ĐÀO LUYỆN GIÁO DÂN
THIÊN NIÊN KỶ MỚI
1. Nhận thức
1.1. Ý nghĩa
Truyền giáo là “Loan báo Phúc Âm cho hết mọi người.”[14]
Theo Truyền giáo học:
Công cuộc truyền giáo là công tác tông đồ, qua đó Giáo Hội trình bày Chúa Giêsu cho anh
chị em lương dân để họ nhận biết và yêu mến Ngài là Đấng Cứu Độ.
Đồng thời đem Tin Mừng chiếu soi mọi thực tại và khía cạnh của cuộc sống để tất cả được
thăng tiến theo chương trình của Chúa là Đấng Tạo Hóa và là Đấng Cứu Độ.[15]
Cụ thể là bảo cho mọi người biết:
“Thiên Chúa là tình yêu.”
Ngài yêu thương từng người. Ngài cũng muốn mọi người thương yêu nhau như anh em và
cùng nhau góp phần vào việc đổi mới con người và cuộc sống; xây dựng, phát triển một xã
hội tốt đẹp.
Hầu mọi người được hạnh phúc.
Hạnh phúc vững bền và vĩnh cửu.
1.2. Mục đích
Thực thi hai giới răn:
“Mến Chúa và Yêu Người” và sống “Chân - Thiện - Mỹ”
Theo con đường truyền giáo mới của Hội Thánh:
“Đối thoại và Hoà giải.”
Hầu dẫn tới sự Hiệp Thông:
“Hiệp thông để Loan Báo Tin Mừng và Loan Báo Tin Mừng để dẫn tới sự Hiệp thông.”
Hiệp thông với Chúa Kitô, cùng với Chúa Kitô, Yêu thương - Hiệp thông với mọi người.
2. Nội dung
2.1.1. Nhận thức: Ý nghĩa mục đích
Trước Công Đồng Vat. II, Giáo Hội ít nhấn mạnh tới đối thoại mà tập trung vào việc dạy dỗ.
Như Thông Điệp “Mẹ và Thầy” của Chân Phước Giáo Hoàng Gioan XXIII.
Và vì thế Giáo Hội quan tâm tới việc giáo huấn hơn là lắng nghe, đối thoại.
Mãi đến Công Đồng Vat. II thì Giáo Hội mới chính thức đối thoại với những người khác
mình.
Ngày nay, “Đối thoại là con đường mới của Giáo Hội”[1]
Chúng diễn tả yếu tính Giáo Hội hiểu biết về mình:
Giáo Hội là Đối thoại.
Đối thoại là con đường nghĩa vụ sống mỗi ngày của Giáo Hội và là cách Giáo Hội rao giảng
Phúc Âm.
2.1.2. Phân loại
Có bốn loại đối thoại.
Một là đối thoại cuộc sống.
Hai là đối thoại hành động.
Ba là đối thoại kinh nghiệm tôn giáo.
Bốn là đối thoại trao đổi thần học.
2.1.3. Đặc điểm
Sắc lệnh “Đối thoại với các tôn giáo” viết:
“Đáp trả Thánh Thần trong hoàn cảnh cụ thể và linh hoạt là phát triển văn hóa đối thoại với
các tín hữu của các tôn giáo. Văn hóa đối thoại phải trở nên dấu hiệu đặc biệt của xã hội
chúng ta, để cho toàn thể
nhân loại nhận biết vinh quang cao cả của Thiên Chúa Đấng trợ giúp con người.
Trong văn hóa Việt Nam, chữ “Nhân” với nghĩa là “Tính Người” bao gồm chữ “Nhị” và bộ
“Nhân đứng”.
Tính người bộc lộ trong quan hệ giữa hai người.
L. Pheurbach từng viết:
“Con người cá thể không chứa bản chất con người ở trong mình… Bản chất con người chỉ
bộc lộ trong giao tiếp, trong thể thống nhất giữa con người với con người. Con người để
cho mình chỉ là con người theo nghĩa thông thường; còn con người trong giao tiếp với
đồng loại, trong sự thống nhất giữa Tôi với Anh mới chính là Thượng Đế.”[16]
Đối thoại làm con người trở nên giống Thượng Đế. Tính người và tính Thượng Đế được
tăng cường, khi tính cộng đồng lại là một trong những đặc trưng văn hóa của Người Việt.
Do tính cộng đồng, người Việt Nam rất thích đối thoại.
Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, hòa bình và tôn giáo có tương quan mật thiết với nhau.
