Người Giáo Dân
Quyền Lợi và Nghĩa Vụ Trong Giáo Hội
Giáo dân có đầy đủ nghĩa vụ và quyền lợi, như tất cả các tín hữu Kitô giáo, được ấn định trong các điều luật chung. Ngoài ra, họ còn có những nghĩa vụ và quyền lợi riêng, được đề cập tới trong những điều luật sau đây.[1]
Xét vì các giáo dân cũng như mọi tín hữu được Thiên Chúa ủy thác làm việc tông đồ do Phép Rửa Tội và Phép Thêm Sức, nên họ có nghĩa vụ tổng quát và có quyền lợi xét từng cá nhân hoặc kết hợp thành hiệp hội, phải làm sao để sứ điệp cứu rỗi của Thiên Chúa được mọi người khắp thế giới biết đến và đón nhận. Nghĩa vụ này lại càng thôi thúc hơn trong những hoàn cảnh mà chỉ có thể nhờ các giáo dân, người ta mới có thể nghe theo Phúc Âm và biết Đức Kitô. Tùy theo điều kiện riêng của từng người, các giáo dân cũng có bổn phận phải làm thấm nhập và kiện toàn trật tự trần thế với tinh thần Phúc Âm; và như vậy, họ làm chứng cho Đức Kitô, đặc biệt khi điều hành các sự việc trần thế cũng như lúc thi hành các chức vụ đời.[2]
Những ai sống trong bậc vợ chồng theo ơn gọi riêng thì có bổn phận đặc biệt phải cố gắng xây dựng dân Chúa qua hôn nhân và gia đình. Các cha mẹ, vì truyền thụ sự sống cho con cái nên có nghĩa vụ rất nghiêm trọng và quyền lợi giáo dục chúng. Vì thế, trách nhiệm đầu tiên của các cha mẹ Kitô giáo là lo bảo đảm sự giáo dục Kitô giáo cho các con cái hợp với giáo huấn của Giáo Hội.[3]
Giáo dân có quyền được nhìn nhận sự tự do dành cho mọi công dân trong lãnh vực trần thế. Nhưng khi sử dụng quyền tự do này, họ phải lo sao cho mọi hành động của họ được thấm nhập bằng tinh thần Phúc Âm, và họ phải để ý đến đạo lý do quyền giáo huấn của Giáo Hội đề ra, tuy phải tránh trình bày ý kiến riêng của mình trong vấn đề còn đang được tranh luận như là giáo huấn của Giáo Hội.[4]
Giáo dân nào được nhận thấy có khả năng thì có năng cách để các chủ chăn mời đảm nhận các chức vụ trong Giáo Hội và các nhiệm vụ mà họ có thể hành sử được chiếu theo qui tắc luật định. Các giáo dân nào xuất sắc trong sự hiểu biết, khôn ngoan và thanh liêm thì có năng lực để giúp đỡ các chủ chăn của Giáo Hội với tư cách chuyên viên hoặc cố vấn, kể cả trong các Hội Đồng Tư Vấn theo các qui tắc luật định.[5]
Giáo dân thuộc nam giới có đủ tuổi và điều kiện do nghị định của Hội Đồng Giám Mục ấn định, có thể lãnh tác vụ đọc sách hoặc giúp lễ qua một qui tắc phụng vụ đã qui định. Tuy nhiên, việc trao tác vụ này không cho họ quyền được Giáo Hội trợ cấp hoặc trả lương. Các giáo dân có thể được chỉ định tạm thời đảm nhiệm việc đọc sách trong các việc phụng vụ. Cũng thế, tất cả các giáo dân có thể thi hành công tác của người chú giải, ca trưởng hoặc những công tác khác theo qui tắc luật định. Nơi nào nhu cầu Giáo Hội đòi hỏi và thiếu thừa tác viên, thì các giáo dân dù không có tác vụ đọc sách và giúp lễ, cũng có thể thay thế họ làm một số việc, tỉ như thi hành tác vụ Lời Chúa, chủ tọa các buổi cầu nguyện, rửa tội và cho rước lễ theo các qui tắc luật định.[6]
Nhìn vào lịch sử Giáo Hội, trước Công Đồng Vatican II, vai trò của giáo sĩ được đề cao hơn người giáo dân rất nhiều. Với tính cách người chủ chăn, giáo sĩ nắm trọn quyền quyết định trong cộng đoàn, giáo dân chỉ nghe theo. Nhưng từ công đồng Vatican II, Giáo Hộâi đã nâng cao vai trò của người giáo dân lên, thực tế ngay trong mỗi cộng đoàn, về cả phạm vi bổn phận và phạm vi quyền lợi. Muốùn thấy Giáo Hội đề cao hay quan tâm đến giáo dân như thế nào, chúng ta chỉ cần lược lại những văn kiện mới đây của Giáo Hội. Công Đồng dành cả chương IV trong Hiến chế Tín Lý về Giáo Hội, ban hành ngày 21.11.1964 để nói về bản chất, địa vị và nhiệm vụ của giáo dân. Sắc lệnh về Tông Đồ Giáo Dân, ban hành ngày 18.11.1965 cũng đề cập tới quyền lợi và nhiệm vụ hay về ơn gọi làm tông đồ, những cách thức và những môi trường tông đồ của giáo dân.
