Quyền Lợi và Nghĩa Vụ Người Giáo Dân Giữa Trần Thế
Phải can đảm nhìn vào bộ mặt của thế giới này, là thế giớí của chúng ta, với tất cả những giá trị, những vấn đề của nó, với tất cả những lo âu những hy vọng, những thành quả chinh phục và những thất bại của nó. Một thế giới với hiện tình kinh tế, xã hội, chính trị và văn hóa đầy dẫy các vấn đề và khó khăn nguy ngập hơn cả tình trạng được mô tả trong Hiến Chế Mục Vụ Vui Mừng và Hy Vọng. Dù sao, đây là vườn nho, là mảnh đất mà người tín hữu giáo dân được gọi để sống sứ mệnh của mình.
Chúa Giêsu muốn cho họ như Ngài đã muốn cho các môn đệ của Ngài, trở nên muối đất và ánh sáng của thế gian.[1] Thông hiệp với Chúa Giêsu, nguồn hiệp thông giữa các Kitô-hữu với nhau, là một điều kiện không thể không có để trổ sinh hoa trái: "Ngoài Ta, chúng con không thể làm được gì.”
Và sự hiệp thông với tha nhân là hoa trái đẹp nhất của cành nho. Đó là ơn của Đức Kitô và của Thánh Thần Ngài. Sự thông hiệp phát sinh hợp nhất và bản chất nó là hiệp thông truyền giáo. Vì Chúa Giêsu đã nói với môn đệ Ngài rằng: "Không phải các con chọn Thầy, chính Thầy đã tuyển chọn các con và sai các con đi mang lại kết quả và để kết quả ấy tồn tại".
Sự hiệp thông và việc truyền giáo gắn liền với nhau, xâm nhập và quấn quít nhau và đã trở nên như nguồn mạch, và là hoa trái của việc truyền giáo. Hiệp thông là truyền giáo, và truyền giáo có mục đích thể hiện sự hiệp thông. Chính một Chúa Thánh Thần kêu gọi và hiệp nhất Giáo Hội và sai Giáo Hội đi rao giảng Phúc âm "khắp trên mặt đất".[2] Tất cả sứ mệnh của Giáo Hội quy tụ và biểu dương trong việc rao truyền Phúc âm.
Con đường lịch sử của Giáo Hội được ơn Chúa che chở và đi theo mệnh lệnh của Đức Giêsu Kitô: "Chúng con hãy đi khắp thế giới, rao giảng Tin Mừng cho mọi người". "Và Thầy sẽ ở với chúng con mọi ngày cho đến tận thế". Đức Phaolô VI lại viết: "Rao truyền Phúc âm, đó là ân sủng và là lời mời gọi riêng của Giáo Hội, là bản tính sâu xa của Giáo Hội."[3] Mệnh lệnh của Chúa "Chúng con hãy đi và rao giảng Phúc âm", chắc chắn vẫn luôn giữ giá trị linh động và cần phải được thi hành. Tình thế hiện tại của thế giới cũng như của nhiều địa hạt trong Giáo Hội, càng đòi hỏi lời Đức Kitô phải được tuân theo một cách sẵn sàng, mau chóng, và đại độ. Mỗi người được gọi riêng và không ai được quyền từ chối, vì: "Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Phúc âm”.[4]
Người tín hữu giáo dân biết đem Phúc âm vào đời sống là nghĩa vụ hằng ngày. Đó là chứng tá đẹp nhất và hữu hiệu nhất, để cho mọi người thấy rằng không phải sợ hãi, mà là tìm kiếm Đức Kitô, để bám chặt lấy Ngài, là yếu tố quyết định cho con người được sống và trưởng thành, và để tạo nên những mẫu sống phù hợp với phẩm giá con người. Con người được Thiên Chúa yêu thương! Đó là điều rất đơn giản và cũng là rất táo bạo mà Giáo Hội phải loan truyền cho mọi người. Lời nói và đời sống của mỗi người Kitô hữu phải là dư âm của sứ điệp này: Thiên Chúa yêu thương con. Đức Kitô đã đến vì con, vì con mà Đức Kitô trở nên "Đường, Sự Thật và Sự Sống".
