Thứ bảy, ngày 18 tháng 05 năm 2024 | 08:18 PM - Giới thiệu | Ý nghĩa logo
Truyền thông

Sứ Vụ Truyền Giáo Vùng Tây Nguyên Việt Nam


(15:11:2013 |11:24 PM)
Ban mục vụ Truyền thông Giáo phận Kontum trong những năm tháng qua đã giới thiệu cùng anh chị em tín hữu trong Giáo phận nhà nhiều đề tài về Công cuộc Truyền giáo tại Giáo phận, nhưng có lẽ chúng mang những “Mảnh Đời Truyền Giáo” còn phiếm diện.
 

Chúng tôi thao thức trình bày một chuyên đề có tính toàn diện, mang tầm nhìn tổng quan về Sứ Vụ Truyền Giáo Tây Nguyên Việt Nam. Chúng tôi xin chọn bài nghiên cứu có tựa đề “LA MISSION DU FAR-WEST VIETNAMIEN” (1)  của Linh mục Thừa sai CHRISTIAN  SIMONNET (MEP).

 

Linh mục tác giả trình bày Sứ Vụ Truyền Giáo Vùng Tây Nguyên Việt nam trong những gốc nhìn với những cảm nghiệm sống động của ngài và trong một thời gian nhất định. Chính vì thế, mỗi đọc giả có những quan điểm riêng về lối trình bày của tác giả và làm giàu thêm kiến thức liên quan đến Sứ vụ Truyền giáo Tây nguyên trong những năm tới. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn quí vị.

 

Ban mục vụ Truyền thông Giáo phận xin phỏng dịch và còn nhiều hạn chế trong văn từ để trình bày sát với nội dung bài nghiên cứu của tác giả. Chúng tôi xin đề tựa bài nghiên cứu này: “SỨ VỤ TRUYỀN GIÁO VÙNG TÂY NGUYÊN VIỆT NAM“.

 

GPKONTUM (15.11.2013) KONTUM

 

XIN KÍNH MỜI

 

 

“LA MISSION DU FAR-WEST VIETNAMIEN”

 

SỨ VỤ TRUYỀN GIÁO VÙNG TÂY NGUYÊN VIỆT NAM

 

 

Đã từ rất lâu, với nhiều người, Sứ Vụ Truyền Giáo Kontum vẫn luôn và sẽ là “Truyền giáo cho người thượng Bahnar”.  Nhờ vào trình thuật của Cha Dourisboure, đây là cuốn tiểu thuyết phiêu lưu đích thực lạ thường trong đó các biến cố được kể lại bằng một giọng văn rất đơn giản và thậm chí là ngây ngô, chính điều đó làm cho cuốn sách thuộc loại xoàng chẳng đáng được xếp vào hạng vô danh tiểu tốt đối với các nhà văn chuyên nghiệp, nhưng nó đã không trở nên cũ kĩ sau 90 năm trôi qua. Tất cả những khía cạnh của Sứ vụ Truyền Giáo trên vùng Cao Nguyên vẫn luôn mang tính thời sự và sẽ còn kéo dài mãi mãi: những bộ tộc rất nguyên thủy, đa thần giáo vẫn còn nặng nề, đời sống khó khăn đối với người tông đồ, chế độ ăn uống khắc khổ, đường xá đi lại rất khó khăn đầy dẫy cọp, voi, rắn, v.v… Ngược lại, chúng ta cảm nhận như đang sống trong một không gian cảm động, phấn chấn và tuyệt đẹp khi đọc những tập sách “Sứ Vụ Thừa Sai Công Giáo” những năm 1900 của những nhà biên tập như Leroy, Desgodins, Grouard… và nhất là của Canedi, một nhà văn họa công tài ba; ông đã khắc họa lên những gương mặt đỏ bừng của những  thủ lĩnh bộ tộc ăn thịt người, tạo cho chúng ta cảm giác như ngửi thấy mùi thịt nướng; ông mô tả những con tê giác đầy dáng dấp hung tợn trông giống như những đầu máy xe lửa, tả những linh vật đáng sợ làm ta giật mình thức giấc mất ngủ, những phố xá kỳ lạ, những phong cảnh khác thường… Tóm lại, khi công cuộc rao giảng Tin Mừng đang triển nở như hoa mùa xuân, đang chờ được cả thế giới khám phá và chinh phục, thì theo ngôn ngữ của một chính trị gia thủ cựu,  nhất thiết phải có nhà thừa sai. Sứ vụ Thừa Sai vùng Cao Nguyên Việt Nam có cơ may bảo tồn cách trung thực toàn thể bối cảnh đồ sộ về thời đại vinh quang này. Nói rằng ngày nay không còn lại dấu vết gì nữa sẽ là chối bỏ sự thật hiển nhiên. Nói rằng ngày mai sẽ không có gì mới (và nhiều cái mới) cũng sẽ là mù quáng có chủ tâm. Lịch sử vẫn còn tiếp diễn khắp nơi, và không diễn ra giống y nhau ở mọi nơi.