Nhờ bí tích Rửa Tội và bí tích Thêm Sức người tín hữu thông phần vào sứ mạng của Chúa Kitô. Sứ mạng tư tế khi cử hành Thánh Thể, sứ mạng sứ ngôn khi rao giảng Lời Chúa, sứ mạng vương giả khi dọn đường cho Đức Kitô trở lại trong vinh quang.[7] Về phạm vi này, Công Dồng Vatican II cũng như Giáo Luật đều nhấn mạnh đến tính cách bình đẳng về phẩm giá và hoạt động của mọi Kitô hữu: “Giữa các tín hữu, nhờ sự tái sinh trong Đức Kitô, mọi người đều bình đẳng về phẩm giá và hoạt động. Nhờ sự bình đẳng này, các tín hữu cộng tác với nhau xây dựng thân thể Đức Kitô, tùy theo điều kiện và chức vụ riêng của từng người.”[8]
Bổn phận chính yếu của người giáo dân
Các tín hữu phải chuyên cần chu toàn mọi bổn phận đối với Giáo Hội hoàn vũ cũng như đối với Giáo Hội địa phương mà họ trực thuộc.[9] Giáo luật xác định rằng: các tín hữu phải luôn luôn duy trì sự hiệp thông với Giáo Hội, kể cả trong đường lối hành động.[10] Vì giáo dân không chỉ là người thợ làm trong vườn nho, nhưng chính là thành phần của cây nho: Thầy là cây nho, anh em là cành, cành phải kết hợp với cây mới sinh hoa trái.[11] Mọi tín hữu được kêu gọi và có bổn phận nên thánh và nên trọn lành theo bậc sống của mình.[12]
Vì thế, người tín hữu phải cố gắng sống thánh thiện để thánh hóa cộng đoàn và đem ơn Chúa đến cho mọi người.[13] Các tín hữu có bổn phận cộng tác vào hoạt động loan báo Tin Mừng của Giáo Hội, đồng thời với tư cách chứng nhân và khí cụ sống động, các tín hữu tham gia vào sứ mệnh cứu rỗi của Giáo Hội, nhất là khi họ được Thiên Chúa kêu gọi và được giám mục thu nhận để làm việc đó.[14] Giáo luật cũng xác định: Tất cả các tín hữu có bổn phận phải làm sao cho sứ điệp cứu độ của Thiên Chúa càng ngày càng được truyền tới hết mọi người, thuộc mọi thời và mọi nơi.[15] Giáo luật còn nêu lên những cách thức tham gia việc truyền giáo cụ thể như giúp phương tiện cần thiết để Giáo Hội sử dụng vào việc phụng thờ Thiên Chúa, các công tác tông đồ và bác ái, và việc trợ cấp xứng đáng cho các thừa tác viên.
Cũng vậy, các tín hữu có bổn phận cổ võ công bằng xã hội cũng như dùng tài sản riêng tư để giúp đỡ những người nghèo, theo lệnh truyền của Thiên Chúa.[16] Hiệp nhất và cộng tác để xây dựng: trong sắc lệnh Tông Đồ Giáo Dân, Công Đồng dạy : Người tín hữu có bổn phận xây dựng cộng đoàn, bằng tinh thần hợp nhất với nhau, rồi từ đó, cộng tác chặt chẽ với các linh mục giáo xứ hay trong cộng đoàn của mình. Vì cộng đoàn là tế bào của giáo phận và Giáo Hội, nên giáo dân xây dựng cộng đoàn là xây dựng giáo phận và Giáo Hội.[17]
Muốn xây dựng cộng đoàn, muốn cho tình thương hiệp nhất và huynh đệ sáng lên trong mọi sinh hoạt của cộng đoàn và của Giáo Hội, người tín hữu phải gạt bỏ mọi ganh tị và chia rẽ, phải tôn trọng lẫn nhau và phối hợp với nhau.[18] Người tín hữu có khả năng phải biết dấn thân vào hội đồng mục vụ, ban đại diện.[19] Người tín hữu còn phải rộng rãi đóng góp vào công việc của cộng đoàn cả phạm vi vật chất, đó vừa là bổn phận vừa là danh dự cho người tín hữu khi được trả lại cho Thiên Chúa một phần của cải Ngài đã ban cho.[20]
Quyền lợi chính yếu của người giáo dân
