành. Tràn đầy thánh thiện, có một không hai ngay từ lúc thụ thai, Đức Trinh Nữ thành Nazareth được Thiên thần vâng lệnh Chúa đến truyền tin và đã kính chào là “Đầy ơn phườc” (Lc. 1,28). (GH.59).
- “Được gìn giữ tinh sạch khỏi mọi vết tội nguyên tổ, và sau khi hoàn tất cuộc đời dưới thế, Đức Nữ Trinh Vô nhiễm đã được đưa lên hưởng vinh quang trên trời cả hồn lẫn xác, và được Thiên Chúa tôn vinh làm nữ Vương vũ trụ, để nên giống Con Ngài cách trọn vẹn hơn” (GH.59).
- “Đức Maria luôn tiếp tục thiên chức làm Mẹ... Thật vậy, sau khi về trời, vai trò của Ngài trong việc cứu chuộc không chấm dứt, nhưng Ngài vẫn tiếp tục liên lỉ cầu bầu để đem lại cho chúng ta những ân huệ giúp chúng ta được phần rỗi đời đời... Vì thế trong Giáo hội, Đức Trinh Nữ Maria được kêu cầu qua các tước hiệu: trạng sư, vị bảo trợ, Đấng phù hộ và Đấng Trung gian” (GH.62)
Như vậy, long trọng mừng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, chúng ta hãy tỏ một niềm tin vững chắc vào vai trò của Mẹ trong chương trình cứu rỗi nhân loại. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa vì Ngài đã sinh ra cho chúng ta Thiên Chúa cứu chuộc. Trong buổi Truyền Tin, chính sứ thần Gabriel đã quả quyết: “Người sẽ thụ thai và sinh con... trẻ sẽ sắp sinh sẽ được gọi là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa” (Lc 1,31-35). Được Thánh Thần linh hứng, bà Elisabeth cũng đã lên tiếng: “Bởi đâu tôi được thế này, là mẹ Chúa tôi đến với tôi” (Lc1,43). Niềm tin vào chức phẩm cao quí là Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria đã có từ đầu Giáo hội. Chính thánh Phaolô đã viết: “Khi thời viên mãn đến, Thiên Chúa sai con của Người, sinh bởi người Nữ” (Gl 4,4).
Tiếp tục niềm tin đã có từ đầu, các tín hữu còn xác tín hơn nữa do biến cố dẫn tới những xác quyết chắc chắn của Công đồng chung Ephêsô (năm 413). Nestoriô khi ấy bác bỏ tước hiệu Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, ông chỉ chấp thuận Đức Maria là Mẹ Chúa Kitô, vì Ngài chỉ sinh ra xác thể Chúa Kitô thôi, chống lại lời rao giảng của Giám mục Nestoriô, khoảng hai trăm Giám mục đã họp tại Ephêsô ngày 22.6.431, dưới quyền chủ tọa của Thánh Cyrillô thành Alexandrioa. Công đồng này kết án Nestoriô và tuyên bố tín điều Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Toàn thể dân thành đã công khai bày tỏ niềm hân hoan trước thành quả này. Họ tổ chức rước đuốc để mừng các nghị phụ công đồng. Cũng từ công đồng này mà có phần sau của kinh Kính mừng: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử”.
Hợp với niềm hân hoan của dân Chúa dịp công đồng Êphêsô bế mạc, niềm tôn kính dâng lên Mẹ Thiên Chúa ngày một thêm sâu đậm. Vua Giuse Emmanuel nước Bồ Đáo Nha đã xin ông được đặc ân mừng lễ Mẹ Thiên Chúa. Thánh bộ nghi lễ đã ban bố sắc lệnh thiết lập ngày 22 tháng giêng năm 1751 và ấn định vào Chúa nhật đầu tháng năm. Từ đó nhiều nước cũng được hưởng đặc ân này. Năm 1931, dịp kỷ niệm 1500 năm, công đồng Ephêsô, Đ.G.H Piô XI đã lập lễ Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, kính trọng thể trong khắp Giáo hội vào ngày 11 tháng 10. Chính Đức giáo hoàng Piô XI đã viết:
- “Tín điều Mẹ Thiên Chúa là một mối nước mầu nhiệm vô tận, đã tuôn ra mọi đặc ân cho Đức Mẹ và nâng Người lên một địa vị cao sang tuyệt vời bên Thiên Chúa (Lux Veritatis 1931).