 

********

 

Bản tóm lược lịch sử truyền giáo của chúng ta phải được đặt lên hàng đầu; nhưng dù cô đọng tối đa, nó không phải là không hấp dẫn!

 

Trở lại thời điểm 1851, Đức Cha Cuénot, lúc đó là là Giám mục Giám quản Hạt Tông Tòa Đông Dương ở Qui Nhơn, là người khởi xướng và đặt nền móng cho công cuộc Truyền Giáo. Sự khởi xướng này đáp ứng 2 mục đích: Trước tiên là bắt đầu rao giảng Tin Mừng cho “vùng đất chưa được biết đến”, đó là những vùng núi phía tây; sau đó là thăm dò xem liệu có thể tìm “chỗ trú ẩn nơi dân miền núi” cho các vị Thừa Sai đang bị triều đình Annam bao vây và bách hại. Dù còn trực thuộc địa phận tông tòa Quy Nhơn, “Sứ Vụ Truyền Giáo cho người thượng” (mà người Annam gọi là Mọi) luôn có một vị Bề Trên do Giám Mục Tông Tòa Qui Nhơn chỉ định. Vùng này được tách ra vào năm 1932, và trở thành Địa Phận Tông Tòa Kontum.

 

Thời đại hào hùng của công cuộc thâm nhập mang đậm dấu ấn của Cha Dourisboure, một con người có tâm hồn trong sáng nhưng với tính khí cương trực. Hoa quả đầu mùa của đạo công giáo là hai đứa trẻ và một ông chủ làng. Trình thuật của cha Dourisboure quá nổi tiếng đến nỗi chúng ta không cần phải khai triển ra thêm nữa. Khi hoàn toàn kiệt sức, ngài đã phải rời bỏ sứ mạng của mình năm 1885, lúc đó hơn 1.000 người thượng đã tòng giáo. Nhưng trước đó, ngài đã phải đi chôn cất những bạn Thừa sai đồng hương của mình, người này tiếp sau người khác… Suốt giai đoạn đầu này, Sứ Vụ Truyền Giáo đã phải đương đầu với việc các vị Thừa sai chết quá nhiều.

 

Giai đoạn hai là giai đoạn giao thời giữa việc cắm rễ và việc hình thành tổ chức. Giai đoạn này đầy dẫy những biến cố khó lường trước được. Năm 1888 là năm của triều đại ngắn ngủi “Marie thứ I, vua của dân tộc Sedang” (tên thật là David Mayréna), một tên lừa đảo liều lĩnh. Có một thời, hắn tìm cách làm tổn hại thanh danh các vị Thừa Sai Kontum trong âm mưu  kỳ lạ của hắn. Tất cả mọi người có tư tưởng tự do ở vùng Đông Dương này lên án mạnh mẽ âm mưu làm tái hiện lại công cuộc “tháp nhập” các bộ lạc mà Paraguay đã từng làm. Có thể sự tố cáo không phải là không có cơ sở, nhưng … đó có phải là một trọng tội không? Các vị Thừa Sai đã phải thường xuyên đến Hà Nội để biện bạch! Nhưng cuối cùng, chính Tổng Công Sứ Rheinart đã yêu cầu các thừa sai đảm trách việc giám sát tạm thời, và nếu như có thể thì quản lý luôn vùng đất rộng lớn mà các vị thừa sai là những người đầu tiên tìm ra và đến trú ngụ.

 

