Thứ năm, ngày 02 tháng 05 năm 2024 | 06:54 AM - Giới thiệu | Ý nghĩa logo
Truyền thông

HỘI THẢO THẦN HỌC - ĐỀ TÀI 3: LOAN BÁO TIN MỪNG CÁCH MỚI MẺ DƯỚI GÓC ĐỘ GIÁO HỘI NHƯ LÀ THÂN MÌNH ĐỨC KITIÔ [TÂN PHÚC ÂM HOÁ] (22/04/12, 10:19 am)

 

 

Dẫn Nhập

Như chúng ta đã biết, Thượng Hội Đồng Giám Mục lần thứ XIII, được Đức Bênêđictô XVI triệu tập, sẽ diễn ra tại Roma vào tháng 10, năm 2012 với chủ đề: “Tân Phúc âm hóa để thông truyền Đức Tin Kitô giáo” (Nova evangelizatio ad christianam fidem tradendam). Và chúng ta cũng biết rằng, trước đó, Đức Gioan Phaolô II đã giải thích trong những dịp viếng thăm mục vụ ở nhiều nơi trên thế giới, theo đó chúng ta đi đến một nhận định: Tân Phúc Âm hoá không phải là tìm kiếm hay giới thiệu một Phúc Âm mới, nhưng chính là nỗ lực loan báo Tin Mừng với cách diễn đạt mới, phương pháp mới, phong cách mới, cường độ mới, nhiệt huyết mới hay khí thế mới trước những thách đố mới của tâm thức và văn hóa thời đại.

 

Để tiếp tục buổi thảo luận hôm nay, đề tài được trình bày sau đây như là một cố gắng minh định phần nào điều muốn nói khi suy nghĩ về “Loan Báo Tin Mừng cách mới mẻ dưới góc độ Giáo Hội là Thân Mình Đức Kitô”. Đặt vấn đề như thế, bởi vì Giáo Hội vừa là “người rao giảng” vừa là “kết quả” của việc rao giảng, như các thuyết trình viên khác đã trình bày.[1] Và thiết nghĩ, theo hướng nhìn của Thượng Hội Đồng Giám Mục trong bản Đề Cương (Lineamenta), khi tìm kiếm phương pháp mới, thực sự đó chính là lúc chúng ta phản tỉnh về căn tính, tìm lại lý do về sự hiện hữu của mình, cũng như tìm ra cách thức mới để sống đức tin, để làm người Kitô hữu, để là Giáo Hội. Vatican II đã khẳng định: “Giáo Hội tự bản chất là truyền giáo”. Vậy Giáo Hội rao giảng Tin Mừng, nên Giáo Hội hiện hữu. Giáo Hội hiện diện giữa lòng thế giới là để “làm chứng cho ký ức sống động về Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô”.[2]

 

Như thế, chúng ta có thể khởi đầu bằng việc trở về với khái niệm truyền thống: “Giáo Hội là Thân Mình Đức Kitô”, mà chính Thánh Phaolô đề xướng (Ep 4:12; 5:23; 1 Cr 10:17; 12:27; Rm 12:15; Cl 1:24). Trở về với truyền thống, chúng ta thấy rằng Giáo Hội sơ khai đã tìm cách định nghĩa chính mình tiên vàn như một mầu nhiệm tương thuộc, đó là Thân Mình duy nhất của Đức Giêsu Kitô. Thân Mình này bao gồm tất cả những người có cùng một đức tin, nhận lãnh cùng một phép rửa, cùng được dự phần vào một thực tại Thánh Thể, và sinh động bởi một Thần Khí (1 Cr 10:16-17; 12:13; Ep 1:23). Giáo Hội sống bằng chính sự sống của Đức Kitô, vì Người là “Đầu” của toàn thân (Cl 1:15-18) và yêu thương toàn thân như bạn trăm năm (Ep 5:25-28). Do đó, chúng ta sẽ triển khai thành ngữ “Giáo HộiThân Mình Đức Kitô” trong bối cảnh của mầu nhiệm hiệp thông, mầu nhiệm vượt qua của Đức Kitô và niềm hy vọng cánh chung của Giáo Hội. Sau đó, chúng ta cùng trao đổi về những phương thức mới, phong thái mới: làm thế nào để có thể loan báo Tin Mừng hữu hiệu hơn, khả tín hơn và đáp ứng được những nhu cầu hay yêu sách đặc biệt của thế giới hôm nay?

 

1. GIÁO HỘI: THÂN MÌNH ĐỨC KITÔ và SỨ VỤ LOAN BÁO TIN MỪNG

 

Khi Thánh Phaolô định nghĩa Giáo Hội là Thân Mình Đức Kitô, trước hết là để nhận thức rằng: “như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Ki-tô cũng vậy … tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa (được tái sinh)trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể ” (1 Cr 12:12-13). Có thể nói, đây là một định nghĩa rất “năng động” và “trung thực”, một định nghĩa như muốn tôn trọng toàn vẹn chân tính Giáo Hội, bởi vì nhắm đến Giáo Hội như một thực tại quy tụ các Kitô hữu hiệp thông với Đức Kitô và với nhau trong một Thân Mình. Hơn nữa, khái niệm “Thân Mình Đức Kitô” không chỉ nói đến một cộng đồng các tín hữu địa phương, mà còn ám chỉ cả Giáo Hội phổ quát. Thật vậy, được thiết lập trong Máu Giáo Ước mới và vĩnh cửu của Đức Kitô, Giáo Hội được tràn đầy Thần Khí yêu thương của Người, để trở nên hiện thân của chính Người trong thế giới lịch sử, như bí tích cứu độ, dấu chỉ loan báo Tin Mừng “hiệp nhất giữa Thiên Chúa với con người cũng như giữa con người với nhau.”[3] 

 

Một Cộng Đồng Hiệp Thông loan báo Tin Mừng Hiệp Thông

 