Năm 1962, Đức Giáo hoàng Gioan XXIII đã chọn lễ kính Mẹ Thiên Chúa làm ngày khai mạc công đồng Vaticanô II.
Đức giáo hoàng Phaolô VI dời ngày lễ vào đầu năm dương lịch, việc dời ngày kính này vào ngày thế giới Hòa Bình, nhấn mạnh thêm ý nghĩa lễ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa hôm nay. Đức giáo hoàng Phaolô VI viết:
- “Khi canh tân mùa Giáng sinh, mọi người phải chú ý đến việc tái lập lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa vào ngày 1 tháng giêng, đúng phụng vụ Roma từ xưa, nhằm tôn kính việc Đức Maria góp phần vào mầu nhiệm cứu rỗi và tôn vinh địa vị đặc biệt, khiến cho “Mẹ rất thánh, đáng tiếp nhận Nguồn sống cho chúng tôi”. Lễ này cũng là dịp rất tốt để chúng ta tôn thờ Vua Hòa Bình mới sinh, và nghe lại lời chúc hoà bình của các thiên sứ (Lc 2,14), để cầu Chúa, nhờ sự can thiệp của Nữ Vương Hòa Bình, ban cho ta ơn cao cả nhất là Hòa bình. Vì sự trùng hợp tốt đẹp giữa ngày 1 tháng giêng với ngày thứ tám giáp Lễ Giáng sinh mà chúng tôi đã đặt ngày đó là ngày thế giới hòa bình, mà thế giới mỗi ngày càng hưởng ứng thêm, và thành quả của hòa bình đã phát sinh trong lòng nhiều Người” (ĐGH Phaolô VI. Marialis Cultus, số 5b)
Đêm 22.06.443 tại thành Êphêsô có một cuộc rước đuốc vĩ đại, đoàn rước muôn người như một vừa đi diễu hành vừa tung hô vang trời: “Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, Maria là Mẹ Thiên Chúa”. Tại sao có cuộc rước đuốc này? Là vì Nettôriô, giám mục giáo chủ thành Côntăngtinốp chối Đức Maria không phải là Mẹ Thiên Chúa, vì Đức Maria không sinh ra thần tính của Chúa Giêsu mà chỉ sinh ra nhân tính là một dụng cụ của thần tính, nghĩa là Đức Kitô chỉ là một người được phúc tiền định mặc lấy thiên tính, trở nên đền thờ của Ngôi Lời. Như vậy, Nettôriô đã phân tách Ngôi Lời ra khỏi Đức Kitô, và phân chia Ngôi Hai nhập thể thành hai ngôi vị riêng biệt, được lồng vào nhau, rồi ông chủ trương: chỉ nên gọi Đức Maria là Mẹ Đức Kitô chứ không phải là Mẹ Thiên Chúa.
Trước chủ trương của Nettôriô, Công đồng chung được triệu tập tại Êphêsô để giải quyết vấn đề. 160 nghị phụ là các giám mục của Ai Cập, Palestine, Tiểu á và đại diện của Rôma là thánh Xirilô chủ toạ. Sau một ngày hội họp và tranh luận, công đồng đã cách chức Nettôriô và tuyên bố chủ trương của ông là sai lầm, là lạc thuyết, đồng thời Công đồng chấp nhận bản dự thảo của thánh Xirilô và tuyên bố: Đức Kitô tuy có hai bản tính nhưng chỉ là một ngôi, cho nên Đức Maria là Mẹ Đức Kitô thì cũng là Mẹ Thiên Chúa, Công đồng khẳng định dứt khoát: Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa.
