CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO GIÁO DÂN
KHÓA II: GIÁO DÂN TRUYỀN GIÁO
ĐỀ TÀI I
TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC TRUYỀN GIÁO ĐỐI VỚI GIÁO HỘI CÔNG GIÁO NÓI CHUNG VÀ VỚI GIÁO HỘI VIỆT NAM NÓI RIÊNG.
Nếu lấy năm 1533 là cột mốc đầu tiên ghi dấu sự kiện trọng đại Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô được loan báo cho cha ông chúng ta thì cho đến nay Kitô giáo đã đến Việt Nam được 470 năm. Giáo hội Công giáo đã gặp không biết bao nhiêu khó khăn, bách hại nhưng vẫn tồn tại và phát triển. Nhưng không ai trong chúng ta có thể hài lòng về sự phát triển ấy, vì nhiều lý do:
I. LỆNH TRUYỀN CỦA ĐẤNG SÁNG LẬP GIÁO HỘI CÒN NGUYÊN TÍNH KHẨN TRƯƠNG
Trước khi về Trời, Chúa Giêsu Phục Sinh đã giao cho các môn đệ sứ mạng rao giảng Tin Mừng, làm cho muôn dân trở thành môn đệ Người:
“Mười một môn đệ đi tới miền Galilê, đến ngọn núi Đức Giêsu đã truyền cho các ông đến…..Đức Giêsu đến gần nói với các ông: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,16.18-20).
II. NỖI BỨC XÚCCỦA ĐỨC THÁNH CHA GIOAN PHALO II TRƯỚC NGÀN NĂM THỨ BA
Ý thức được tầm quan trọng và tính cấp bách của việc rao giảng Tin Mừng cho nhân loại trong thiên niên kỷ thứ ba, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã cho tổ chức mừng kỷ niệm 2000 năm biến cố Chúa Giêsu xuống thế làm người và sinh ra là một con người vào năm 2000 vừa qua. Để chuẩn bị cho Năm Thánh 2000 ấy. Đức Thánh Cha đã lần lượt tổ chức các Thượng Hội đồng Giám mục mỗi châu lục: Mỹ, Phi, Au, Á, Úc để các Giám mục địa phương cùng với Đức Thánh Cha và các vị có trách nhiệm ở giáo triều Roma nghiên cứu, tìm tòi, trao đổi, cầu nguyện để tìm cách trình bày Giáo lý và Tin Mừng một cách thích hợp nhất cho con người thời nay. Nhờ đó các Giáo hội Mỹ, Phi, Au, Á, Úc ý thức hơn về nhiệm vụ năng nề và các thách đố lớn lao đang được đặt ra cho mình trong lãnh vực Truyền Giáo.
Nếu chúng ta chú ý chúng ta sẽ để ý đến rất nhiều thông điệp, tông huấn, tông thư của Đức Gioan Phaolô II về vấn đề Rao giảng Tin Mừng và Tân phúc âm hóa. Chúng ta cũng có thể kể gần 100 chuyến Tông du của ngài đến các quốc gia khác nhau và đến các đại hội giới trẻ toàn thế giới hay từng địa phương.
III. NỖI NHỨC NHỐI CỦA NGƯỜI KI-TÔ HỮU Á CHÂU: ĐỨC GIÊ-SU LÀ NGƯỜI Á CHÂU NHƯNG CÒN XA LẠ VỚI NHIỀU ngƯỜI Á CHÂU
Riêng các Giáo hội Á châu đã có Thượng Hội đồng Giám mục về Á châu được tổ chức từ ngày 19.4 đến ngày 14.5.1998 với chủ đề:“Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu chuộc và sứ mạng yêu thương và phục vụ của Ngài tại Á Châu: Để họ được sống và sống dồi dào" (Gioan 10,10). Sau đó vào ngày 6.11.1999 tại New Delhi (An Độ), Đức Gioan Phaolô II đã công bố Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á (Ecclesia in Asia). Trong Thượng Hội đồng Giám mục quan trọng này các Giám Mục tham dự đã bày tỏ nỗi nhức nhối riêng của mình và của các Kitô hữu Á châu, nỗi nhức nhối đã được chính Đức Thánh Cha nhắc lại trong Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á:
“Theo ý kiến của các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng, những khó khăn còn tăng thêm vì Đức Giêsu thường được cho là xa lạ với Châu Á. Thật là nghịch lý khi nhiều người Á châu có khuynh hướng nhìn Đức Giêsu như là một người Tây Phương hơn là một người Á châu dù Ngài đã sinh ra trên chính mảnh đất Á châu” (Tông huấn Giáo hội tại Châu Á, 20).
IV. BỐI CẢNH RIÊNG CỦA GIÁO HỘI VIỆT NAM
Giáo hội Việt Nam ngày nay là con cháu của 117 Vị Thánh Tử Đạo và của hàng chục ngàn người Việt Nam đã chết vì Đạo. Nếu suy nghĩ cho thấu đáo, chúng ta thấy thế hệ hôm nay có trách nhiệm rất lớn trong việc bảo vệ và truyền bá Đức Tin cho đồng bào của mình.