Như thế, Giáo Hội là một Cộng Đồng hiệp thông, là công trình của Thiên Chúa để loan báo Tin Mừng hiệp thông. Trong nhiều hàm ý khác nhau mà thuật ngữ “hiệp thông” (koinonia) được sử dụng cho phù hợp với từng bối cảnh khác biệt của Tân Ước, ở đây chúng ta tập trung vào cách thức mà theo đó nói đến hiệp thông là nói đến trọng tâm căn tính, bản chất cũng như đời sống và sứ vụ rao giảng của Giáo Hội. Phát sinh từ mầu nhiệm “Hiệp thông Ba Ngôi”, Giáo Hội là một phản ảnh, một bằng chứng của mầu nhiệm hiệp thông tuyệt đối giữa Ba Ngôi Thiên Chúa. NhưLumen Gentium diễn đạt: “Giáo Hội phổ quát xuất hiện như một dân tộc được quy tụ do sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”.[4] Vì thế, Giáo Hội có nguồn gốc từ trời cao, từ sứ mệnh của Ba Ngôi, là sáng kiến của Thiên Chúa. Chính từ trời mà Con Thiên Chúa đã nhập thể, “hoàn toàn trút bỏ vinh quang”, mặc lấy thân phận con người, “sống như người trần thế” (Pl 2:6-7), và tuôn đổ Thần Khí của Người vào lòng các tín hữu. Thần Khí ấy đã đi vào thế giới lịch sử, linh hoạt, làm cho nhân loại thuộc mọi chủng tộc và dân nước, mọi văn hóa, giai cấp và thời đại trở thành những chi thể của một Thân Mình, đến độ tất cả có thể gọi Thiên Chúa: “Abba, lạy Cha” (Rm 8,15 ; Gl 4,6). 

 

Hơn nữa, như Thân Mình hiệp thông với Đức Kitô và với nhau trong cùng một Thần Khí, Giáo Hội là cộng đồng hiệp nhất trong đa dạng. Hiệp nhất, vì chính Đức Kitô là Đấng đã phá đổ mọi bức tường ngăn cách giữa con người (Ep 2,14). Người là Đấng đã chết để quy tụ tất cả con cái Thiên Chúa về gắn bó với nhau trong một tương quan hoàn toàn mới (Ga 11,52 ; 17, 20 ). Tương quan đó bắt nguồn từ nguyên lý nội tại: “Chỉ có một Thân Mình, một Thần Khí…một Chúa, một đức tin” (Ep 4:1-6). Thế nên, hiệp nhất là đặc tính cấu tạo nên yếu tính của Giáo Hội, một Cộng Đồng được khuôn đúc theo hình ảnh Đức Kitô, “nhờ Người, với Người và trong Người” mà Thần Khí tràn lan trên các tín hữu. Không có hiệp nhất, phải chăng cũng chẳng có một Giáo Hội như ý muốn của Đức Kitô, vì hiệp nhất nằm trong chính định nghĩa về Giáo Hội. Thánh Phaolô, trong bối cảnh Hy Lễ Tạ Ơn, cũng đã tóm lược giáo lý đó:“Chỉ có một Tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Tấm Bánh ấy, nên tuy nhiều người chúng ta chỉ là một thân thể” (1 Cr 10:17). Và đây là điều kiện để Giáo Hội cùng sống, cùng rao giảng bằng sự sống, bằng sức mạnh duy nhất của Thần Khí, vì Người là “Linh Hồn” của Giáo Hội, là nền tảng để có chung cùng một đức tin, một đức ái và một niềm hy vọng .[5] “Quả thật, bằng việc truyền thông Thần Khí của Người, Đức Giêsu đã thiết lập anh em Người, được triệu tập từ muôn dân, thành thân thể của Người cách mầu nhiệm”.[6]

 

Và nếu hiệp nhất là trạng thái kết hợp mật thiết và hài hòa với nhau, trở nên một trong nhau như huyền nhiệm sâu thẳm của tình yêu, thì đa dạng là chiều kích khai phóng sáng tạo của tình hiệp nhất. Như Vatican II khẳng định: “Giáo Hội do Chúa thiết lập được tổ chức và điều khiển theo nhiều lề lối khác biệt kỳ diệu”.[7] Trong ý nghĩa đó, thì đa dạng không phải là mâu thuẫn với đặc tính duy nhất của một Thân Mình, nhưng trái lại, xác minh tính chất phổ quát của một Giáo Hội trọn vẹn không phân chia, một Giáo Hội công giáo theo nguyên ngữ. Nếu có khác nhau, đó là sự khác biệt trong các nhiệm vụ, công tác, chức năng hay đoàn sủng: “Mỗi người chúng ta đã nhận được ân sủng tuỳ theo mức độ Đức Ki-tô ban cho… Và chính Người đã ban ơn cho kẻ này làm Tông Đồ, người nọ làm ngôn sứ, kẻ khác làm người loan báo Tin Mừng, kẻ khác nữa làm người coi sóc và dạy dỗ” (Ep 4:7, 11). Vì thế, đa dạng không phải là hạn chế, nhưng đúng hơn là phương thế thiết yếu làm sáng tỏ sự hiệp nhất của một cộng đồng tham gia, đồng trách nhiệm, cộng sinh, cộng tác và cộng sự: “nhờ đódân thánh được chuẩn bị để làm công việc phục vụ, là xây dựng thân thể Đức Ki-tô, cho đến khi tất cả chúng ta đạt tới sự hiệp nhất trong đức tin và trong sự nhận biết Con Thiên Chúa, tới tình trạng con người trưởng thành, tới tầm vóc viên mãn của Đức Kitô” (Ep 4:12-13). Chính ở đây mà tính đa dạng cũng nói lên sự phong phú vô hạn của Thần Khí, Đấng ban phát muôn vàn ân huệ khác nhau theo nhu cầu của các thừa tác vụ, ngõ hầu làm cho Giáo Hội được tăng trưởng: “Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung” (1 Cr 12: 6-7; Rm 12:3; Gl 3:27-28).  

 

Một khía cạnh khác khiến chúng ta nói tới hiệp nhất trong đa dạng, đó là chiều kích “nhập thể” của Giáo Hội vào trong những môi trường, trong đó có những tình huống sống khác biệt về phương diện xã hội, văn hóa, chủng tộc, kinh tế, chính trị giữa các chi thể. Với tư cách là Thân Mình Đức Kitô, để tiếp nối sứ mạng của Người là phục vụ con người và thế giới, Giáo Hội “đến với muôn dân”, “sống giữa muôn dân”, hội nhập, mặc lấy những sắc thái khác nhau trong lối suy tư và hiện hữu liên quan đến cách thức Giáo Hội thể hiện chính mình và cuộc sống cộng đoàn của mình trong việc rao giảng Tin Mừng, trong mọi sinh hoạt mục vụ và cử hành phụng vụ, đồng thời cũng vì thế mà làm nổi bật bản sắc hay những gía trị cá biệt của từng địa phương, từng dân tộc của mọi nền văn hóa nhân loại. Tuy nhiên, phải nói rằng, dù có đa dạng hay khác biệt đến đâu đi nữa, thì tất cả, như Vatican II quảng diễn,“đều làm chứng cho sự hiệp nhất kỳ diệu của Thân Mình Đức Kitô; thực vậy, chính sự khác biệt về ân huệ, tác vụ và hoạt động lại là mối dây kết hợp con cái Thiên Chúa làm một, vì mọi sự đều là công trình của cùng một Thánh Thần duy nhất”.[8] Chính Thánh Thần thôi thúc và dẫn đưa Giáo Hội vào trong tình hiệp thông, vào công tác phục vụ. “Ngườihuấn luyện và dẫn dắt Giáo Hội bằng muôn ơn lành theo phẩm chức và đặcsủng, trang điểm Giáo Hội bằng hoa quả của Người”(Ep 4,11-12; 1Cor 12,4; Gal 5,22). Sự duy nhất và tính đa dạng trong Giáo Hội cũng như sự hiệp thông và cơ chế thừa tác đều bắt nguồn từ đó.

