ĐÀO LUYỆN TRUYỀN GIÁO
CON ĐƯỜNG TRUYỀN GIÁO THỜI NAY
ĐỐI THOẠI VÀ HÒA GIẢI
QUA ÁNH SÁNG ĐỨC TIN
TRONG MÔI TRƯỜNG VĂN HÓA VIỆT NAM
ĐỐI THOẠI
Dẫn nhập
Đào luyện linh đạo. Đào luyện mục vụ. Đổi mới cơ chế. Và đào luyện chuyên biệt. Tất cả đều dẫn tới việc loan báo tin mừng. Thực vậy, bản chất của Giáo Hội là truyền giáo. Và việc truyền giáo là bổn phận chính yếu của Giáo Hội.
Ánh sáng muôn dân chính là Chúa Kitô phản chiếu trên dung nhan Giáo Hội, bằng việc rao truyền Phúc Âm cho mọi tạo vật[1]. Vì Giáo Hội ở trong Chúa Kitô như bí tích hoặc dấu chỉ và khí cụ của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và của sự hiệp nhất toàn thể nhân loại. Nên Giáo Hội muốn làm sáng tỏ bản tính và sứ mệnh phổ quát của mình cho tín hữu và toàn thế giới[2].
Vì hằng quan tâm làm vinh danh Thiên Chúa, và cứu rỗi tất cả mọi người. Và hằng nhớ lời Chúa truyền: “Hãy rao giảng Phúc Âm cho mọi tạo vật”[3]. Nên Giáo Hội tận tâm lo lắng và cổ võ việc truyền giáo. Như Chúa Cha sai Người thế nào, Chúa Con cũng sai các Tông Ðồ như vậy.
Người phán: “Vậy các con hãy đi dạy dỗ muôn dân, thanh tẩy họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, hãy dạy dỗ họ vâng giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con. Và đây Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Lệnh ấy, lệnh mà Chúa Kitô long trọng truyền rao giảng chân lý cứu rỗi, Giáo Hội đã nhận lãnh từ các Tông Ðồ để rao truyền cho toàn khắp cõi đất.
Vì thế, Giáo Hội xem lời sau đây của Thánh Tông Ðồ như lời của mình: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Phúc Âm”[4]. Nhưng bằng cách thức nào, Giáo Hội sẽ phải dùng để rao truyền, trong thời đại hôm nay?
Trước Công Đồng Vat.II, Giáo Hội ít nhấn mạnh tới đối thoại mà tập trung vào việc dậy dỗ, như Thông Điệp “Mẹ và Thầy” của Chân Phước Giáo Hoàng Gioan XXIII. Và vì thế Giáo Hội quan tâm tới việc giáo huấn hơn là lắng nghe, đối thoại. Mãi đến Công Đồng Vat. II thì Giáo Hội mới chính thức đối thoại với những người khác mình.
Hơn nữa, qua kinh nghiệm lịch sử cho thấy, hòa bình và tôn giáo có tương quan mật thiết với nhau. Trong cuộc hội thảo về đề tài “Các tôn giáo trên địa cầu và nhân quyền” được tổ chức tại Paris, do UNESCO và Viện Văn Hóa Đức tổ chức, vào tháng hai năm 1989, giáo sư Hans Kung phát biểu: “Không thể có hòa bình giữa các dân tộc trên địa cầu, nếu không có hòa bình giữa các tôn giáo”. Còn Đức cố Giáo Hoàng Phaolô VI khẳng định: “Không có hòa giải, không có hòa bình, hòa giải dẫn tới hòa bình”.
Do đó, đối thoại là con đường hòa giải, là nghĩa vụ, và là cách thức truyền giáo của Giáo Hội hiện nay. Đối thoại và hòa giải, là hai vấn đề đặc biệt và tối quan trọng, có liên quan tới mục vụ truyền giáo thời đại ngày nay. Chúng ta sẽ đề cập tới, dưới ánh sáng đức tin, nơi môi trường văn hóa Việt Nam trong một số lãnh vực thực tiễn.
Vaticanô II được coi là Công Ðồng đầu tiên đã biết sử dụng sự tự do như một đề mục để dạy dỗ và lấy tinh thần đối thoại với người ngoài làm chương trình. Giáo Hội cố gắng thoát ra khỏi “pháo đài”; khỏi “chủ trương khép kín huy hoàng” của mình, để đối thoại và thông cảm với anh em Kitô hữu, với các tôn giáo khác và ngay với anh em vô thần.
Giáo Hội nhìn nhận và kính trọng những giá trị, những nền văn hóa khác nhau cũng như các hệ thống chính trị khác nhau của thế giới[5]. Cụ thể lần lượt qua các văn kiện “Ánh Sáng Muôn Dân và Phát Triển Các Dân Tộc”; rồi “Đệ Bách Chu Niên”; hay “Thời Đại Chúng Ta”; đặc biệt là văn kiện “Đối Thoại và Rao Truyền” của Hội Đồng Giáo Hoàng về đối thoại liên tôn. Văn kiện này nêu lên bốn hình thức dối thoại: Đối thoại bằng đời sống, bằng hành động, bằng chia sẻ kinh nghiệm tâm linh, bằng trao đổi thần học.
Trong đó đã ba hình thức chứng nhân đời sống, chỉ có một hình thức bằng ngôn từ. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II khẳng định: “Thế giới cần trên hết là chứng nhân khả tín”[6]. Nhưng trước hết, chúng ta cần hiểu về đối thoại.
Lm. Gioankim Nguyễn Văn Hinh (D. Min.)
[1] Mc 16,15.
[2] Công Đồng Vat.II, Ánh Sáng Muôn Dân”, 1.
[3] Mc 16,15
[4] Công Đồng Vat.II, Truyền Giáo, 16-17.
[5] Công Đồng Vat.II, “Lời giới thiệu tổng quát”, 45-46.
[6] Gioan Phaolô II, Ngày Thanh Niên Thế Giới, 1991.
Các tin khác