Trong cuộc hội thảo về đề tài “Các tôn giáo trên địa cầu và nhân quyền” được tổ chức tại
Paris, do UNESCO và Viện Văn Hóa Đức tổ chức, vào tháng hai năm 1989, giáo sư Hans
Kung phát biểu:
“Không thể có hòa bình giữa các dân tộc trên địa cầu, nếu không có hòa bình giữa các tôn
giáo.”
Còn Đức cố Giáo Hoàng Phaolô VI khẳng định:
“Không có hòa giải, không có hòa bình, hòa giải dẫn tới hòa bình.”
Thêm vào đó, Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu (FABC) xác tín rằng:
“Đại kết và đối thoại đã trở thành điều thiết yếu để ta thực hiện bất cứ tác vụ nào.” Vì thế,
“Mỗi thành viên và tất cả cộng đồng Kitô hữu được mời gọi để tham gia đối thoại, dù không
luôn luôn ở cùng một trình độ hoặc cùng một phương thức” (Tông Huấn Sứ Vụ Đấng Cứu
Độ, RM:Redemptoris Missio).
Do đó, đối thoại là nghĩa vụ, và là cách thức truyền giáo của Giáo Hội hiện nay.
2.1.4. Nguyên tắc
Hai nguyên tắc tối quan trọng trong đối thoại hiệp thông: “Yêu và Tin.”
- Nguyên tắc thứ nhất: “Yêu thương”
Yêu thương thể hiện qua những thái độ căn bản:
Khiêm tốn, kính trọng, kiên nhẫn, lắng nghe.
Về khiêm tốn, Chúa Giêsu kêu mời:
“Hãy học cùng Ta, vì Ta khiêm nhường và hiền lành.”
Về kính trọng, sách Gương Phúc khuyên:
“Không nói hay về mình, biết kính trọng mọi người. Đó là khôn ngoan và toàn hảo nhất.”
Và kinh nghiệm cho thấy, một sự tôn trọng được sinh ra bởi tình yêu có thể duy trì sáng
tạo.
Về kiên nhẫn:
“Kiên nhẫn là hơi thở sâu của đam mê” (E. Jungel).
Còn về lắng nghe:
Chúng ta hầu hết không bao giờ nghe đầy đủ câu: “Khi chúng ta trao đổi, chúng ta có thể
nghe nhau, nghe trước khi xét đoán.”
- Nguyên tắc thứ hai: “Tin”
Tin là tiền đề căn bản khác trong đối thoại hiệp thông.
Tin có trong đối thoại hiệp thông như trái đất có cây.
Không có gì xấu xa hơn khi người ta phải đối mặt với một bức tường nghi ngờ.
Thẻ tín dụng tuỳ thuộc vào niềm tin kinh tế.
Và thẻ đối thoại tuỳ thuộc vào niềm tin của mỗi cuộc đối thoại hiệp thông.
Tin thể hiện qua thái độ:
Nhận và cho, hiểu biết, liên kết, gắn bó.
“Tin Yêu” đáp ứng hai tố chất căn bản nơi con người, tương đương với “Lý và Tình.”
Có thể nói: “Tin và Yêu” vừa là động lực vừa là mục tiêu của thần học mục vụ trong đối
thoại hiệp thông.[17]
“Tin Yêu” thúc đẩy ta đối thoại và đối thoại để đạt tới “Tin Yêu” hơn.
2.1.5. Động lực thiêng liêng
Còn động lực chính của đối thoại là gì?
Đó là tinh thần Cầu nguyện và Thần Học Đối Thoại Hiệp Thông.
Trước hết là tinh thần Cầu nguyện:
“Thiên Chúa ở trong tất cả.”
Câu chuyện một người học trò hỏi Thầy:
“Thiên Chúa ở đâu?
Thầy đáp:
“Hãy nói cho ta biết ở đâu Thiên Chúa không ở?”
Kinh nghiệm đối thoại của thánh Ignatiô.
Ngài đi trong sự hiện diện của Thiên Chúa, chiêm niệm trong hành động, tất cả trong tình
yêu, đó là hành động hoàn hảo: “Trong Ngài chúng ta sống, di chuyển và hiện hữu”[2].
Câu chuyện thánh Augustinô và Em bé:
“Một hôm thánh Augustinô, ở Ostia, cảng Roman, đi bách bộ trên bãi biển. Đang trầm tư về
mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi thì thấy một đứa trẻ dùng vỏ sò hì hục múc nước biển đổ
vào lỗ Cáy ở bãi cát.
Ngài hỏi:
“Con đang làm gì thế?”
Đứa bé đáp:
“Con muốn tát cạn nước biển vào lỗ Cáy này.”