Quyền lãnh nhận của cải thiêng liêng: Các tín hữu có quyền được lãnh nhận từ các chủ chăn sự hỗ trợ nhờ các của cải thiêng liêng của Giáo Hội, nhất là lời Chúa và các Bí tích.[21] Quyền bày tỏ nguyện vọng: các tín hữu có quyền trình bày cho chủ chăn của Giáo Hội các nhu cầu của mình, nhất là các nhu cầu thiêng liêng và mọi ước vọng của mình.[22] Quyền công luận: tùy theo kiến thức, chuyên môn và tài ba của mình, các tín hữu có quyền, và đôi khi là bổn phận, bày tỏ cho các chủ chăn biết ý kiến của mình liên quan tới lợi ích của Giáo Hội. Họ cũng có quyền biểu lộ ý kiến của mình cho các tín hữu khác, miễn là bảo vệ sự vẹn toàn của đức tin và luân lý, cũng như sự tôn kính đối với các chủ chăn, và để ý đến công ích và phẩm giá của tha nhân.[23]
Quyền theo lễ điển và linh đạo riêng: các tín hữu có quyền phụng thờ Thiên Chúa theo các quy định của lễ diển riêng đã được các chủ chăn hợp pháp của Giáo Hội chuẩn y, và quyền theo đuổi một hình thái của đời sống thiêng liêng, miễn sao phù hợp với đạo lý của Giáo Hội.[24]
Quyền hội họp và lập hội : các tín hữu có quyền tự do thiết lập và điều khiển các hiệp hội nhằm mục đích từ thiện hoặc đạo đức, hoặc nhằm cổ võ ơn gọi của người Kitô trong thế giới ; họ cũng có quyền nhóm họp để cùng nhau theo đuổi đạt tới các mục đích đó. Quyền cổ võ hoạt động tông đồ: vì được tham dự vào sứ mạng của Giáo Hội, tất cả các tín hữu có quyền cổ võ và nâng đỡ hoạt động tông đồ kể cả bằng sáng kiến riêng, tùy theo tình trạng và điều kiện của họ. Tuy nhiên không sáng kiến nào có thể mệnh danh là công giáo nếu không có sự đồng ý của nhà chức trách có thẩm quyền trong Giáo Hội.
Quyền được hấp thụ giáo dục Kitô giáo : các tín hữu, nhờ phép Rửa Tội , họ được mời gọi sống cuộc đời phù hợp với giáo lý Phúc Âm, nên có quền hấp thụ nền giáo dục Kitô giáo, nhờ đó họ được đích thực giáo huấn để đạt tới sự trưởng thành nhân bản và đồng thời hiểu biết và sống mầu nhiệm cứu độ. Quyền này còn được đề cập rộng rãi trong các điều nói về việc huấn giáo.[25]
Quyền lựa chọn bậc sống: tất cả các tín hữu có quyền lựa chọn bậc sống, không thể bị ngăn cản hay bị cưỡng ép. Và Giáo luật còn đề cập đến trong các điều nói về hôn nhân về ơn gọi giáo sĩ và dòng tu.
Quyền bảo vệ thanh danh : không ai được phép làm thiệt hại cách bất hợp pháp đến thanh danh mà mỗi người được hưởng, hoặc vi phạm quyền của mỗi người được bảo vệ bí mật riêng tư của mình. Quyền này đặc biệt liên quan đến các cuộc điều tra xử án.[26]
Ngoài những quyền lợi và bổn phận chung trên đây, người tín hữu còn có những quyền lợi và bổn phận xây dựng cộng đoàn qua đời sống hôn nhân và gia đình; bổn phận và quyền lợi quan trọng trong việc giáo dục con cái hợp với giáo huấn của Giáo Hộ; quyền tự do công dân trong lãnh vực trần thế; quyền đảm nhận , khi được mời đúng luật, các chức vụ trong Giáo Hội: dạy các thánh khoa, chú giải lời Chúa, đọc sách Thánh, giúp lễ, điều khiển thánh nhạc, tác vụ lời Chúa, chủ tọa buổi cầu nguyện, rửa tội, cho rước lễ; bổn phận và quyền lợi đắc thủ sự hiểu biết đạo lý hợp với khả năng và điều kiện riêng của mỗi người; «quyền được huấn luyện thích hợp để chu toàn nhiệm vụ được trao phó. Thực tế và quan trọng cho cộng đoàn là người tín hữu có bổn phận và quyền lợi dấn thân vào hội đồng giáo xứ hay ban đại diện của cộng đoàn.[27]
Tông Huấn người tín hữu giáo dân, nhìn nhận “Trước tiên phải công nhận làngười tín hứu giáo dân có quyền tự do thành lập hội đoàn trong Giáo Hội. Quyền tự do này là một quyền lợi thật, nó không phải chỉ là một hình thức "nhân nhượng" của giáo quyền mà là hậu qủa đương nhiên của phép Rửa Tội.