Trong giai đoạn nhiều biến cố thử thách này, Cha Guerlach là khuôn mặt nổi bật. Ngài qua đời năm 1912, lúc đang là Bề Trên của vùng Truyền Giáo. Jean Marquet, nhà văn trung lập tuyệt đối về tôn giáo và là “người tra cứu không thiên vị tất cả các tư liệu” đã nói về ngài như sau: “Đó là một người có thân hình vạm vỡ, không ngừng chiến đấu hoặc bằng hành động, hoặc bằng bút chiến hay bằng khẩu chiến; và vào cái thời mà vùng đất dân mọi này chỉ thuộc về những ai can đảm hơn và mạnh hơn, chính ngài đã có phong thái của một vị Thừa Sai được trang bị bằng vũ lực (…). Trước tiên, ngài tổ chức chống trả các cuộc tàn sát những năm 1885-1887, đây là thời kỳ nổi bật dưới tên gọi “nạn Văn Thân”; đến tháng 2 năm 1888, ngài huy động 1.200 người Bahnar tấn công bộ lạc thù địch Jarai thường hay xách nhiễu cướp bóc (…). Sau này, bất kỳ một người ngoại quốc nào chỉ cần nói lên tên ngài, thì lập tức được tiếp đón và bảo vệ (xin xem:  “Mối liên quan của công vụ thám hiểm Pavie”, quyển III). Những người như thế lại bị kết án nghiêm khắc bởi những kẻ “xét lại việc truyền giáo trên thế giới” từ trên bục cao và sau khi đã xa cách các vị thừa sai hàng bao năm tháng. Nhưng những người nhìn cận cảnh hơn các sự kiện và biến cố, nếu không xét về thời gian, thì ít nhất trong không gian, họ sẽ phán xử nhẹ nhàng hơn… Những họ đạo hưng thịnh Bahnar sẽ như thế nào ngày hôm nay, nếu không có một ông Guerlach đúng lúc chận đứng ngay lập tức nạn cướp bóc, cuối cùng sẽ bóp chết họ? Điều then chốt hơn ở đây là làm sao ngày nay Kitô giáo có thể khởi sự nhập cuộc vào dân tộc Jarai, nếu những người này vẫn tiếp tục đi cướp bóc mà không bị răn đe? Cha Guerlach mà hôm nay chúng ta coi như là “người lính Giáo Hoàng”, thì vào thời ấy, cha là người biết xoay chuyển cục diện thời cuộc.

 

Mặt khác, quyền lực thế tục sắp sửa đến để thay thế những nhà thừa sai. Để tôn trọng phong tục bản địa, chính quyền Đông Dương chọn một hội viên đậm chất Tam Điểm lên làm công sứ vùng Cao Nguyên người thượng, nhằm tháp nhập vĩnh viễn những “nước thuộc quyền Giáo Hoàng”. Ông Sabatier cũng là người tán thành chủ trương thắt chặt các bộ tộc. Nhưng ông muốn những rút gọn mang tính thế tục, hoàn toàn cách ly khỏi ảnh hưởng của các vị thừa sai, và cách ly hoàn toàn khỏi mọi hình thái xâm chiếm, nhất là từ phía những người Annam; và việc này xảy ra đúng lúc chính quyền bảo hộ vừa lấy vùng Cao Nguyên dâng tặng cho triều đình Annam, nơi mà trong quá khứ triều đình đã không thể thực hiện việc kiểm soát thực sự, ngược lại có lúc còn bị dân bản địa ở đó cướp bóc để dung dưỡng việc đi lại buôn bán nô lệ với người Lào. Tuy vậy, ở đâu có Trung Tâm Truyền Giáo, thì lập tức ở đó hình thành một cộng đồng nhỏ người Annam. Thực ra, các vị Thừa Sai đem theo với mình những người Annam, họ là những giáo lý viên và là người giúp việc; bởi vì trên vùng Cao Nguyên người thượng, người ta chỉ biết đến nô lệ, và không biết đến người giúp việc. Hơn nữa, thức ăn của người thượng lại không thích hợp với người Châu Âu: như chuột, rắn mối và con mối rang nướng; hoặc ăn những “chất đang tiêu hoá” còn bốc hơi lấy ra từ bao tử con nai mà không cần chế biến thêm gì cả… Tất cả không thể nuốt nổi!. Cho nên người đầu bếp Annam là cần thiết. Cuối cùng ở đó còn có hàng chục người nô lệ Annam được các vị Thừa Sai chuộc lại từ trong các làng thượng. Đa số những người này quyết định ở lại xứ sở và sống quây quần chung quanh các xứ đạo rồi bám rễ ở đó luôn. Ngày nay, điểm rõ rệt nhất là dân số Kontum chủ yếu được tạo nên từ những con cháu của những người giúp việc cho các vị Thừa Sai xưa kia. Cộng đồng ít ỏi người Annam – cũng là kitô hữu – là khúc dạo đầu cho những biến cố hôm nay (và cả ngày mai!), đây là một mối bất hòa đã đặt các vị thừa sai và các quan chức Pháp trong sự thù địch ngấm ngầm. May mắn thay, những người thay thế họ lại giữ một  chính sách phóng khoáng hơn.