Sau khi Công đồng đã xác định tước hiệu này, các tín hữu phấn khởi vui mừng kéo nhau ra các đường phố vang lời ngợi khen Đức Mẹ, tung hô các nghị phụ và cầm đuốc sáng dẫn đưa các ngài về nhà. Đồng thời, để mừng kính và đánh dấu thành quả của Công đồng, kinh “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội” đã được sáng tác vào dịp này và được Đức Giáo Hoàng Xêléttin chấp nhận.
Như vậy, Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, là một tín điều, một chân lý đức tin. Để Đức Maria thực sự được gọi là Mẹ Thiên Chúa thì những điều kiện ắt có và đủ là: ngài phải thực sự sinh một người con, và người con này từ giây phút đầu hiện hữu làm người đã là Con Thiên Chúa hoặc Ngôi Lời, mà thực vậy, Đức Maria thực sự có đủ những điều kiện đó. Nói khác đi, Chúa Giêsu là người thật và cũng là Thiên Chúa thật, bởi thế, nếu Đức Maria là Mẹ thật của Chúa Giêsu, thì ngài cũng là Mẹ thật của Thiên Chúa.
Như vậy, vì có mầu nhiệm Đức Kitô mà có mầu nhiệm Đức Mẹ Thiên Chúa. Mầu nhiệm này gắn liền với Con Thiên Chúa làm người. Trong lịch sử Giáo Hội, chỉ sau khi xác định chân tướng Chúa Giêsu Kitô, vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật, Giáo Hội mới xác định Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Nếu Chúa Kitô chỉ là Thiên Chúa thôi thì không làm gì có “Mẹ Thiên Chúa” như một “siêu Thiên Chúa”. Hay nếu Chúa Kitô chỉ là người thôi, cho dù là:siêu nhân” đi nữa, thì Đức Maria càng không thể là “Mẹ Thiên Chúa”. Cho nên, ngày nay chúng ta tuyên xưng đức tin mầu nhiệm Đức Mẹ Thiên Chúa là bởi vì mầu nhiệm ấy gắn liền với mầu nhiệm nhập thể, như trong kinh Tin kính: “Ngài là Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật… Ngài đã từ trời xuống thế bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Ngài đã nhập thể trong lòng Trinh nữ Maria và đã làm người”. Chúng ta tin nhận Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa chính là vì chúng ta tin Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật và là người thật: Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Đức Maria sinh ra Chúa Giêsu, nên Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa.
Mẹ Thiên Chúa là một tước hiệu cao cả, một đặc ân tuyệt vời mà không ai dám nghĩ tới, kể cả chính Đức Mẹ. Mọi tước hiệu và các đặc ân khác được ban cho Đức Mẹ như vô nhiễm nguyên tội, đồng trinh trọn đời, hồn xác lên trời chỉ là những đòi hỏi bắt buộc phải có, hay là những hiệu quả tất nhiên của chức vụ Mẹ Thiên Chúa độc đáo này. Thánh Bônaventura đã nói: “Chức Mẹ Thiên Chúa là một ơn vĩ đại phi thường nhất Thiên Chúa có thể ban cho loài thụ tạo. Ơn ấy Ngài đã ban cho Đức Maria”, “Thiên Chúa có thể mở rộng thêm bầu trời, có thể làm cho trái đất lớn thêm ra, có thể tạo dựng một thế giới vĩ đại hơn, nhưng Thiên Chúa không thể tạo dựng một người Mẹ Thiên Chúa cao sang hơn được nữa, vì muốn vậy phải có một Con Thiên Chúa cao trọng hơn nữa, điều đó không thể nào có được”. Thánh Tôma Tiến sĩ nói thêm: “Tước vị Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria cao trọng hầu như vô cùng, vì Thiên Chúa không thể cất nhắc ai lên bậc tốt lành và cao sang hơn nữa, chức mẹ Thiên Chúa hầu như đã tới biên giới vô cùng”.
