Đối Thoại Chính Trị
Như Công đồng Vat. II từng nhắc nhở: “Do bởi phần vụ và thẩm quyền của mình, Giáo Hội hòa mình trong cộng đồng chính trị dưới mọi hình thức và không liên kết với bất cứ một thể chế chính trị nào. Trong tinh thần đối thoại và hợp tác huynh đệ, qua các thành viên của mình, Giáo Hội tha thiết tham gia tốt đẹp vào đời sống quốc gia nhằm phục vụ toàn dân và sự đoàn kết xã hội.”[1]
Thông điệp Đệ Bách Chu Niên xác định: “Những hình thức dân chủ mới hình thành đem lại hy vọng về một sự đổi thay cơ cấu chính trị và xã hội mong manh nặng trĩu với hàng loạt những bất công và bất mãn cũng như với một nền kinh tế tàn phá nặng nề và những cuộc tranh chấp xã hội nghiêm trọng” (CA 22a). Do đó người Công Giáo có trách nhiệm góp phần mình trong môi trường chính trị để xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn, nhưng bằng con đường đối thoại chứ không phải chiến tranh: “Đây là những vấn đề mà những dân tộc này đang phải đối phó chỉ có thể giải quyết được qua sự đối thoại và tinh thần liên đới hơn bằng cuộc chiến đấu để tiêu diệt kẻ thù bằng chiến tranh.” (CA 22b) “Đối thoại và làm chứng cho chân lý, bằng cách kêu gọi lương tri của đối phương và tìm cách khơi dậy nơi họ cảm thức về nhân phẩm con người.” (CA 23)
Đức Gioan Phaolô II khuyên: “Để chu toàn không ngừng sứ mạng yêu thương và phục vụ, Giáo Hội Công Giáo cũng được mời gọi chia sẻ niềm hy vọng của mình bằng đường lối đối thoại, một lối đối thoại phát sinh và triển nở trong cuộc đối thoại cứu độ do tình yêu thương của Chúa Cha đối với nhân loại, nhờ Chúa Con và trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Một lối đối thoại chân thành và xây dựng giữa tất cả các nhân tố của xã hội nhân sự là đường lối duy nhất mang lại niềm hy vọng mới cho toàn dân Việt Nam.”[2]
Sau đây là tham luận về việc xây dựng “Đại Đoàn Kết.”
“Đoàn kết” không chỉ là khẩu hiệu xây dựng đời sống văn hóa, nhưng còn là một trong những qui luật giải thích các hiện tượng văn hóa, qui luật của sự sống còn, của việc xây dựng, phát triển và bảo vệ thành công Tổ Quốc.
Trước hết, “Đoàn Kết” phát xuất từ nền kinh tế nông nghiệp lúa nước, mang tính thời vụ cao. Nên có câu “Đông tay hơn hay làm”. Điều này đã khiến mọi người phải đoàn kết để kịp thu hoặch mùa màng và gieo xạ đúng thời vụ.
Thứ đến, “Đoàn Kết” phát xuất từ môi trường thiên nhiên. Hàng năm, nước ta thường có lũ lụt, mà “lụt thì lút cả làng”. Điều này cũng đã khiến mọi người phải đoàn kết đắp đê, giữ đê, để chống thiên tai.
Sau nữa, “Đoàn Kết” phát xuất từ hoàn cảnh lịch sử. Đất nước ta thường hay có chiến tranh xâm lược, mà “Giặc đến nhà đàn bà cũng phải đánh.” Nên mọi người phải đoàn kết chống và đưổi giặc.
Tóm lại, “Đoàn Kết” phát xuất từ môi trường kinh tế, thiên nhiên và lịch sử. Thế nên, “Đoàn Kết” không chỉ là khẩu hiệu văn hóa mà là qui luật sinh tồn và phát triển của Dân Tộc: “Đoàn kết thì sống; đại đoàn kết, đại thành công.”
“Đoàn Kết” là bản chất của Dân Tộc Việt Nam.
Tuy nhiên, nói đến đoàn kết là đã cảnh giác sự mất đoàn kết. Lịch sử chỉ ra rằng: “Dân tộc Việt Nam rất đoàn kết trong thời loạn và lúc thiên tai, nhưng lại xem ra có cẻ lơ là trong thời bình và lúc không có nguy cơ lũ lụt đe dọa.