Thánh nhân hiền hoà đáp:
“Con thấy biển thì bao la vô tận, con không thể tát biển vào trong một cái lỗ Cáy được!”
Đứa trẻ nói ngay:
“Ngài cũng không thể hiểu thấu điều mà Ngài đang suy nghĩ với sự hiểu biết của Ngài.”
Qua đó, chúng ta hiểu “Đối Thoại” mặc dầu là khoa học nghệ thuật, nhưng còn là mầu
nhiệm nữa.
Cần có đời sống nội tâm sâu xa, vì Thiên Chúa chủ động hướng dẫn từng con người.
Thánh Kinh quả quyết, “Mọi người được Thiên Chúa dạy bảo.”
Thứ đến là Thần Học Đối thoại Hiệp Thông.
Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Thiên Chúa là tương quan: Cha, Con, Thánh Thần. Đó là
sứ điệp “Đối Thoại” nơi Mầu Nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa.
Ngoài ra, ngày nay người ta còn đề cập tới Chúa Kitô, mẫu đối thoại hoàn hảo của Thiên
Chúa, với hai bản tính, bản tính Thiên Chúa và bản tính loài người.
Theo M. Aubert:
“Đối thoại đòi phải biết đổi chỗ đứng… là con đường tinh thần mà người tín hữu phải
đi… tìm ra con đường của mình và tìm thấy người khác ở ngay trong nội tâm của
mình.”
2.2.1. Nhận thức
- Ý nghĩa
Hòa giải là giải quyết xung đột, mâu thuẫn, dẫn tới hòa bình.
Hòa giải là ý định của Thiên Chúa. Chúa Kitô là trung gian hòa giải duy nhất giữa Thiên
Chúa và con người. Thánh Phaolô gọi Phúc Âm là Tin Mừng Hòa Giải, Tin Mừng Bình An[3]. Và: “Đấng đã nhờ Đức Kitô mà cho chúng ta được Hòa Giải với Người, và trao cho
chúng tôi chức vụ Hòa Giải...
Vậy nhân danh Đức Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hòa với Thiên Chúa.”[4]
Người Việt Nam trọng tình, nên rất sợ mất lòng. Luôn chủ trương sống hòa thuận:
“Dĩ hòa vi quí”;
“Tương hòa sinh hóa”; “Hòa khí sinh tài.”
- Mục đích
Kiến tạo Bình An và Phát Triển.
Không có hòa giải, không có hòa bình. Hòa giải dẫn tới hòa bình. Không có gì hạnh phúc cao quí, đáng ước ao hơn là được sống Bình An, mọi người hòa thuận thương yêu nhau.[5]
Phát triển là danh từ mới của Hòa Bình.
Có Bình An là có tất cả.
2.2.2. Cương lĩnh hòa giải
- Nguyên tắc
+ Xác định mục đích
Bất cứ cuộc hòa giải nào cũng có mục đích. Nếu hòa giải mà không đạt được mục đích
của mỗi bên thì cuộc hòa giải đó không đạt được kết quả. Do đó trước khi hòa giải, mỗi
bên phải xác định rõ mục đích của mình. Chỉ khi nào biết rõ mục đích của hai bên, thì người hòa giải mới nắm được quyền chủ động đề ra giải pháp trong hòa giải.[6]
+ Tính nguyên tắc.
Tiến hành hòa giải phải căn cứ vào những nguyên tắc nhất định. Hai bên phải tuân thủ sự
ràng buộc của luật pháp, đạo đức xã hội, quy ước và những thông lệ đã hình thành từ lâu đời. Nguyên tắc ảnh hưởng trực tiếp đến mức độ hiệu quả hòa giải.[7]
+ Tính hợp tác.
Hòa giải không phải là để một bên giành thắng lợi, còn bên kia chịu thiệt, mà là sự hợp tác
trong sự nghiệp chung. Hòa giải phải khiến cho hai bên đều cảm thấy mình có lợi, mặc dầu
trong đó một bên phải có một số hy sinh ở vài mặt nào đó. Xét về toàn cục, hai bên đều có
lợi. Cho nên có người gọi hòa giải là thể hiện một cách cụ thể “chủ nghĩa hợp tác có lợi cho mình”.[8]
2.2.3. Nội dung
Trong phần này chúng ta lưu ý tới các điểm sau đây.
Hiểu biết sâu sắc về nguồn gốc xung đột của các bên.
Cho phép các bên hiểu biết về đặc điểm cách xử lý xung đột.
Thay phiên trình bày cách giải quyết xung đột.
Cho biết lợi ích và giá trị của mỗi cách xử lý xung đột.
Ý thức tầm quan trọng chọn phương pháp giải quyết vấn đề xung đột.