Với tư cách là Mẹ Thiên Chúa, Đức Mẹ có uy quyền đáng kính nể, đó là điều thông thường và dễ hiểu, bởi vì một người mẹ nào có con làm lớn và nhiều quyền, thì người mẹ đó cũng có nhiều uy quyền và được mọi người kính nể. Đàng khác, trên đời này chúng ta chỉ trông cậy người nào có thế và có lòng, vì có hai yếu tố đó họ sẽ giúp chúng ta đạt được những điều chúng ta mong muốn. Đức Maria có cả hai yếu tố đó và có một cách tuyệt vời. Đức Mẹ có thế, vì là Mẹ Thiên Chúa, chẳng có sự gì Đức Mẹ cầu bầu cho chúng ta mà không được. Đức Mẹ lại có lòng, tấm lòng của một bà mẹ, hoàn hảo hơn hết người mẹ. Vì thế, chúng ta hãy đến với Đức Mẹ và năng cầu xin mẹ cứu giúp.
Hôm nay là ngày tân niên, ngày đầu của một năm mới, chúng ta hãy trao năm mới này, trao con người và cuộc đời chúng ta trong vòng tay từ mẫu của Mẹ, xin Mẹ ban bình an và cho chúng ta thêm tuổi thêm khôn ngoan, thêm nhân đức, thêm sự nghiệp đức tin trước mặt Thiên Chúa và mọi người.
Kính thưa qúi ông bà anh chị em, mỗi một người hiện hữu trên trần gian này, ai lại là người không có mẹ - cha, có điều là người mẹ đó tuyệt vời hay còn có nhiều khuyết điểm. Và nếu được quyền chọn lựa thì ai lại không muốn chọn cho mình một người mẹ tuyệt hảo, nhưng đây là điều ngoài tầm tay của con người. Còn Thiên Chúa thì sao? NGài có quyền tuyển chọn một người người mẹ tuyệt trần nhất để làm Mẹ Chúa cứu thế.
Hôm nay ngày đầu năm, Giáo Hội đặt: lễ Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, sao Giáo Hội lại đặt lễ này vào ngày thứ nhất của năm mới để làm gì, nếu không phải là để mọi người và thế giới nhìn vào Đức Maria như là là sự bình an và niềm hy vọng; vì Mẹ đã đêm đến cho nhân loại ông Vua thái bình, mà chúng ta chiêm ngắm tuần trước trong đêm Giáng Sinh. Mẹ là kiểu mẫu của người sống đức tin. Vâng, Đức Maria là một tuyệt tác tuyệt diệu của Thiên Chúa; vì Thiên Chúa cần một người Mẹ như thế để làm Mẹ của Ngôi Hai Đấng cứu thế. Mẹ Maria mà chúng ta cùng với GH hôm nay mừng kính tước hiệu: Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, đó là phẩm chức cao cả nhất của Đức Maria, chính phẩm chức cao cả này là nền tảng mọi đặc ân khác Chúa đã dành cho Mẹ.
Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, đó là một tín điều được công bố ngày 22- 6- 431 bởi công đồng Êphêsô, dưới quyền chủ tọa của thánh Cyrillô thành Alexandria, cũng từ Công Đồng này mà ta có phần sau của kinh kính mừng: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử. Amen”.
Với tước hiệu Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, chắc không khỏi một số người thắc mắc: Thiên Chúa là Đấng quyền năng cao cả, tự hữu, không có ai cao cả hơn Thiên Chúa nữa, thế mà chúng ta lại nói: Đức Maria là mẹ Thiên Chúa, như vậy nghĩa là làm sao? Vâng, như tín lý dạy chúng ta rằng: Chúa Giêsu Kitô là Ngôi Hai Thiên Chúa và cũng là Thiên Chúa, nhưng Chúa Giêsu, xét về bản tính nhân loại thì Ngài lại hiện hữu trong thời gian qua việc Ngài được Đức Mẹ sinh ra.