Giáo Hội trở nên một cộng đồng được phúc-âm-hóa, đồng thời phúc-âm-hóa kẻ khác, và trở nên đầy tớ của mọi người. Trong Giáo Hội các tín hữu giáo dân tham gia vào sứ mệnh phục vụ con người và xã hội. Cùng đích cao cả của Giáo Hội là Nước Thiên Chúa; Giáo Hội là "hạt giống và là khởi điểm của Nước Thiên Chúa trên mặt đất",[5] vì thế Giáo Hội hoàn toàn tận hiến để làm vinh danh Chúa Cha. Giáo Hội được gọi để phục vụ con người. Việc phục vụ này bắt nguồn từ sự kiện lạ lùng và chấn động là "Con Thiên Chúa đã nhập thể và kết hợp với mọi người ". [6] Vì thế con người "là con đường thứ nhất Giáo Hội phải theo để hoàn thành sứ mệnh của mình: Là con đường căn bản thứ nhất của Giáo Hội, đã được Chúa Kitô vạch ra, con đường xuyên qua Mầu Nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc.”[7]
Người tín hữu giáo dân dấn thân làm việc tông đồ trong trật tự trần thế có nghĩa là phục vụ cá nhân con người, cá nhân duy nhất và không ai có thể thay thế được, cũng có nghĩa là phục vụ tất cả mọi người. Vợ chồng và gia đình là nơi đầu tiên để các tín hữu giáo dân dấn thân vào xã hội. Nhưng hành động dấn thân này chỉ có ý nghĩa khi họ xác tín về giá trị duy nhất và không thay thế được của gia đình trong việc phát huy xã hội và Giáo Hội. Gia đình là chiếc nôi của sự sống và tình thương, trong đó con người "chào đời" và "lớn lên". Gia đình vì thế là tế bào nền tảng của xã hội. Như kinh nghiệm cho thấy, văn minh và tình liên đới các dân tộc một phần lớn tuỳ thuộc ở phẩm cách tốt xấu của gia đình. Như thế việc tông đồ gia đình mang một giá trị xã hội không hể so sánh được. Giáo Hội rất xác tín về điều này, vì biết rằng “tương lai của nhân loại phải đi qua gia đình.”[8]
Để đem đời sống Kitô hữu vào trật tự trần thế, nghĩa là "đem đạo vào đời" theo ý nghĩa là phục vụ con người và xã hội, các tín hữu giáo dân tuyệt đối không thể từ chối tham gia vào "chính trị", nghĩa là vào các hoạt động nhiều sắc thái, kinh tế, xã hội, lập pháp, hành chánh văn hóa, có mục đích cổ võ công ích một cách có cơ chế.[9] Các tín hữu giáo dân dấn thân vào chính trị phải thẳng thắn tôn trọng sự tự lập của các thực tại trần thế theo nghĩa của Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng: "...Điều rất quan trọng là cần nhận thức chính xác về mối tương quan giữa cộng đồng chính trị và Giáo Hội, nhất là trong một xã hội gồm nhiều thành phần. Cũng cần phải phân biệt minh bạch giữa hành động của các tín hữu hoặc cá nhân hoặc đoàn thể với danh nghĩa công dân dưới sự hướng dẫn của lương tâm Công Giáo, và những hành động của các tín hữu khi họ nhân danh Giáo Hội và hợp nhất với các vị chủ chăn của họ. Vì căn cứ vào vai trò và thẩm quyền của mình, Giáo Hội không cách nào bị đồng hoá với một tập thể chính trị và cũng không hề cấu kết với bất cứ hệ thống chính trị nào, vì Giáo Hội vừa là dấu chỉ, vừa là đảm bảo cho tính cách siêu việt của con người".[10]