Theo thống kê năm 2001 thì Giáo hội Việt Nam hiện có 25 giáo phận, gồm 5.324.492 giáo dân, trên tổng số 80.489.857 người Việt Nam, chiếm tỷ lệ 6,62%. Tổng số linh mục (triều, dòng, đang làm mục vụ hay nghỉ hưu) của 25 giáo phận là 2.648. Tổng số tu sĩ nam nữ là 11.282. Tổng số chủng sinh 1.362. Tổng số giáo lý viên là 45.858. Nếu chúng ta kể tất cả các linh mục, tu sĩ, chủng sinh và giáo lý viên trên là những người hoạt động cho việc truyền giáo thì chúng ta có tất cả: 61.150 người. Nếu tính bình quân thì một linh mục, tu sĩ, chủng sinh hay giáo lý viên sẽ phải phục vụ 13.087 người Việt Nam trong đó chỉ có 87 người đã là Công giáo. Nhưng thật ra đâu phải tất cả số linh mục, tu sĩ, chủng sinh và giáo lý viên kể trên trực tiếp phục vụ và phục vụ cách đắc lực công cuộc truyền giáo nhất là truyền giáo cho lương dân.
Hiện nay, do Thánh Thần Chúa tác động, có không biết bao nhiêu người đang đi tìm Chúa. Trong cuộc hội thảo “Bốn mươi năm sau Vatican II nhìn lại” do Uy ban Giám mục về Văn hóa tổ chức tại Tòa Tổng Giám Mục Sàigòn vào các ngày 11-13.12.2002 vừa qua, linh mục Vũ Khởi Phụng, Dòng Chúa Cứu Thế, khi trình bày đề tài “Linh mục, con nợ đặc biệt của người nghèo và người yếu đuối” đã đưa ra năm hạng người ”đang cần và đang tìm đức tin”. Đó là 1. Anh chị em các dân tộc thiểu số, 2. Các bạn trẻ sinh viên, học sinh, 3. Những người gốc Công giáo, nhưng đã nhạt đức tin, 4. Những người có thành kiến, ác cảm hoặc lãnh đạm với đạo, nhưng sau đổi ý, 5. Những nạn nhân của các gia đình tan vỡ. Cha Phụng gợi ý với các linh mục dự hội nghị là hãy quan tâm đến 5 hạng người kể trên, nhưng lại cho thấy thường thì anh chị em giáo dân –có khi chỉ là những người giáo dân rất nghèo- lại là những người tự động tìm đến với những anh chị em “đang cần và đang tìm đức tin” kia.
V. Ai có thỂ trỞ thành mỘt tông đỒ giáo dân?
Xin mượn ý và lời của cha Jess S. Brena SJ mà trả lời rằng: bất cứ đàn ông hay phụ nữ nào hội đủ các điều kiện sau đây, đều có thể trở thành một tông đồ giáo dân:
· Là người được ban đức tin vững mạnh, là người không vướng phải những khó khăn lớn trong đời sống luân lý, xã hội (gia đình) và kinh tế.
· Là người có thể phấn đấu để trở thành một tông-đồ-tự-nguyện “làm việc một phần thời gian” để phục vụ Nước Trời.
· Là người ủy thác được và sẵn sàng đón nhận một công tác cụ thể nào đó trong Giáo hội, một công tác thường xuyên phù hợp với khả năng và đoàn sủng của mình.
· Là người độc thân hay kết hôn, góa chồng hay góa vợ.
· Về tuổi tác:
a) Trên nguyên tắc thì bất cứ độ tuổi nào.
b) Để thực tế hơn thì chỉ những người nào mà bổn phận gia đình cho phép họ rảnh một số giờ mỗi ngày hay mỗi tuần (con cái đã lớn hoặc đã được chăm sóc chu đáo).
c) Có thể có nhiều người sắp nghỉ hưu hoặc đã nghỉ hưu nhưng vẫn còn khỏe mạnh, cảm thấy được thôi thúc muốn làm một cái gì đó có ý nghĩa cho Nước Trời trong những năm tháng còn lại của đời mình.
· Có thể là những người vẫn còn trong tuổi lao động, với những điều kiện phải có như ở phần trên (b).
· Tất cả các học viên đều phải được cha xứ mình bảo lãnh với sự đồng tình hiển nhiên của bà con giáo hữu trong cộng đoàn.
· Tất cả phải trải qua khóa huấn luyện và thử nghiệm (thực tập) trước khi được chính thức nhìn nhận là những Tông Đồ Giáo Dân hay Thừa Tác Viên Giáo Dân.
(Trích sách “NGÀI GỌI CON, CON ĐÂY, Thủ bản huấn luyện Tông Đồ Giáo Dân, của Cha Jess S. Brena SJ, trang 145-146, Nhà xuất bản: Trung Tâm Đào Tạo và Thăng Tiến Đài Bắc- Đài Loan, 1984).