Nên điều quan trọng là phải hiểu biết xung đột, vì nó sẽ hướng dẫn chúng ta cách hòa giải.
Xung đột thường chứa đựng ba chiều kích:
Con người, diễn biến và vấn đề.
Mỗi xung đột đều có liên hệ tới mối tương quan và cá tính.
Người ta thường chiến đấu mãnh liệt, rồi dịu dần và lan rộng. Rồi cuối cùng là những lý do
tranh luận.
Bất kỳ giải pháp nào cũng buộc phải nhận thức tất cả ba khía cạnh của xung đột. Ba góc
cạnh xung đột này đòi hỏi kỹ năng của các nhà hòa giải với những lý lẽ riêng.
Trong mỗi hoàn cảnh, đều có những lựa chọn dẫn đến hậu quả tốt nhất.
Nên phải quyết định thế nào về cách xử lý tốt nhất một xung đột.
Người hòa giải phải ra quyết định này.
2.2.4. Hình thức
Xây dựng những bước chuẩn bị.
Bước một, họp sơ bộ. Mục đích để hiểu biết nhau. Bao gồm giới thiệu, mục đích, nguyên
tắc căn bản, sắp đặt chương trình, duyệt xét lý lịch, sự kiện, xem xét nhu cầu quyền lợi
hợp pháp, và soạn thảo hợp đồng chính thức có chữ ký của các bên.
Bước hai, trình bày câu chuyện. Hãy để cho bên bị (nạn nhân) phát biểu trước. Bước ba,
mời hai bên diễn tả về những gì đã xảy ra. Hãy dùng kỹ năng lắng nghe tích cực để hiểu rõ
câu chuyện và cảm nghĩ của cả hai bên. Theo dõi các tình huống và giữ thế trung lập. Hỏi
phản hồi các bên để chắc chắn mọi vấn đề trước khi ký nhận thỏa thuận. Người trung gian
hòa giải điều chỉnh câu chuyện của cả hai phía.
Bước bốn, ký kết thỏa thuận.
Trước hết, hỏi bên nạn nhân về nhu cầu chính đáng.
Tiếp đến hỏi bên phạm nhân nghĩ thế nào về bên nạn nhân muốn. Giúp các bên tiến tới
thỏa thuận và bảo đảm chắc chắn lại từng điểm, từng điều.
Sau đó hai bên ký nhận.
Lưu giữ.
Cám ơn.
Lưu ý:
Ngoài ra cần lưu ý đến các yếu tố: tình huống và các lựa chọn khác; thời gian, quyền lực,
văn hóa, phái tính và tuổi tác.
Hòa giải cá nhân hay hòa giải cộng đồng.
Đặc biệt là nơi hòa giải, phải được cả hai bên đồng ý.
Sau cùng là lựa chọn người hòa giải, trung lập, hiểu biết công tâm và đáng tin cho cả hai
bên.
2.2.5. Đào luyện kỹ năng hòa giải
- Người hòa giải:
+ Người Hòa Giải không thiết yếu phải có trình độ và kinh nghiệm chuyên biệt, nhưng thiết
yếu cần là:
Kỹ năng đối thoại nhạy cảm
Được người khác uỷ quyền
Khả năng đáng tin cậy, biết xử lý xung đột, bản lĩnh và kiểm soát được tiến trình.
Khả năng thiết lập một môi trường đặc biệt.
Khả năng giữ trung lập và không phán đoán.[9]
- Người Hòa Giải phải nắm vững một số luật nền tảng.
Nó giúp điều hành và bảo vệ toàn vẹn tiến trình.
Như: tham gia tình nguyện, tín nhiệm vào tiến trình và thỏa thuận (phi trừ bị các bên khước
từ).
Không gian trung lập.
Quyền các bên họp riêng với người hòa giải hay thành phần thứ ba.
Quyền phát biểu không bị ngắt ngang.
Quyền các bên cảm nghĩ an toàn và tự do khỏi mọi lạm dụng.
Mọi thỏa thuận buộc phải phản ánh quyền lợi và sự nhất trí của hai bên.
Thêm vào đó, phải chú ý quyền phát biểu ưu tiên cho nạn nhân.[10]
+ Người Hòa Giải là người đáng tin.
Họ phải khả tín trong tất cả mọi thông tin mà nó có thể để lộ căn tính của mỗi bên. Chỉ có
thể chia sẻ thông tin đáng tin với những người có trách nhiệm. Không giữ biên bản khả tín
sau vụ việc đã được kết thúc.