 

Suy tư hay gợi lại những khía cạnh căn bản về Giáo Hội là Thân Mình Đức Kitô như thế, chúng ta thấy rằng chỉ có thể tiếp nối sứ mạng của Đức Kitô trong sự hiệp thông với Giáo Hội, bằng cách loan báo tất cả Tin Mừng về một con người “toàn diện” như một huyền nhiệm duy nhất, vì Đức Kitô và Giáo Hội là “Đức Kitô toàn thể” (Totus Christus).[9] Giáo Hội là một với Đức Kitô. Giáo Hội làm chứng về một vận mạng chung, về một tình yêu hiệp thông hữu hiệu giữa mọi chi thể, như thế nói lên bản chất của Kitô giáo, làm cho Tin Mừng thực sự hiện diện trong thế giới. Sự hiệp thông giữa các thành phần của Giáo Hội với nhau và với Đức Kitô là dấu chỉ cho con người nhận ra được sự hiệp nhất giữa Người với Chúa Cha và Thần Khí. Và đó cũng là lý do tại sao vấn đề hiệp nhất giữa những người cùng niềm tin vào Đức Kitô lại là một trong những thách đố hàng đầu của công cuộc loan báo Tin Mừng. Đúng theo kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa thì Giáo Hội nhất thiết là bí tích hiệp thông, dấu chỉ và khí cụ hiệp nhất giữa con người, để rao giảng Tin Mừng hiệp thông, vượt qua mọi chia rẽ trong nhân loại.[10] Giáo Hội chỉ duy nhất, thánh thiện trong Thân Mình duy nhất của Đức Kitô, trong Thần Khí duy nhất của Thiên Chúa, và chỉ tông truyền khi trung thành với mệnh lệnh:“Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16:15).

 

Thế nên, khi sự hiệp thông nơi Thân Mình Đức Kitô bị đổ vỡ, nhất là trong bối cảnh hôm nay của nhân loại, thì sứ vụ rao giảng trở thành một vấn nạn hơn là sứ điệp có sức mạnh khai mở dẫn tới niềm tin. Điều đó có ảnh hưởng quyết định đến tính khả tín của Giáo Hội là chủ thể loan báo: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ của Thầy… là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13:35). Vì vậy, tất cả nỗ lực truyền bá Phúc Âm, trước hết đòi hỏi Giáo Hội chú tâm tới ý nghĩa hiệp thông cũng như ý thức sâu xa về sự hiệp nhất giữa các chi thể trong một Thân Mình. Đặc biệt, hơn bao giờ hết, có thể nói chính xác, như Đức Gioan Phaolô II:“làm thế nào để Giáo Hội trở thành trường dạy hiệp thông và ngôi nhà cho hiệp thông cư ngụ” với tất cả hàm ý có liên quan đến mọi khía cạnh của đời sống Kitô, ngay cả việc cải cách về cơ chế.[11] Đó là cũng là điều mà Vatican II muốn minh định ngay trong đoạn mở đầu của Hiến Chế về Giáo Hội: “Trong Đức Kitô, Giáo Hội một cách nào đó, là bí tích, nghĩa là dấu chỉ và phương tiện kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và hiệp nhất với mọi người … Nhân loại mà ngày nay đã liên kết với nhau hơn nhờ những liên hệ xã hội, kỹ thuật và văn hóa, cũng cần phải thực hiện sự hiệp nhất trọn vẹn trong Đức Kitô”.[12]

 

Thực tế lịch sử đã cho thấy Giáo Hội luôn đổi mới chính mình cũng như canh tân phương thức để cho sứ vụ loan báo Tin Mừng không bao giờ bị gián đoạn. Nếu bản chất của Giáo hội là hiệp thông, thì có thể nói, hiệp thông tự bản chất là truyền giáo, là truyền bá Phúc Âm. Như tất cả sứ vụ của Đức Kitô là hiến dâng mạng sống mình để chúng ta được nên một. Có thể nói như một tác giả hiện đại: “Điều rõ ràng là chỉ khi nào dân Thiên Chúa tự quy tụ lại với nhau thành một và đồng tâm nhất trí với nhau, lúc đó mới có thể thuyết phục được thế giới”.[13]Và như thế, Giáo Hội chỉ thực sự là một Thân Mình, khi Giáo Hội xác tín rằng mình đang được sai đi, tiếp nối Đức Giêsu Kitô đến với mọi người để xây dựng tình hiệp thông. Vì chưng “điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa, để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi” (1Ga 1:3). Giáo Hội là dấu chỉ, là khí cụ, là người loan báo sự hiệp thông và qua hiệp thông diễn tả sự duy nhất của đức tin, để thế giới có thể tin (Ga 17: 21). Do đó, Giáo Hội không chỉ nói về Đức Kitô, mà còn “chỉ cho thấy” Người nữa (Ga 12:21). Chính nhờ vậy, Giáo Hội trở thành một địa điểm hội ngộ, hay một “Sân Chư dân” hiện đại theo kiểu nói của Đức Bênêđictô XVI, một không gian cho mọi người “muốn xem” và được mời gọi “đến mà xem”, đến để nhận biết và gặp gỡ Đức Kitô, để hoà hợp với Thân Mình của Người, đón nhận tình yêu và ơn cứu độ hiệp nhất của Thiên Chúa.