Là một bí tích, phép Rửa Tội kêu gọi các tín hữu giáo dân phải tích cực tham gia vào sự hiệp thông và sứ mệnh của Giáo Hội. Công Đồng đã nói rõ ràng về điều này: "Giáo dân có quyền thành lập các hội đoàn; điều khiển và ghi tên vào các đoàn thể đã có sẵn, miễn là phải giữ mối liên lạc cần thiết với giáo quyền."[28]Giáo Luật lại qủa quyết: "Các tín hữu có quyền tự do thiết lập và điều khiển các hội đoàn nhằm mục đích từ thiện hay đạo đức, hoặc nhằm cổ võ ơn gọi của người Kitô trong thế giới; họ cũng có quyền nhóm họp để cùng theo đuổi đạt tới các mục đích đó ".[29]
Đây là một quyền tự do được công nhận và bảo đảm do giáo quyền, nhưng phải luôn luôn thi hành trong sự hiệp thông với Giáo Hội. Do đó, quyền lợi của người tín hữu giáo dân được tự do hội họp là một quyền lợi nối kết mật thiết với đời sống chung và sứ mệnh chính của Giáo Hội.[30]
Kết luận, người tín hữu giáo dân, vị trí không thể thay thế. Qua những điều trình bày ở trên, chúng ta có thể kết luận vắn tắt bằng lời của đức thánh cha Gioan Phaolô: Tự căn bản, người tín hữu có một vị trí không thể thay thế được. Nhờ người tín hữu mà Giáo Hội Chúa Kitô hiện diện trong mọi lãnh vực khác nhau của thế giới, như là dấu chỉ và nguồn mạch của hy vọng và tình yêu.[31]
Trong khoa đào luyện Truyền Giáo, se xin đề cập đặc biệt tới nhiệm vụ quan trọng và khẩn thiết của tín hữu giáo dân trong Hội Thánh: “Hiệp Thông và Tăng Trưởng” để “Loan Báo tin Mừng.”
Lm. Gioankim Nguyễn Văn Hinh (D.Min.)
[1] Bộ Giáo Luật, 1983, 224.
[2] Ibid., 225.
[3] Ibid., 226.
[4] Ibid., 227.
[5] Ibid., 228.
[6]Vaticanô II, Sắc lệnh Apostolicam actuositatem, 19. tld, 15; Hiến chế, Lumen Gentium, 37.
[7]Giáo Luật, 1983, 204,1.
[8] Công Đồng Vat. II, Hiến chế Lumen Gentium, 32; Giáo Luật, 208.
[9]Giáo Luật, 209, 2.
[10] Ibid., 209, 1.
[11] Tông Huấn, Tín Hữu Giáo Dân, 8.
[12] Công Đồng Vat. II, Hiến chế Lumen Gentium, 44.
[13]Ibid., 40 và Giáo Luật 1983, 210.
[14]Sắc Lệnh, Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội, 41.
[15] Giáo Luật 1983, 211; 226; 774,2; 793; 1136.
[16] Ibid., 222.
[17] Vaticanô II - Sắc lệnh Apostolicam actuositatem, 10.
[18] Ibid., 23.
[19] Giáo Luật 1983, 536.
[20] Vaticanô II - Sắc lệnh Apostolicam actuositatem, 10.
[21] Giáo Luật 1983, 213.
[22] Ibid., 212, 2
[23] Ibid., 212. 3.
[24] Ibid., 214; Công Đồng Vat.II, Phụng Vụ, 4; Mục Vụ, 26; Tuyên ngôn về Tự Do Tín Ngưỡng, 2.
[25] Ibid., 215; 216; 298-329; 217; 773tt; 793tt; Tuyên Ngôn, Giáo Dục Kitô Giáo, 28-10-65.
[26] Ibid., 219; CĐ.Mục Vụ, 26,29,52; GL. 1103, 1113, 1114, 1121; 1026; 656, 4; 220; 1470.
[27] Ibid., 226, 1,2; 227; 228; 229; 229, 3; 2230; 229, 1-2; 231, 1; 536, 1-2.
[28] Vaticanô II, Sắc lệnh Apostolicam actuositatem, 19. - xem tld, 15; Hiến chế, Lumen Gentium, 37.
[29] Can. 215.
[30] Đây là một quyền tự do được công nhận và bảo đảm do giáo quyền, nhưng phải luôn luôn thi hành trong sự hiệp thông với Giáo Hội. Do đó, quyền lợi của người tín hữu giáo dân được tự do hội họp là một quyền lợi nối kết mật thiết với đời sống chung và sứ mệnh chính của Giáo Hội.
[31] Tông Huấn, Người Tín Hữu Giáo Dân, 7.
Các tin khác