- Kết luận
Như chúng ta biết, mục đích của hòa giải là phục hồi, chữa lành nhân phẩm con người.[11]
Nhưng tại sao cần Trung Gian Hòa Giải để hòa giải giữa phạm nhân và nạn nhân? Vì mỗi người phải trả lẽ trước Thiên Chúa.[12]
Khi một điều sai trái không chỉ mang hậu quả cho cá nhân mà còn ảnh hưởng chung tới
toàn xã hội, làm mất trật tự, mất cân bằng, nên gọi là tội xã hội.
Điều này dễ hiểu, khi chúng ta đối chiếu với tội bất tuân Adam - Eva không chỉ là tội của cá
nhân; nhưng ảnh hưởng tới toàn thể nhân loại. Cho nên khi ta xúc phạm tới Thiên Chúa và
tới anh em, ta phải giải quyết vấn đề của “Chúng ta” chứ không còn là của riêng ta nữa.
- Kỹ năng hòa giải
+ Kỹ năng đối thoại
Trong hòa giải, đối thoại là điều quan trọng. Đó là những cuộc trao đổi tư tưởng, cảm nghĩ,
quan điểm hay thông tin bằng lời nói, chữ viết, dấu hiệu, hay cử chỉ.
Trong đó, mỗi người phải cảm thấy sứ điệp của họ được tiếp nhận một cách rõ ràng và
chính xác.
Mỗi bên phải cảm thấy họ có quyền bình đẳng trong đối thoại.
+ Kỹ năng nghe
Lắng nghe người khác nói và nói cho người khác nghe.
Nếu là một người hòa giải, sự lắng nghe của bạn cho phép các bên đối thoại cảm thấy họ được nghe.[13] Bạn có thể khích lệ hai bên trao đổi: “Lắng nghe tích cực.”[14]
Khi chúng ta nói quá nhiều mà nghe quá ít, chúng ta đối thoại hòa giải với người khác điều
mà chúng ta nghĩ rằng ý tưởng của chúng ta quan trọng nhiều hơn là chính họ.
Điều này chúng ta được học biết trong phần đối thoại.
Tránh trở thành quan tòa.
Và khi tức giận đừng bao giờ giúp bất cứ người nào.
+ Kỹ năng hỏi
Khả năng hỏi những câu hỏi thích hợp, xác đáng là một kỹ năng hòa giải bản chất.
Câu hỏi là “cửa sổ khai thông vào tâm linh”.
Có rất nhiều loại câu hỏi để lấy thông tin, phát hiện nhu cầu, mục đích.
Chúng ta có thể dùng sáu câu hỏi thông thường:
“Ai, cái gì, khi nào, ở đâu, tại sao, thế nào.”
Người hòa giải thành thạo, luôn chú ý theo dõi “quá trình tâm lý” của hai bên để kịp thời đặt
câu hỏi khám phá ra sự thật, dẫn hai bên đến kết luận mà hai bên mong chờ.
+ Kỹ năng biết người, biết ta
Trong hòa giải, người ta rất chú trọng tới binh pháp Tôn Tử:
“Biết người biết ta trăm trận trăm thắng.”[15]
Sự kỳ diệu của hòa giải là ở chỗ biết nhu cầu con người.
Tất cả là vì nhu cầu.
Bản chất của hòa giải là thông qua sự trao đổi những lợi ích khác nhau để thỏa mãn nhu
cầu của mình. Nhu cầu của mỗi người rất khác nhau. Trong những thời kỳ khác nhau lại có
những nhu cầu khác nhau.
Người hòa giải cần chú ý tới khả năng hiện thực. Cho nên sách lược hòa giải là ở chỗ làm
rõ nhu cầu của hai bên, rồi lấy đó làm nền tảng tìm kiếm giải pháp lợi ích tối đa.[16]
+ Kỹ năng đáp án vừa lòng
Mưu lợi ích chung là động cơ nhất trí của cả hai bên hòa giải.
Trong hòa giải, phải luôn luôn chú ý nghĩ cách:
“Biến lợi ích khác nhau thành lợi ích chung.”
Điều này khiến người hòa giải tìm phát hiện lợi ích chung, nhu cầu chung, nhấn mạnh việc
hai bên có thể thông qua hòa giải để đi đến chỗ nhất trí.
Kinh nghiệm của những nhà hòa giải bậc thầy:
2.2.6. Động lực thiêng liêng
Theo Kinh Thánh, Thiên Chúa là chủ trái tim con người.
Ngài là Tình Yêu, chủ động yêu thương và dạy bảo từng người.
Vậy động lực chính của hòa giải là gì?
Là Ân Sủng và Tình Yêu.
Các tin khác