 

Một Cộng Đồng Vượt Qua loan báo Tin Mừng Phục Sinh

Mặt khác, với tư cách là Thân Mình Đức Kitô, Giáo Hội tưởng niệm và cử hành trong lịch sử Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người. Chính trong “ký ức sống động”(Anamnesis) này mà cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Kitô, như một biến cố cứu độ độc nhất và vĩnh viễn, trở thành “đồng thời” với cộng đồng cử hành. Như thế, Giáo Hội “đảm nhận các mầu nhiệm của cuộc đời Người, hiệp thông với những đau khổ của Người như thân thể hiệp thông với Đầu, cùng chịu đau khổ với Người, để cùng được tôn vinh với Người”.[14] Như trong Kinh Nguyện Tạ Ơn: “Xin thương cho tất cả những ai cùng chia sẻ một tấm bánh và một chén rượu này, được Chúa Thánh Thần liên kết thành một thân thể, và trở nên hy lễ sống động trong Đức Ki-tô để ca tụng Cha vinh hiển”.[15]Thật vậy, trong ý nghĩa “dâng lên” (Anaphora) của mọi lời Chúc Tụng, Giáo Hội được mời gọi dự phần vào số phận cũng như chia sẻ sứ mạng cứu thế của Đức Kitô. Vì Người “đứng hàng đầu trong mọi sự” (Cl 1:18), là Đấng Vượt Qua và Giáo Hội là các chi thể, nên hiện hữu của Giáo Hội cũng là một hiện hữu “Vượt Qua”, tham dự vào hành trình vượt qua từ sự chết đến sự sống. Là “Đầu” của toàn Thân Mình, Đức Kitô trở thành nguyên lý và là chuẩn mẫu tối hậu cho tất cả đời sống và sứ vụ của Giáo Hội. Vì thế, sự hiệp thông với Đức Kitô làm sáng tỏ hai chiều kích của bổn phận truyền bá Phúc Âm: đó là rao giảng dưới bóng Thập Giá và loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Sống đức tin và thông truyền đức tin trở nên một kinh nghiệm duy nhất. Rao giảng Tin Mừng đồng nghĩa với loan báo Đức Kitô chịu đóng đinh và Phục Sinh “cho tới ngày Người lại đến” (1 Cr 11:26).

 

Trước hết, là Thân Mình của Đức Kitô tử nạn, Giáo Hội là một cộng đồng được sinh ra dưới chân Thập Giá, đi theo Thập Giá và rao giảng về Thập Giá (1 Cr 1:18). Thật vậy, qua trình thuật của Tin Mừng, chúng ta nhận ra tất cả cuộc đời của Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người, đều quy hướng về Thập Giá. Vatican II đã mượn quan điểm của Augustinô để khẳng định: “Chính từ cạnh sườn của Đức Kitô yên nghỉ trên Thập Giá, đã phát sinh ra bí tích huyền diệu là Giáo Hội toàn thể”.[16] Trong Đức Kitô bị đóng đinh mà Thiên Chúa hoàn tất “kế hoạch yêu thương đã định từ trước”, đó là “qui tụ muôn loài trong trời đất” (Ep 1:9-10). Có thể nói, đây là một trong những khía cạnh nghịch lý, nhưng độc sáng nhất của mạc khải Kitô giáo mà dường như không ai dám chờ đợi, thậm chí không  thấy trong quan niệm của các tôn giáo. Như thế, Thiên Chúa của người Kitô hữu đã tự khải, tự tỏ hiện cách mãnh liệt, sâu thẳm và trọn vẹn nhất ngay trong những yếu đuối, khổ đau và cái chết, nghĩa là dưới những hình thái hoàn toàn xa lạ, ngay cả “đối nghịch” với những gì là thần linh siêu phàm (1 Cr 1:18-25). Tư tưởng của Thập Giá vốn là “điên rồ” và “ô nhục” dưới những con mắt trần gian, ngay cả đối với những cố gắng “hợp lý hoá” thập giá của con người trong lịch sử. Nhưng đó lại là “khôn ngoan” của Thiên Chúa (1 Cr 2:6-16; 14:18). Như chính Phaolô đã cảm nghiệm:“Thưa anh em, khi tôi đến với anh em, tôi đã không dùng lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu mà loan báo mầu nhiệm của Thiên Chúa. Vì hồi còn ở giữa anh em, tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giê-su Ki-tô, mà là Đức Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh vào thập giá” (1 Cr 2:1-2).

 

Trong ý nghĩa đó, nỗ lực loan báo Tin Mừng của Giáo Hội chắc hẳn không phải là công trình của những tâm trạng đắc thắng, hãnh tiến, chinh phục hay chiêu dụ tín đồ, nhưng là làm cho Phúc Âm về sự đau khổ của Thiên Chúa được sống động và hiện diện trong thế giới cách mới mẻ. Nơi nào Cộng Đồng tín hữu biết kết hợp chính mình “với cuộc Vượt Qua của Đức Kitô”, và trở nên giống như Người trong mọi nỗi gian truân, thiếu thốn, bị bách hại mà vẫn kiên vững trong niềm tin, nơi đó Tin Mừng sẽ được chiếu toả như hương thơm ngào ngạt (Ep 5:2), vì “Đấng Cứu Chuộc chúng ta đã tỏ cho thấy, Người cùng với Hội Thánh mà Người đảm nhận, là một người duy nhất” (Gl/ 795).[17] Hơn nữa, trong Mầu Nhiệm Vượt Qua, lịch sử của những nỗi khổ đau của nhân loại cũng là lịch sử của Đấng Vượt Qua. Người hiện diện với con người trong các khổ đau ấy, để vượt qua mọi đau khổ và giúp con người khám phá ra giá trị cao cả của các đau khổ được hiến dâng trong tình yêu. Chỉ có tình yêu mới đem lại ý nghĩa và hướng đi cho đau khổ. Phải chăng bỏ qua Thập Giá là đánh mất bản chất của Kitô giáo.[18] Thập Giá trở thành Tin Mừng về sự đau khổ của Đấng đã yêu thương con người “như thế đó” (Ga 3:16) vì đã gánh lấy mọi khổ đau và biến khổ đau thành của mình.