Truyền thuyết “Lạc Long Quân và Âu Cơ” mà ai cũng nghĩ là nói về Dân Tộc Việt Nam. Truyền thuyết nói lên sự đoàn kết là từ bản chất, nhưng cũng đồng thời bộc lộ sự chia lìa. Vì thế, Dân Tộc Việt Nam muốn sống còn và phát triển thịnh vượng, nên cảnh giác nguy cơ chia rẽ và nỗ lực bảo vệ sự đoành kết như con ngươi trong mắt mình.
Tôi tự so sánh: “Đoàn Kết” là các phím “Nhấn”, “Phát Triển” là bản nhạc hòa âm. Nhấn vào các phím “Đoàn Kết”, cũng giống như nhạc công nhấn vào phím đàn. Tất yếu sẽ cất lên bản Hoà Tấu “Đại Hùng Ca Phát Triển.” Tôi còn ví “Đoàn Kết” như điểm “Đột Phá” cho toàn Dân Tộc tiến lên.
Từ nhận thức trên đây và theo mục tiêu của tôn giáo là giáo dục sự “Đoàn Kết”, tôi xin trân trọng đóng góp một số ý vào công trình xây dựng khối Đại Đoàn Kết Toàn Dân Tộc. Trước hết, động viên mọi Dân Tộc nâng cao trình độ hiểu biết lên. Phát động phong trào cả Nước là trường, toàn dân là học sinh. Học suốt đời. Bảy mươi học bảy mươi mốt, học kinh nghiệm. Thực sự khuyến học, vì mục đích chính của việc học là tu luyện, để giúp phân biệt Thiện Ác. Nhờ đó mọi người có ý thức trách nhiệm xây dựng đoàn kết, đúng như câu nói: “Càng lên cao càng tụ lại.” Càng hiểu biết cao, càng dễ giúp cho Dân Tộc Việt Nam qui tụ lại.
Thứ đến là chú ý nâng cao Đạo Đức lên. Dân Tộc chúng ta là Dân Tộc trọng Đức: “Đức thắng Tài”; và: “Tài tán đức tụ.” Càng đạo đức càng trở nên thánh thiện. Lịch sử chứng minh rằng: “Không vị thánh nào mà lại không thương xót Chúng Sinh và không dấn thân cứu nhân độ thế.” Cái nhìn của thánh nhân là: “Tứ hải giai huynh đệ.” Bốn biển là anh em. Cùng nhau xây dựng một xã hội tốt đẹp, phồn vinh, để mọi người sống bình an, hạnh phúc và hạnh phúc vững bền. Thế nên càng đạt đức Thánh Hiền càng dễ qui tụ Dân Tộc mình.
Sau cùng là đào luyện anh hùng. Anh hùng là người cứu độ. Dân tộc Việt Nam theo truyền thống rất trọng anh tài và anh hùng. Anh tài là nguyên khí dựng Nước. Nhiều vị anh hùng có công với Đất Nước, khi chết đã được phong lên hàng Thần Thánh.
Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, Dân tộc ta chỉ đoàn kết khi có anh tài và anh hùng xuất hiện. Nắm được mấu chốt này, chúng ta thực sự “Khuyến Tài” trong mọi lãnh vực để qui tụ Dân Tộc mình.
Đoàn kết là lẽ sống, là qui luật xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ Quốc hữu hiệu. Phải đoàn kết bằng mọi giá và bằng mọi phương thế. Kinh nghiệm toàn diện lịch sử cho thấy: “Tri thức, đạo đức và anh hùng” là ba phương thế hữu hiệu và vững bền nhất, vì Dân Tộc Việt Nam trọng Đức, trọng Văn hơn trọng võ. Thực hiện được vậy, Dân Tộc hạnh phúc trường tồn.
Kết luận. Đối thoại là một trong những phương thế mục vụ hữu hiệu thời nay. Cần xây dựng một cương lĩnh đối thoại. Rồi chú tâm đào luyện kỹ năng đối thoại hiệp thông. Sau đó cũng nên học biết thêm về văn hóa và nghệ thuật ngôn từ. Cuối cùng được nung đúc bởi Thần học mục vụ đối thoại hiệp thông: “Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi và Ngôi Lời Nhập Thể.” Hy vọng sẽ góp phần dẫn con người vào Chân Thiện Mỹ, Vinh Quang Thiên Chúa ngay đời này.
Lm. Gioankim Nguyễn Văn Hinh (D.Min.)
Các tin khác