Đức Maria đã sinh ra Đức Giêsu là người thật và là Thiên Chúa thật, nên Đức Maria cũng được gọi là Mẹ Thiên Chúa. Chúng ta đừng sợ tước hiệu này xúc phạm đến Thiên Chúa cao cả, vì Ngài đã chấp nhận giáng trần sinh bởi một người nữ để trở nên hoàn toàn như chúng ta ngoại trừ tội lỗi, thì sao ta lại sợ xúc phạm đến Ngài khi bảo Ngài là con của Mẹ Maria? Ở đây ta có thể chưng ra một thí dụ na ná để chúng ta dễ hiểu: chẳng hạn, ta lấy hình ảnh tổng thống công giáo đầu tiên là ông Kennedy, tổng thống thứ 35 của Hoa Kỳ. Vào ngày 20-01- 1961, khi ông trở thành tổng thống thì trên phương diện điều hành đất nước, ông là người có chức quyền cao hơn tất cả mọi người dân Hoa Kỳ, kể cả cha mẹ, ông bà nội, ông bà ngoại nữa; thế mà trong mối tương quan máu mủ gia đình thì ông lại là con của ông bà Rose Kennedy.
Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa làm người, được sinh ra bởi người mẹ, việc sinh nở này do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Và Chúa Giêsu mặc lấy hai bản tính; bản tính Thiên Chúa và bản tính nhân loại, hai bản tính này kết hợp với nhau một cách chặt chẽ trong một con người là Đức Giêsu Kitô, mà Chúa Giêsu lại được chính Đức Maria sinh ra. Như vậy Đức Mẹ là mẹ đích thực của Chúa Giêsu, mà Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa và như thế Đức Mẹ cũng là Mẹ Thiên Chúa, như lời của Kinh Thánh ghi lại lời chào của sứ thần Gariel: “Kính chào bà đầy ơn phúc Thiên Chúa ở cùng bà”, rồi lại nữa: “Trẻ mà bà sinh ra được gọi là thánh, là con Thiên Chúa” (Lc 1, 31-35). Rồi trong thơ Galata thánh Phaolo viết: “Khi đến thời viên mãn, Thiên Chúa sai con của Người, sinh bởi người nữ”. ( Gl 4,4). Bài Tin Mừng của thánh Luca ghi lại: “Các mục đồng vội vã ra đi đến thành Bêlem, và gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Khi họ trở về miệng tung hô ca ngợi Thiên Chúa” ( Lc 2,16.21).
Mừng lễ Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa, Giáo Hội lấy ngày lễ này đặt vào ngày đầu năm, ý của Giáo Hội là mong muốn con cái mình đặt trót 365 ngày của năm mới này dưới sự che chở và nâng đỡ của Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ chúng ta. Ngày đầu năm, Giáo Hội cầu nguyện cho hoà bình thế giới, truyền thống này đã được Đức Giáo Hoàng Phaolo VI muốn, khi mừng lễ Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa vào ngày đầu năm thì cũng cầu mong thế giới được hòa bình. Đức Maria là Mẹ của Hoàng Tử bình an nên chi, Giáo Hội nhìn lên Mẹ để cầu xin Mẹ mang Vị Vua Hoà Bình đến cho thế giới, cho mỗi người; nhất là gia đình và thế giới ngày hôm nay có qúa nhiều sự đe doạ, sống trong lo âu, sợ hãi. Cho nên, hơn bao giờ hết, gia đình và thế giới hôm nay cần phải chạy đến với Mẹ, để xin Mẹ mang Chúa của sự bình an đến cho loài người.
Anh chị em thân mến, mỗi dịp Giáng Sinh về là dịp giúp chúng ta hơn nữa để chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ, đồng thời khi chúng ta chiêm ngắm Vị Vua Thái Hoà, thì bên cạnh Vị Vua đó là: Đức Maria, người mẹ nhân từ, hiền dịu, yêu thương. Như vậy, ngày đầu năm chúng ta đến đây để hợp tiếng ca mừng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, chúng ta hãy tỏ lòng tin vững chắc vào vai trò của Mẹ trong chương trình cứu rỗi nhân loại. Ước gì chúng ta chiêm ngưỡng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa và cũng là Mẹ của chúng ta, lòng chúng ta phải luôn hân hoan vui mừng vì Thiên Chúa đã ban đặc ân này cho Mẹ.