 

Thứ đến, Giáo Hội rao giảng Phúc Âm dưới bóng Thập Giá còn có nghĩa là một cộng đồng nghèo khó lắng nghe tiếng kêu cứu của người nghèo khổ, những ai bị bỏ rơi và cô thân cô thế của thế giới như “tiếng kêu của Thiên Chúa”. Đó là một cộng đồng làm trổ sinh hoa trái nhờ bổ khuyết “trong thân xác mình những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu” (Cl 1:24), và như thế có khả năng làm cho những người khôn ngoan, quyền thế trần gian phải bẽ mặt. Như Đức Kitô chịu đóng đinh, Giáo Hội đi tới tận cùng sự nghịch lý của cuộc đời và không ngần ngại đồng hóa mình với tất cả những ai vô tội bị trao nộp cách bất công, bị đóng đinh trong lịch sử (Mt 25:35-40; Cv 9:4). Không một tình huống nào, nhất là trong đó có sự tha hoá vì lầm than nghèo đói, bị áp bức, bị loại trừ và khinh chê mà Giáo Hội lại có thể tỏ ra xa lạ hững hờ. Giáo Hội hiện diện đích thực cũng như đích thân liên đới với những con người ấy. Giáo Hội nhất thiết là một Cộng Đồng dấn thân phục vụ “tình yêu và công lý” để giao hoà “công lý với tình yêu”, không vì tìm kiếm lợi lộc như những kẻ có quyền lực của thế gian, nhưng đứng về phía người bé mọn, nhân danh sự tự do của mình, không thoả hiệp, nhưng lên tiếng trước các thế lực bóc lột khai thác con người. Bởi vì Giáo Hội cũng luôn bị bách hại vì muốn sống triệt để Tin Mừng (Mt 10:16, 18,19, 20), và bị ngược đãi bởi những thế lực đối nghịch với Tin Mừng Thập Giá (Pl 3:18). Nhưng thiết nghĩ, lời rao giảng về Thập Giá lại cho chúng ta thấy chính trong sự nghèo khó, yếu đuối và bóng tối khổ đau của thế giới mà Giáo Hội tìm gặp Thiên Chúa cũng như chân tính của mình.   

 

Như vậy, khi loan báo Tin Mừng dưới dấu chỉ Thập Giá, Giáo Hội đồng hành với con người trong mọi trạng huống, dâng lên Thiên Chúa những lời van xin đầy nước mắt của những cuộc đời không được nhìn nhận hay bị đẩy ra ngoài lề cuộc sống giữa một thế giới còn hằn sâu bóng tối của sự chết và lòng ích kỷ. Có thể, như Đấng bị “đóng đinh”, Giáo Hội bị “bó tay”, chẳng làm được gì đi nữa, chỉ biết tin mà không thấy, chiến đấu trong niềm hy vọng, nhưng không đạt được kết quả trước mắt. Trong tình cảnh như thế, dựa vào khía cạnh “khôn ngoan và điên dại” của Thập Giá Đức Kitô, có thể chính những bàn tay bị “đâm thủng”, trái tim bị “đâm thâu”, hay con người bị “giương lên trên Thập Giá” lại có thể rao giảng Tin Mừng chân thực hơn, có sức mạnh “lôi kéo mọi người” hơn, vì chẳng còn điều gì “khả tín” khác ngoài Tình Yêu và Thiên Chúa. Phải chăng có một cách thức rao giảng, tuy cổ xưa, nhưng vẫn còn hữu hiệu, đó là tình yêu: “nhẫn nhục, hiền hậu…không tự đắc…nhưng vui khi thấy điều chân thật…tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1 Cr 13:4-7). Và như vậy, chỉ có tình yêu mới đáng tin. Đây cũng là quan điểm của Đức Bênêđíctô XVI, lúc còn là Bộ trưởng Thánh bộ Giáo lý Đức tin, về truyền bá Phúc Âm với cách thức mới:“Đức Giêsu đã không cứu độ thế giới bằng những lời có cánh, nhưng bằng chính cuộc khổ nạn và cái chết của Người. Cuộc khổ nạn mang cho Lời của Người sức mạnh. Lời được gieo vào lòng đất phải chết đi mới trổ sinh bông hạt, đó là điều căn bản cho Tân Phúc Âm hóa”.[19] Ở đây, chúng ta có thể thấy cuộc đời rao giảng của Phaolô là một chứng từ rất đáng suy nghĩ, vì “sự thành công trong sứ vụ của người không phải nhờ vào tài hùng biện hay khả năng mục vụ khôn khéo; nhưng những hoa trái đó gắn liền với những đau khổ, trong sự liên đới với cuộc khổ nạn của Đức Kitô” (1 Cr 2:1-5; 2Cr 11:30; Gl 4:12-14). Nghịch lý thay, biết đâu chính những tình huống khó khăn, đầy thách đố, nơi có sự chống đối Tin Mừng và ngược đãi với người rao giảng lại là mảnh đất chờ đợi Tin Mừng được rao giảng cách mới mẻ, sẽ đâm rễ sâu và trổ sinh nhiều hoa trái. Qua bao thế kỷ, lời của Giáo Phụ Tertulianô vẫn còn hữu lý và đáng trân quý: “Máu của các vị tử đạo là hạt giống nảy sinh ra người Kitô hữu”. Như vậy truyền bá Phúc Âm có nghĩa là dự phần vào số phận của người Tôi Tớ đau khổ của Thiên Chúa.

 

Thế nhưng, tiếp theo lời rao giảng về cuộc khổ nạn của đức Kitô là lời loan báo mà thế giới không thể ngờ được:“Con Người sẽ sống lại” (Mc 8:31;9:31; Mt 16:21; Lc 9:22). Nếu cái chết là tiếng nói cuối cùng của lịch sử Đức Giêsu Kitô, thì quả thật không còn gì để rao giảng. Mọi nỗ lực tiếp nối Người công trình cứu độ và hiệp nhất muôn người, nói cho cùng đều vô vọng, nếu không muốn nói là vô nghĩa. Phục Sinh cho thấy ý nghĩa cứu độ và vinh quang của Thập Giá. Như câu nói mạnh bạo của Phaolô:“Nếu Đức Kitô không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi là trống rỗng, và cả đức tin cũng trống rỗng” (1 Cr 15:14-15). Vì vậy, lời rao giảng của Giáo Hội luôn duy trì cùng một lúc ngôn từ của Thập Giá và sứ điệp Phục Sinh. Đây có thể nói là trương lực tạo nên sức năng động của niềm tin Kitô giáo. Chính Thập Giá là mạc khải về một tình yêu “cho đến cùng” (Ga 3:16; 13:1), mãnh liệt nhất, “mạnh mẽ hơn cả tử thần” (Dc 8:6), và như thế nói lên chiến thắng quyết định, trọn vẹn của quyền lực Sự Sống trên Sự Chết. Đó là lý do khiến Phaolô đã lấy mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Kitô làm khởi điểm và tâm điểm cho ý nghĩa của lời rao giảng về Thập Giá:“Chúng tôi bị dồn ép tư bề, nhưng không bị đè bẹp; hoang mang, nhưng không tuyệt vọng;bị ngược đãi, nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã, nhưng không bị tiêu diệt. Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc Thương Khó của Đức Giêsu, để sự sống của Người được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi” (2 Cr 4: 8-10). Đây cũng là hướng nhìn của Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội: “Ðang khi còn là lữ hành trên mặt đất, bước theo vết chân Người trong đau thương và bách hại, chúng ta cùng thông hiệp với những đau khổ của Người như thân thể kết hợp với đầu, với sự thương khó của Người để được cùng Người vinh hiển”.[20] Thật vậy, là Thân Mình Vượt Qua của Đức Kitô, Giáo Hội “cùng chịu chết” với Người, ngõ hầu được “cùng Người trỗi dậy” (Rm 6:7) và làm chứng nhân cho Tin Mừng Phục Sinh.