 

Tuy nhiên, cuối cùng xứ sở này cũng được hội nhập vào nền “văn minh”. Ảnh hưởng của những kitô hữu như vết dầu loang, tổ chức đội ngũ quản lý, sự hiện diện của nhiều trạm gác của “người bản địa”, tất cả những điều đó cuối cùng cũng giúp giảm dần dần những cuộc chém giết giữa các buôn làng và các bộ lạc, giảm được chế độ buôn bán nô lệ và việc sát tế sinh linh lấy người làm vật tế sinh. Đường đi ngày càng an toàn. Tóm lại, nhờ vào thời bình do chính quyền Pháp mang lại, giai đoạn hai kéo dài thêm, chính nhờ giai đoạn này mà những kiến thức về giai đoạn một được bảo đảm và tăng triển.

 

Chúng ta chọn năm 1908 là khởi đầu cho gia đoạn III này: Giai đoạn tổ chức. Cánh đồng truyền giáo cho người thượng đã có được 12.000 tín hữu. Cha Guerlach dũng cảm lúc đó được coi như là thủ lĩnh của cộng đoàn tín hữu này và từ lâu là người tiên phong. Ngài qua đời năm 1912. Nhưng con người của ngày mai đã có mặt tại chỗ và đã làm việc được 16 năm rồi. Con người này bề ngoài không có vẻ nổi bật, thậm chí trông nặng nề với nụ cười của một nông dân chân chất. Đó là một người “khéo tay”, có tính kiên nhẫn của loài kiến trong các phát minh của ông. Với các phương tiện tại chỗ, ngài đã chế tạo một cối giã gạo dùng sức nước được người thượng rất thích thú. Đó chính là cha Martial Jannin. Ngài có nhiều ý tưởng hay và chính ngài là người thực hiện những ý tưởng đó với lòng kiên trì của loài côn trùng. Minh chứng cho điều này là chính tay ngài đã tu sửa chiếc xe Ford cũ kỹ có thể lăn bánh được. Khi người ta đề nghị ngài nhượng lại chiếc xe đó cho viện bảo tàng Ford để đổi lấy một chiếc xe mới hiện đại, ngài từ chối, vì cho rằng chiếc xe cà tàng đã được chăm sóc, sửa chữa, thêm chi tiết, sẽ thích hợp hơn với đường sá đặc biệt của xứ sở này.

 

Trở lại thời kỳ đầu thế kỷ, cha Jannin nhận định chính các vị thừa sai ngoại quốc luôn tiếp cận các thôn làng người thượng nhưng vẫn là người ngoài cuộc và ngài cho rằng những công sự viên là linh mục và giáo dân người Việt cũng cùng nhận xét như thế nếu không muốn nói là hơn. Ngài kết luận: chúng ta cần những cộng tác viên người Bahnar được đào tạo nghiêm túc cho công việc tiếp cận, cho việc huấn luyện, việc đối thoại mà chúng ta đòi hỏi họ thực hiện cho đồng hương của mình. Như vậy, cần xây dựng một trường đào tạo giáo lý viên Bahnar. Khi Cha Jannin trình bày ý tưởng, không có ai tiếp nhận coi đó là đề nghị nghiêm túc cả. Vì không thiếu những lý lẽ chính đáng để phản bác:  không thể tách những đứa trẻ vốn thuộc về rừng núi khỏi buôn làng của chúng, huống hồ là “đóng hộp” chúng nó lại; và tệ hơn nữa là ép buộc chúng học tập? Không thể tưởng tượng nổi!! Nhưng sự kiên định của Cha Jannin đã đạt được điều ngài mong muốn, vì do sự mệt mỏi của người khác chứ không phải do sự việc có tính thuyết phục. Và như vậy, năm 1908, Trường Cuenot được khánh thành ở Kontum. Ai được chọn làm Bề trên trường? Hiển nhiên đó là cha Jannin: vì ai là người đưa ra ý tưởng, thì người đó phải gánh những rủi ro và trách nhiệm! Trong khi chờ đợi, chính hoạt động công giáo tiến hành (việc làm đi trước lời nói) vừa được hình thành trên vùng đất thượng… Công việc dài hơi này, qua một tuần ngắn ngủi chưa hề có một kết quả diệu kỳ nào cả. Chỉ về lâu về dài sau này, thực tế đã chứng minh: Ngài đã đúng! Đến năm 1924, Cha Jannin được cắt cử làm Bề Trên vùng Truyền Giáo, Ngài đã phục vụ được 33 năm trong xứ sở thượng. Và 9 năm sau đó, vùng “Truyền Giáo cho người thượng” trở thành Địa Phận Tông Tòa Kontum, chính ngài được tấn phong làm Giám Mục Địa Phận. Lúc đó ngài được 70 tuổi với 42 năm truyền giáo! Ngài đã để lại dấu ấn to lớn về mọi phương diện: là vị mục tử, nhà giáo, nhà văn trong số những tác phẩm viết bằng tiếng Bahnar là tác phẩm về: vũ trụ học!, thợ máy, thợ điện (với công trình thủy điện nhỏ), nhà trang trí (bàn thờ gỗ của Tiểu Chủng Viện được ngài chạm khắc và vẽ trang trí hoàn toàn), kiến trúc sư kiêm người thực hiện… Chính trong lĩnh vực kiến trúc này, ngài đã để lại một kiệt tác: Tiểu Chủng viện Kontum, một ngôi nhà sàn hai tầng với 100 mét mặt tiền, hoàn toàn bằng gỗ và đất! Tóm lại, ngài có tài làm được nhiều việc, trong mọi lĩnh vực, với những phương tiện tại chỗ hiếm hoi và nghèo nàn. Phong cách của ngài được tóm trong 3 chữ:  táo bạo, khéo léo và kiên trì.