Mong sao, sau khi dâng thánh lễ, ra về, lòng mỗi người vui mừng phấn khởi như các mục đồng xưa, để loan báo tin mừng, tin vui nước trời đã thực hiện cho loài người nơi Thánh Tử Giêsu con yêu dấu của Mẹ Maria. Tin mừng, tin vui đó phải được thể hiện nơi mỗi người bằng sự niềm nở, vui tươi, tin tưởng, phó thác cuộc đời của mình theo chương trình nhiệm mầu của Thiên Chúa, như Đức Maria luôn tìm và vâng theo thánh ý Chúa, cho dẫu gặp những hoàn cảnh khó khăn, bi đác không thể hiểu được, nhưng Mẹ luôn tín thác vào Thiên Chúa và chương trình của Ngài, qua sự lắng nghe và xin vâng.
Xin Mẹ Maria giúp chúng con biết noi gương Mẹ, luôn suy gẫm lời Chúa như Mẹ, để lời của Chúa sinh hoa qủa dồi dào trong lòng mỗi người chúng con. Đặc biệt là ngày đầu năm này, chúng con cần phải có tâm tình như Mẹ, sống tin tưởng phó thác tất cả mọi sự cho chương trình của Thiên Chúa thực hiện qua cuộc sống của chúng con. Amen.
THÁNH MARIA, ĐỨC MẸ CHÚA TRỜI
Ngày 1 tháng 1, trong khi chúng ta chúc nhau "năm tốt lành", Giáo Hội mừng lễ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa. Và chúng ta ước nguyện đi xa hơn vào huyền nhiệm Đức Kitô. Bởi vì mỗi lần Giáo Hội nói với chúng ta về Đức Maria, chính là để nói về Đức Giêsu. Chúng ta có khẳng định quá đán, khi chúng ta nói, trong kinh Kính Mừng Maria: Thánh Maria, Mẹ Thiên Chúa? phải chăng một tạo vật có thể là mẹ Thiên Chúa? Phải Chăng Thiên Chúa lại sinh ra từ một người đàn bà, như Thánh Phaolô nói trong bài đọc thứ hai hôm nay (Gl 4,4).
Đến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ.
Các mục đồng hết sức đơn thành, ở những vùng sườn đồi Bêlem, chạy vội đến để xác minh sứ điệp mà thiên thần truyền cho họ: "một Đấng Cứu độ được sinh ra cho các ngươi; Người là Đức Kitô và là Chúa". Chính là Hài Nhi mang ba danh hiệu ấy mà họ tìm đến. Ba danh hiệu trang trọng, thuộc về Thiên Chúa: Đấng Cứu Độ, Đấng chịu Xức Dầu, Đức Chúa.
Như vậy, điều đáng chú ý nhiều hớn nữa là Luca dường như xem thường Hài nhi, khi trưng dẫn Người cuối cùng; và cũng đặt người đàn ông, ông Giuse, xuống thứ hai vào thời mà người đàn bà không có giá trị ngang bằng. "Họ khám phá ra Maria". Trong cái viễn tượng đảo lộn này, có một cuộc cách mạng thần học và nhân bản nho nhỏ.