 

Có thể nói, sự phục sinh vừa là biến cố xảy ra nơi Đức Kitô, đồng thời vừa là biến cố xảy ra nơi các môn đệ, vì chính biến cố đó đã trở nên sứ điệp làm biến đổi tận căn con người và cả cuộc sống của những kẻ tin vào Người. Giáo Hội luôn xác tín rằng những gì Đức Kitô Phục Sinh đã hứa đều nhờ Thần Khí mà được thực hiện nơi Thân Mình của Người. Vì khi làm cho Đức Kitô trỗi dậy từ cõi chết, Thiên Chúa “đã đặt tất cả dưới chân Người và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh; mà Hội Thánh là thân thể Đức Ki-tô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn” (Ep 1:22-23). Trong viễn tượng này, loan báo Tin Mừng Phục Sinh là thông truyền kinh nghiệm sống động về Đức Kitô (1Cr 15). Đó là kinh nghiệm gặp gỡ tiếp xúc với Đấng Phục Sinh đang sống, đang hiện diện và tác động lên hiện tại nơi Thân Mình Giáo Hội. Người “là khởi nguyên, là trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại” (Cl 1:18). Việc “Phục sinh từ trong cõi chết” như thế, không chỉ dọi ánh sáng vào quá khứ nhưng còn mở ra một thực tại mới mẻ, một tương lai cứu độ cánh chung là hiệp nhất mọi người vào trong một Thân Mình. Các tín hữu sơ khai đã trở thành chứng nhân về cuộc gặp gỡ với Đấng Phục Sinh, một gặp gỡ luôn ghi dấu trong đời họ như là gặp được tình yêu và sự sống đích thực. Sự sống và tình yêu mà các tín hữu đã lãnh nhận chính là Thần Khí và ơn tha thứ của Đức Kitô Phục Sinh. Người là Đấng mở đường khai lối, sát nhập họ vào Thân Mình của Người, và làm cho họ được tái sinh, đuợc sống bằng sự sống mới là chính sự sống tròn đầy trong tình yêu hiệp nhất với Người. Vì thế, họ vui mừng chịu đựng mọi thử thách vì Tin Mừng, “lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giê-su”(Cv 5:41). Không một quyền lực thế gian nào có thể dập tắt được sức sống và niềm vui của tình yêu hiệp nhất đó. Họ “chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng ...Họ đồng tâm nhất trí ... với lòng đơn sơ vui vẻ ... ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ”(Cv 2: 42-47).

 

Nếu như thế, lời rao giảng của Giáo Hội, được biến cố Phục Sinh bảo đảm, chỉ có thể được diễn tả dưới hình thái “khả tín” như một sứ điệp đem lại niềm vui chứ không phải nỗi buồn, lời của ân sủng chứ không phải tội lỗi, của tình yêu thứ tha chứ không phải đe doạ hận thù, của sự sống chứ không phải sự chết, vì con người luôn vĩ đại hơn những khổ đau trong đời và không nhất thiết phải kết thúc trong bất công khổ sầu. Dù thế nào đi nữa, cách thức rao giảng hữu hiệu nhất vẫn là cách thức của tình yêu, nhất là tình yêu thông hiệp vào sự sống của Đấng đã “hiến dâng” mạng sống mình để mở ra con đường cứu độ, chữa lành và giải thoát nhân loại. Vì là Đấng Phục Sinh, Người không thuộc về quá khứ, nhưng là hiện tại hôm nay, đang sống và hoạt động nơi Thân Mình của Người. Vậy nếu Mầu Nhiệm Vượt Qua là lịch sử của Đức Kitô, thì đó cũng là lịch sử của Giáo Hội dấn thân trên hành trình truyền bá Phúc Âm. Là “Đấng Sáng Lập,” là vị “Thủ Lãnh”, “Đấng khơi nguồn sự sống” (Cv 3:15), Đức Kitô đã tự hiến chính mình cho các chi thể được sống và trở nên Thân Mình biết hiến dâng tình yêu và sự sống cho mọi người. Và điều này đem lại nhiều hệ quả quan trọng cho sứ mạng của Giáo Hội trong thế giới hôm nay: vui mừng và hy vọng.

 

Một Cộng Đồng Cánh Chung loan báo Lễ Hội Nước Thiên Chúa

Một hình ảnh thích hợp nữa được sử dụng để diễn tả tương quan mật thiết giữa Đức Kitô và Giáo Hội, giữa “Đầu” với các chi thể là hình ảnh hôn ước (Ep 5:22-23). Chính Đức Kitô cũng đã tự ví mình như “Chàng Rể” (Mc 2:19; Mt 22:1-14; 25:1-13). Và Thánh Phaolô trình bày Giáo Hội, mỗi thành phần của Thân Mình, như là “Hiền Thê” được kết hôn với Đức Kitô, trở nên một Thần Khí với Người (Gl, 796). Là Hiền Thê, Giáo Hội cũng là “Tân Nương” tinh tuyền của “Con Chiên vẹn tuyền” (Kh 19:7; 21:2-9; 2217-21; Ep 1:4; 5:27), được Người trang điểm lộng lẫy, yêu thương và hiến dâng mạng sống để “thánh hoá và thanh tẩy” (Ep 5:26) bằng một giao ước bền vững đến muôn đời (Ep 5:29). Chính vì thế, Đức Kitô là nguồn vui của Giáo Hội, là Phu Quân, Đấng mà Giáo Hội chờ mong trong niềm hy vọng cánh chung: “Thần Khí và Tân Nương nói: Xin hãy ngự đến”. Và Đấng làm chứng cho những điều đó phán rằng: “Phải, chẳng bao lâu nữa Ta sẽ đến” (Kh 22:17, 20). Như vậy, Giáo Hội là một Cộng Đồng cánh chung cho thấy trước Lễ Hội Nước Thiên Chúa.