VI. Nhu cẦu huẤn luyỆn
“Thật dễ nhận ra rằng đại đa số các Kitô hữu chúng ta đã không được huấn luyện để đảm nhận tích cực phận vụ của mình trong Giáo hội hoặc trong công tác tông đồ. Ai cũng thấy nhu cầu phải được huấn luyện thích đáng là điều quá rõ ràng và cần thiết.
“Giáo dân có quyền được huấn luyện như thế để có năng lực nhiều hơn mà đóng vai trò Thiên Chúa đã ủy tah1c cho mình.
“Về điểm này, Vatican II và Bộ Giáo luật mới đã tuyên bố rất rõ: “Do vậy, ngay cả khi phải bận rộn với những lo toan trần thế, người giáo dân cũng có thể và phải thể hiện những nỗ lực xứng đáng để đưa Tin Mừng vào trần gian. Đặc biệt, một số trong họ sẽ vận dụng hết khả năng mình để đảm nhận các phận vụ thiêng liêng trong trường hợp thiếu linh mục hoặc linh mục bị cấm cách. Nhiều giáo dân sẽ dấn thân hoàn toàn cho công tác tông đồ. Nhưng công tác để mở rộng và phát triển sức mạnh của Nước Chúa Kitô trên trần gian là bổn phận của hết thảy mọi người. Vì vậy, người giáo dân phải rèn luyện để nắm vững hơn về chân lý mạc khải và phải nhiệt thành cầu xin Chúa ban cho mình ơn khôn ngoan” (HC tín lý về Giáo hội, 35).
“Phải coi sự huấn luyện này là nền tảng và là điều kiện cần thiết cho mọi hoạt động tông đồ hữu hiệu”.
“Bởi vì sự huấn luyện trong lãnh vực tông đồ không chỉ bao gồm những chỉ dẫn thuần lý thuyết, nên ngay từ đầu cuộc huấn luyện phải dần dần và khéo léo giúp cho người giáo dân biết xem xét và làm mọi sự trong ánh sáng đức tin – cũng như biết hành động để phát triển và hoàn thiện bản thân mình và người khác; nhờ đó họ hòa nhập vào công cuộc phục vụ đầy năng động của Giáo hội”(SL Tông đồ Giáo dân, 29)
(Trích sách “NGÀI GỌI CON, CON ĐÂY, Thủ bản huấn luyện Tông Đồ Giáo Dân, của Cha Jess S. Brena SJ, trang 147-148, Nhà xuất bản: Trung Tâm Đào Tạo và Thăng Tiến Đài Bắc- Đài Loan, 1984).
VII. MỤc đích và giáo trình khóa I (Khóa nỀn tẢng)
Chương trình đào tạo tông đồ giáo dân sẽ gồm nhiều khóa, dài ngắn khác nhau. Khóa I là khóa nền tảng nhằm giúp anh chị em giáo dân vừa đào sâu Giáo lý Kitô giáo căn bản, vừa có cái nhìn có tính hệ thống về Giáo lý ấy. Các khóa tiếp theo sẽ tập trung vào từng chủ đề một như cầu nguyện, thánh kinh thực hành, dạy giáo lý dự tòng, dạy giáo lý hôn nhân, làm công tác mục vụ gia đình, hội nhập văn hóa, v.v…
Dưới đây là giáo trình Khóa II:
1. Khai giảng + Đề tài I: Tầm quan trọng của việc truyền giáo đối với Giáo hội Công giáo nói chung và với Giáo hội Công giáo Việt Nam nói riêng
2. Đề tài II: Lệnh truyền của Chúa Giêsu Kitô.
3. Đề tài III: Ý thức và nỗ lực truyền giáo của Hội thánh Công giáo.
4. Đề tài IV: Thế nào là Truyền giáo (Phúc Am hóa)?
5. Đề tài V: Đức Giêsu nói về Cha.
6. Đề tài VI: Đức Giêsu rao giảng về Nước Trời.
7. Đề tài VII: Đức Giêsu nói về Cánh Chung.
8. Đề tài VIII: Đức Giêsu Nadarét là Đấng Cứu Độ.
9. Đề tài IX: Đức Giêsu thiết lập Giáo hội Công giáo.
10. Đề tài X: Chúa Thánh Thần trong & ngoài Giáo hội Công giáo.
11. Đề tài XI: Mần nhiệm Giáo hội Công giáo.
12. Đề tài XIO: Ơn gọi, sứ mạng và đặc tính của Giáo hội Công giáo.
13. Đề tài XIII: Đời sống bí tích của Kitô hữu.
14. Đề tài XIV: Đời sống cầu nguyện của Kitô hữu.
15. Đề tài XV: Đời sống luân lý của Kitô hữu.
16. Đề tài XVI: Đời sống tin cậy mến của Kitô hữu.
17. Đề tài XVII: Đối tượng của việc Truyền giáo của Giáo hội Việt Nam ngày nay.
18. Đề tài XVIII: Các nhân tố và phương pháp Truyền giáo ngày nay.
19. Đề tài XIX: Vai trò của việc giảng dạy giáo lý và của các giáo lý viên.
20. Bế giảng: Lượng giá và đúc kết khóa I.
Sàigòn 5.1.2003
Lễ Chúa Hiển Linh
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
Các tin khác