Maria! Danh hiệu của bà là Mẹ Thiên Chúa đã chỉ được xác định ở Công đồng Êphêsô năm 430. Nhưng từ rất lâu, lòng sùng kính bình dân đã dám gọi Đức Maria là "theotokos" "Mẹ Thiên Chúa". Và vào thời đó khi các giám mục chính thức công nhận danh hiệu này, thì cả thành phố Êphêsô hoan hỉ và xuống phố lúc nữa đêm để rước đuốc mừng lễ. Cái mà các nhà thần học tìm kiếm, về mặt trí thức, từ bốn thế kỷ qua, thì về bản chất nó đã được sống nơi tất cả những người chỉ biết đơn sơ lắng nghe Tin Mừng. Các Công đồng chỉ có vai trò xác định bằng ngôn ngữ khoa học những điều đã gợi ra từ trong Tân ước. Ngoài ra còn phải đợi đến hai mươi năm nữa, thì Công đồng Can-xê-đoan sau cùng năm 451 mới xác định huyền nhiệm của Đức Giêsu và Đức Maria. Đây là văn bản tín điều, văn bản nổi tiếng nhất của lịch sử các Cồng đồng: "Tất cả, chúng tôi đồng lòng tuyên xưng, một Chúa Con độc nhất và luôn luôn là một. Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, hoàn toàn về thiên tính, hoàn toàn về nhân tính, Thiên Chúa thật và người thật, được cấu thành bới một linh hồn có lý trí và một thân xác, đồng bản tính với Chúa Cha do thiên tính, đồng bản tính với chúng ta bởi nhân tính, tất cả đều giống như chúng ta trừ tội lỗi (Dt 4,15), được sinh ra bởi Chúa Cha, trước các thế kỷ theo thiên tính, được sinh ra trong những ngày cuối cùng này vì chúng ta và để cứu độ chúng ta, bởi Đức Maria, Mẹ trinh nguyên của Thiên Chúa theo nhân tính: một và cùng một Chúa Ki tô duy nhất. Con độc nhất, mà chúng ta phải nhận biết trong hai bản tính không lẫn lộn, không thay đổi, không phân ly, không tách biệt". Đấy là tấm giấy chứng minh kỳ diệu và rõ rệt về Đức Giêsu Nagiarét, và Mẹ Người Đức Maria.
Họ tìm ra Bà Maria và ông Giuse cùng với Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ.
Cần phải lặp lại những từ này sau khi đã nghe xác định trang trọng về Đức tin. Như thế chúng ta hiện đứng trước một trong hai phương diện của Đức Giêsu, nhân tính thực của Người. Các mục đồng trông chờ tìm thấy một Đấng Cứu độ Kitô Chúa (Lc 2.11), và chỉ tìm thấy có thế: một Hài nhi trong chuồng bò lừa, đặt trong máng cỏ dành cho súc vật, một Hài Nhi trên nệm rơm! Thiên Chúa lập tức tự mạc khải như một vị hoàn toàn khác: thoạt đầu, Người khác với cái mà ta tưởng tượng về Người. Người đã hiện ra như quá gần gũi, ngay từ đầu. Người mang tính người đến nỗi nhiều người không nhận ra Người, chính vì Người bị che khuất đối với người thân tín nhất của nhân loại chúng ta.
Vâng, Giao ước giữa Thiên Chúa và con người mà Cựu ước, Tân ước nói tới, ngay từ đầu, không huyênh hoang, đã nói với chúng ta là nó đi đến đâu: hợp nhất không thể xé bỏ được, không lẫn lộn, không phân ly, không tách biệt.
Tất cả thái độ tôn giáo được hâm chứa như mầm mống trong điều mạc khải này: người ta không thể miệt thị vật chất, thân xác, từ khi Thiên Chúa "nhập thể" trong cung lòng trinh nữ Maria. Không có cái gì là phàm tục. Tất cả đều trở nên linh thánh, nghĩa là đôi khi hoàn toàn "nhân bản" và hoàn toàn "thiên bản": lớn lên chín tháng trong bụng mẹ, sinh ra, ngủ nghỉ, ăn uống, học đi và tập nói, chữa lành bệnh nhân, lên tiếng công khai, yêu mến bạn bè, thức dậy sớm ban sáng để cầu nguyện, chịu đau đớn, chết,... những thực tại nhân thiên bản những thực tại linh thánh. Và Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, thì giống như một bảo đảm cho sự kết hợp không thể phân ly của Thiên Chúa và con người trong bản vị độc nhất của Đức Giêsu.
Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này.
Điều họ đã được loan báo, chính là "một Đấng Cứu Độ, được sinh ra cho các anh, người là Chúa Kitô. Họ đơn sơ đến nói sứ điệp của họ, tức là những lời nói mà họ nghe thấy. Các họa sĩ thuộc mọi thời đại đã diễn dịch câu nói Tin Mừng này khi trưng bày một bức tranh "Sự thờ kính của các mục đồng". Thực sự, đúng hơn các mục đồng đã giảng một bài cho Đức Maria, bằng cách nói Tin Mừng cho bà, tin lành mà họ nhận được. Bây giờ, trong câu này chúng ta thấy có phương diện thứ hai của Đức Giêsu, thiên tính đích thực của người: về Hài nhi này, các thiên thần đã nói với chúng ta rằng:
Người là Đức Kitô và là Chúa!". Đó là một tuyên xưng đức tin và từ đó đến thờ kính thì không xa: các bức tranh của các họa sĩ không lầm lần.
Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên. Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng.
Ngôn từ Hy Lạp của Luca còn mạnh mẽ hơn nhiều mọi người ai cũng lấy làm lạ lùng. Thế nhưng, có cần phải thấy một đối lập mà Luca muốn trình bày giữa thái độ tổng quát và thái độ của Maria chăng? Quả thực đúng là ông chỉ nhấn mạnh đến cách hành sử của bà thôi: Bà không chỉ lạ lùng, mà suy niệm.. Dù không hiểu nhiều hơn các mục đồng về huyền nhiệm xảy đến cho mình, phải chàng người ta không thể nghĩ rằng từ đáy lòng mình Đức Maria nói lại tiếng xin vâng của đức tin trước sự mới lạ bất ngờ của Hài nhi này sao? Luca không ngừng tôn vinh giá trị của Maria.
Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ.
Chúng ta luôn luôn cố giản lược huyền nhiệm về Đức Giêsu, bằng các đến giản hóa đi, Hoặc là người ta nhân bản hóa Đức Giêsu khi chỉ nhìn thấy người là một người có thiên tài, hoặc người ta linh thiêng hóa người bằng cách chối từ những khuyết điểm trong nhân tính của Người. Chính các mục đồng, những con người đơn sơ, đã trông thấy và đã nghe thấy. Họ đã xem thấy một nhân tính hoàn toàn bình thường, và nghe thấy một sứ điệp rất phi thường. Và họ không chỉ muốn dừng lại ở những dáng vẻ bên ngoài: họ tôn vinh và ca tụng Thiên Chúa.
Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giêsu
Hài nhi Bêlem là một người thực bé mọn, gắn liền với một truyền thống, một văn hóa và hệ thống tập tục. Đó là một bé trai, nhời được ghi dấu vào xác thịt dành cho tất cả những người nam của dân tộc này. Vâng, một nhân tính thực sự mà trước nó người ta không thể không thấy được. Nhưng tên của trẻ thơ này mang những vấn đề mới về căn tính của cậu: tại sao di cư phải đặt cái tên Thiên Chúa Cứu Độ, Yeshoua, Giêsu? Tại sao?
Đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ.
Theo Luca, việc đặt tên này chỉ là nhột cơ hội bổ sung để làm nổi bật Maria: tác giả nhấn mạnh rằng Maria, Mẹ Người, đã nhận tên con mình "trước khi Người được thụ thai trong lòng".
Công đồng Vatican II, tiếp theo một truyền thống lâu dài của Giáo Hội, đã trình bày Đức Maria như một gương mẫu của Giáo Hội, người đầu tiên trong các tín hữu. Và trong trang Tin Mừng này, chúng ta thực sự vừa mới nhận ra rằng bà là người đầu tiên đón nhận Lời Chúa và suy niệm trong lòng mình... và bà là người đầu tiên có lời tuyên xưng cơ bản về lòng tin của chúng ta: Thiên Chúa Cứu Độ!
Trong ngày đầu tiên của năm mới, tất cả sự mới mẻ của niềm tin Kitô giáo được Đức Maria nhắc lại cho chúng ta. Sự tân kỳ của Đức tin của các Kitô hữu, chính là không phải chỉ tin vào Thiên Chúa. Điều đó, phần đông mọi người vẫn thế, nhất là những người theo một trong những tôn giáo lớn trên thế giới: và chúng ta nghĩ đến Do Thái giáo, Hồi Giáo, và biết bao Tôn Giáo hữu linh. Đặc tính riêng biệt của người Kitô hữu, chính là tin vào sự nhập thể của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Sự tôn sùng Đức Maria chỉ làm cho chúng ta nhớ lại điều đó.
Các tin khác