 

Trước hết, sứ mạng của Giáo Hội là loan báo Nước Thiên Chúa đã khởi đầu nơi chính bản thân, cuộc đời, và sứ vụ của Đức Giêsu Kitô, như một thực tại đang triển nở giữa lòng thế giới. Qua cái chết và sự Phục Sinh của Người, ơn cứu độ trở thành “hiện tại” cho Giáo Hội sống trong thời gian xen kẽ những gì đã được thực hiện và những gì sẽ được hoàn tất vào ngày Người ngự đến. Đó là “Ngày của Chúa”, ngày Lễ Hội cánh chung, không phải như một thời điểm kết thúc mọi sự, nhưng như một cuộc biến đổi hoàn vũ, mang đến ý nghĩa cho tất cả lịch sử nhân loại. Hiến Chế về Giáo Hội đã khẳng định:“Như thế thời đại cuối cùng đã đến với chúng ta rồi vậy (1Cor 10,11). Việc canh tân thế giới được thiết lập một cách bất khả phục hồi và thực sự đã bắt đầu một cách nào đó ngay từ bây giờ vì Giáo Hội đã được trang điểm bằng sự thánh thiện đích thực, tuy chưa hoàn toàn. Dù vậy, cho tới khi có trời mới và đất mới, nơi công lý ngự trị (2P 3,13), Giáo Hội lữ hành mang khuôn mặt chóng qua của đời này, qua các bí tích và định chế là những điều thuộc thời đại này. Và Giáo Hội vẫn sống giữa các thụ sinh tới nay còn rên siết và quằn quại trong cơn đau đớn lúc sinh con, và mong đợi con cái Thiên Chúa xuất hiện (Rm 8,19-22)”.[21]

 

Trong viễn tượng đó, cùng với những cơ cấu và định chế của mình, Giáo Hội là chứng nhân và chứng từ của Nước Thiên Chúa, trở thành con đường của Đức Kitô hiện diện và hoạt động giữa lòng thế giới, để dẫn đưa con người đến với sự sống và sự thật, nhằm giải thoát con người. Bởi vậy, như bí tích cứu độ phổ quát giữa nhân loại và để hoàn thành sứ mạng truyền bá Phúc Âm của mình, Giáo Hội không những phải am hiểu về đức tin Kitô giáo mà còn thực sự nhạy cảm, mở lòng ra với tất cả những gì liên quan đến con người, làm sao để thông truyền đức tin cho con người của thế giới hôm nay. Khi rao giảng Tin Mừng, Giáo Hội vừa nhìn nhận giá trị tích cực của cuộc sống nhân sinh, vừa nhận ra trách nhiệm của mình đối với trần thế, để kiện toàn những gía trị nhân bản, can đảm tố giác tội ác, những gì ngăn cản hoạt động đổi mới của Thần Khí, và hướng mọi tình huống sống của con người tới cùng đích là Nước Thiên Chúa, như lời của Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng:“Thực vậy, sau khi đã theo mệnh lệnh Chúa và nhờ Chúa Thánh Thần phổ biến trên trái đất các giá trị về nhân phẩm, về hiệp thông huynh đệ và tự do, nghĩa là mọi thành quả tốt đẹp do bản tính và hoạt động con người đem lại, chúng ta sẽ gặp lại chúng, nhưng là gặp lại sau khi chúng được thanh tẩy khỏi mọi tì ố, được chiếu sáng và biến đổi, nghĩa là khi Chúa Kitô giao hoàn lại Chúa Cha vương quốc vĩnh cửu và đại đồng: “Vương quốc của chân lý và sự sống, vương quốc thánh thiện và diễm phúc, vương quốc công bình, yêu thương và bình an” Vương quốc ấy đã hiện diện cách mầu nhiệm ở trần gian này và sẽ được kiện toàn khi Chúa đến”.[22]

 

Hơn nữa, Giáo Hội ý thức mình không phải là Nước Thiên Chúa, nhưng là “hạt giống” của Nước Thiên Chúa, là “Nước Thiên Chúa hiện diện trong mầu nhiệm”.[23] Ý thức về chiều kích thời gian của mình, Giáo Hội lữ hành về đất hứa, sẵng sàng trung thành chờ màn đêm qua đi cho ngôi sao cứu độ muôn dân toả chiếu. Là “Hiền Thê” yêu quý của Đức Kitô, Giáo Hội không phải như một bà lão đã đạt tới đích điểm, chỉ bằng lòng với việc lập lại quá khứ  hay tiếc nuối, tái khẳng định thuở vàng son, nhưng thực sự như một thiếu nữ trẻ trung còn đang được trang điểm trên đường về quê. Vì thế, Giáo Hội nhận thức được điều kiện “lên đường” và tình trạng “vượt qua” của mình. Với phương châm:“Ecclesia semper reformanda”, Giáo Hội thường xuyên canh tân, thay đổi cách hiện diện, nếp sống, lối suy tư, phương thức hành động, để luôn được thanh tẩy trong Đức Kitô (Ep 4:23). Đó cũng là sự hoán cải trong Giáo Hội, là bước đầu tiên của nhiệm vụ truyền bá Phúc Âm, dựa theo quan điểm của Đức Bênêđíctô, nghĩa là “chất vấn chính cuộc sống của mình”, là “ra đi khỏi sự tự mãn để khám phá ra và chấp nhận thân phận nghèo nàn của chúng ta trước những thiếu thốn của người khác, và đón nhận từ Đấng khác tình bằng hữu và ơn tha thứ của Người”.[24] Thế nên, Giáo Hội vừa trung thành với điều đã hoàn tất, vừa không ngừng vươn tới mức thành toàn viên mãn của khuôn mặt Đức Kitô như tương lai cánh chung của mình (Cl 1:19; Eph 3:8). Cũng như trong hướng nhìn của Vatican II, ý thức lịch sử là điều đáng quan tâm: “Với bổn phận phải lan rộng khắp thế giới, Giáo Hội đi sâu vào lịch sử nhân loại. Tuy nhiên Giáo Hội đồng thời cũng vượt thời gian và biên giới các dân tộc. Tiến bước giữa cơn cám dỗ và đau thương, Giáo Hội vững mạnh nhờ ơn Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã hứa ban, hầu Giáo Hội vẫn hoàn toàn trun

Các tin khác

VIDEO

  Bài 2: HIỆP HÀNH: Hiệp Thông - Tham Gia - Sứ Vụ | Thường huấn linh mục GP Ban Mê Thuột 2023