Kết quả của hoạt động chính trị liên đới là Hoà Bình. Đó là điều mọi người ước vọng, nhưng còn xa vời. Các tín hữu giáo dân không thể khoanh tay ngồi nhìn như kẻ bàng quan lười bịếng trước những gì phá hoại hay làm tổn thương hoà bình: như vũ lực và chiến tranh, tra tấn hay khủng bố, trại tập trung, quân sự hoá chính trị, thi đua võ trang, đe dọa nguyên tử. Ngược lại, là môn đệ Đức Giêsu Kitô "Vua Hoà bình", "Hoà bình của chúng ta"các tín hữu giáo dân phải nhận lãnh bổn phậnlàm "kẻ kiến tạo hoà bình" bằng một cuộc sống trở về với Chúa và bằng các hoạt động vì chân lý, vì tự do, vì công bình và bác ái là những nền móng vững chắc của hòa bình.[11]
Việc phục vụ con người và xã hội được diễn tả và thực hiện qua việc tạo nên và truyền thông văn hóa, một trong những nghĩa vụ nặng nề cho con người sống chung và tiến hóa của xã hội ngày nay. "Văn hóa" được Công Đồng hiểu nghĩa như sau: "Theo nghĩa tổng quát, chữ "văn hóa" ám chỉ bao gồm tất cả những gì con người dùng để trau giồi các tài năng của tâm hồn và thể xác; cố gắng chế ngự trái đất bằng hiểu biết và lao động; làm cho đời sống xã hội, đời sống gia đình cũng như đời sống chính trị trở thành nhân đạo hơn nhờ sự tiến bộ trong các tập tục và định chế, sau hết diễn tả, thông truyền và bảo tồn những kinh nghiệm tinh thần và hoài bão lớn lao của các thời đại, để giúp cho nhiều người và toàn thể nhân loại tiến bộ hơn".[12]
Theo nghĩa này, văn hóa phải được xem như là của chung của mỗi dân tộc, là sự diễn tả phẩm giá, tự do và óc sáng tạo của họ, và là chứng tá chặng đường lịch sử. Chỉ khi nào nó đi vào lòng văn hóa và qua một nền văn hóa, thì Đức tin Công giáo mới thực sự tham dự vào lịch sử và kiến tạo lịch sử.
Trước một nền văn hóa xem ra lạc xa đức tin công giáo. Và có khi trái ngược với các giá trị nhân bản.[13] Cũng như đứng trước một thứ văn hóa khoa học và kỹ thuật là văn hóa bất lực để trả lời cho những khát vọng chân lý và điều thiện đang nung nấu tâm hồn con người. Giáo Hội rất ý thức bổn phận cấp bách, nhất là về phương diện mục vụ, phải lưu tâm đặc biệt đến văn hóa.[14]
Tóm lại: Phúc-âm-hóa không phải như một cách trang trí, một lớp sơn bên ngoài, nhưng bằng một cách sống chết, thấm tận xương tủy. Nghĩa là Phúc-âm-hóa các nền văn hóa của con người. Sự đổ vỡ giữa Phúc âm và văn hóa, đó là thảm kịch của thời đại chúng ta, và cũng đã là thảm kịch của các thời đại xưa.
Vì thế phải cố sức để thực hiện Phúc- âm-hóa văn hóa, hay nói đúng hơn các nền văn hóa".[15]
Lm. Gioankim Nguyễn Văn Hinh (D.Min.)
[1] Ibid., 3.
[2] Ibid., 31.
[3]Phaolô VI, Tông huấn Evangelii Nuntiandi, l4 AAS 68 (1976), 13
[4] Ibid., 33.
[5]Vaticanô II, Hiến chế Lumen Gentium, 5.
[6]Ibid., 22.
[7]Gioan-Phaolô II, Thông điệp Redemptor hominis, 14, AAS 71 (1979) 284-285.
[8]AAS 74 (1982) 188.
[9] Tông Huấn, Người Tín Hữu Giáo Dân, 42.
[10]tld 76
[11]Gioan XXIII, Thông điệp Pacem in Terris: AAS 55 (1963) 265-366.
[12]Vaticanô II, Hiến chế Gaudium et Spes, 53.
[13]Xem Propositio, 35.
[14] Tông Huấn, Người Tín Hữu Giáo Dân, 44.
[15]Phaolô VI, Tông huấn Evangelii Nuntiandi,18-20, AAS 68 (1976), 18-19.
[16] Công Đồng Vat. II, Ánh Sáng Muôn Dân, 38.
[17] Gal 5: 22
[18] Mt 5: 3-9
[19] Công Đồng Vat. II, Ánh Sáng Muôn Dân, 38.
Các tin khác