  Bài 1: Tầm Nhìn Hoàn Vũ | Thường huấn linh mục GP Ban Mê Thuột 2023

  ĐỨC TIN | Tròn Đầy & Trong Sáng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh

  Mục Vụ Văn Hóa: DANH - LỢI - NGHĨA | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh

  Cử Hành Phụng Vụ | Gặp Gỡ Chúa Kitô - Loan Báo Tin Mừng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn văn Hinh

  Thần Học Mục Vụ & Công đồng Vatican II: Con người - Giáo hội - Môi trường

  Hiệp Hành Hội Ý Dựng lại Mùa Xuân | Người Giáo dân Thiên niên kỷ mới

  Bài 4: Văn Hóa Tổ Chức - Đời Sống Cá Nhân

  Hiệp Hành Kín Đáo và Minh Bạch

  Văn Hóa Tổ Chức - Tổ Chức Cộng Đồng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh (Phần 3)

  Tìm hiểu về văn hóa (Phần 2) - Lm Gioan Kim Nguyễn Văn Hinh

  Tìm hiểu về văn hóa (Phần 1) - Lm Gioan Kim Nguyễn Văn Hinh

  TRỰC TUYẾN BÀI 29: MỤC VỤ THÁNH THIỆN THUẬN THEO

  TRỰC TUYẾN BÀI 28 : MỤC VỤ TÍCH HỢP VĂN HÓA ĐÔNG TÂY

  TRỰC TUYẾN BÀI 27 : MỤC VỤ LỜI CHÚA NGÀY NAY

  TRỰC TUYẾN BÀI : TÌM HIỂU VỀ VĂN HÓA VÀ BẢN SẮC VĂN HÓA VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 26: MỤC VỤ ĐẠO ĐỨC KINH TẾ DỊCH VỤ

  TRỰC TUYẾN BÀI 25: MỤC VỤ TUẦN THÁNH UY VÀ ĐỨC

  TRỰC TUYẾN BÀI 24: MỤC VỤ GIA TÀI CỦA MẸ

  TRỰC TUYẾN BÀI 23: MỤC VỤ BỔ VÀ TẢ

  mvgd20162016

  TRỰC TUYẾN BÀI 21: MỤC VỤ LUẬT CÂN BẰNG

  TRỰC TUYẾN BÀI 20: TRUY TÌM MÃNH LỰC

  TRỰC TUYẾN BÀI 19: THẾ GIỚI HÔM NAY CẦN NHỮNG NGƯỜI CHA NHÂN HẬU LÝ TƯỞNG VÀ THỰC TIỄN

  TRỰC TUYẾN BÀI 18: NĂM THÁNH THÁNH CẢ GIUSE LÃNH ĐẠO VÀ NIỀM TIN

  TRỰC TUYẾN BÀI 17: MỪNG XUÂN TÂN SỬU 2021 - LÒNG BIẾT ƠN TIN VUI ĐẠO ĐỨC VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 17: MỪNG XUÂN TÂN SỬU 2021 - LÒNG BIẾT ƠN TIN VUI ĐẠO ĐỨC VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 16: ĐỀ TÀI ĐIỂM TỰA

  TRỰC TUYẾN BÀI 14: VĂN HÓA KHÔNG NHẬN SAI NHƯNG SỬA SAI

  TRỰC TUYẾN BÀI 13: VUN TRỒNG NỀN VĂN HÓA “TÂM LINH – KHOA HỌC”

  TRỰC TUYẾN BÀI 12: NĂM MỚI 2021 XÂY DỰNG NỀN VĂN MINH TÂM LINH & KHOA HỌC

  TRỰC TUYẾN BÀI 11: GIÁNG SINH 2020 - LÀM NGƯỜi - GIÊSU

  TRỰC TUYẾN BÀI 10: PHÍA ĐẰNG SAU TÂM LINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 9: ĐỂ CÓ CHÚA THÁNH THẦN

  TRỰC TUYẾN BÀI 8: LOAN BÁO TIN MỪNG

  TRỰC TUYẾN BÀI 7: PHÒNG ĐÀO LUYỆN TÂM LINH CỦA TÍN HỮU DÂN CHÚA

  TRỰC TUYẾN BÀI 6: ĐÀO LUYỆN TÍN HỮU DÂN CHÚA

  TRỰC TUYẾN BÀI 5: TẦM NHÌN THIÊN NIÊN KỶ MỚI

  TRỰC TUYẾN BÀI 4: ĐÀO LUYỆN TÂM LINH BẮT ĐẦU TỪ THÁNH THỂ HAY THÁNH KINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 3: PHƯƠNG THỨC CẦU NGUYỆN CẢM NGHIỆM- SỐNG THÁNH GIỮA ĐỜI

  TRỰC TUYẾN: BÀI 2: GIẢI THÍCH ĐÀO LUYỆN TÂM LINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 1: ĐÀO LUYỆN TÂM LINH

  TintucVatican

  Thánh Lễ Tuyên Thánh Jacinta và Francisco Marto

  Muối và ánh sáng

  Thế Giới Nhìn Từ Vatican

  Nghi thức đóng Cửa Thánh

  Xin Mẹ Thương

  Thế Giới Nhìn Từ Vatican

  Suy Niệm với Đức Thánh Cha Phanxicô

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__3

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__1

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__2

  Thường huấn HĐMVGX Ban Mê Thuật

  Quốc tế thiếu nhi 01-6-2014

  Thể dục Dưỡng Sinh

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  CƠM TRƯA TRUNG THU 2013

  Thi đấu thăng cấp sơ đẳng Vovinam

  Khai mạc kỳ thi thăng cấp Vovinam

  Vovinam

  Đào luyện tâm linh

  Nghệ thuật cân bằng

  Đào Luyện Tinh Thần

  Đào Luyện Thể Chất

Bài viết mới
Mười hai lời khuyên của Đức Thánh Cha Phanxicô để trở thành người cừ khôi trong việc loan báo Tin Mừng
Mười hai lời khuyên của Đức Thánh Cha Phanxicô để trở thành người ...
Công bố tự truyện của Đức Thánh Cha Phanxicô
Công bố tự truyện của Đức Thánh Cha Phanxicô
Người dân Ai Len bỏ phiếu chống đề xuất sửa đổi định nghĩa về gia đình trong hiến pháp
Người dân Ai Len bỏ phiếu chống đề xuất sửa đổi định nghĩa ...
Mười một năm Giáo hoàng của Đức Thánh Cha Phanxicô
Mười một năm Giáo hoàng của Đức Thánh Cha Phanxicô