 

Dĩ nhiên, một nhóm các vị thừa sai giúp đỡ ngài trong mọi gian nan thử thách, nhưng không đông lắm. Ngài tìm thêm sự giúp đỡ của người Annam nữa. Người đầu tiên trong số những anh hùng thời kỳ khai sáng vùng truyền giáo chẳng phải là Cha Do, một người Annam đó sao? Bây giờ cần phải gỡ bỏ những thành kiến coi vùng cao nguyên này như một vùng Sibérie mà ở đó những miền truyền giáo lân cận cử nhân sự của mình đi học mà họ thích giám sát từ xa hơn là đến gần. Đức Cha Jannin có quan điểm hoàn toàn trái ngược.  Năm 1935, ngài mở một Tiểu Chủng viện ở Kontum, nhưng gọi đó là “Trường tông đồ thừa sai”. Ở đó không chỉ tiếp nhận con cái của vài nghìn người Annam định cư trên Cao Nguyên, nhưng còn thu nhận cả những thiếu niên và thanh niên của cả vùng Đông Dương muốn tự dâng mình cho công cuộc truyền giáo cho người thượng. Theo ý nghĩ của vị Giám Mục, đó chính là tiền thân của “Hội Thừa Sai Annam” thật sự. Năm 1932, ba người Bahnar tiên khởi được phong chức linh mục. Đây có phải là quyết định vội vàng không? Có thể. Trở về lại rừng núi, không phải tất cả họ thích nghi thật dễ dàng, nhất là việc uống rượu cần, một tệ nạn đối với người thượng. Nhưng đây là bước tiến cần thiết ban đầu, vạn sự khởi đầu nan. Những bước tiếp theo sẽ chắc chắn hơn. Và rồi ngày nay, chẳng phải là người ta đã  không còn kết án các vị Thừa Sai đã quá ít nhiệt tình trong lĩnh vực này hay sao? Dẫu rằng còn biết bao điều sai sự thật, nhưng người ta không thể phủ nhận công lao to lớn của các vị thừa sai.

 

Những năm 1945-1946, giống như những vùng Truyền Giáo khác ở Đông Dương, vùng Truyền Giáo Kontum bị giao động mạnh do biến động Việt minh. Nhưng năm 1954, khi quân đội Việt minh chiếm giữ Kontum trong 8 tháng, phần đông các tín hữu đã biết tự kiềm chế để không chống đối lại kẻ xâm phạm đang giận dữ phá hủy các cơ sở tôn giáo, họ tỏ ra là người khôn khéo bằng lòng sửa chữa phục hồi lại các cơ sở, sau cuộc đột nhập điên rồ của những kẻ tấn công phá hoại.

 

Và bây giờ, cần lật sang trang mới, bởi vì không chỉ chúng ta vượt qua một giai đoạn, mà còn đề cập đến một thời kỳ mới.

 

Mới đây, một người dân Saigon đi dạo cuối tuần ở vùng ngoại ô Đà Lạt gặp một người thượng và hỏi: “Có một làng mọi nào ở đây để tham quan không? (“mọi”, tiếng Việt có nghĩa là mọi rợ)  – Người kia trả lời: Tại sao ông gọi tôi là “mọi”? Nếu gọi tôi là mọi, tôi sẽ gọi ông là “annam tẹt”! – Xin đừng cười. Chính những dấu hiệu nhỏ như thế cho ta biết một thời đại đã qua. Hôm nay không còn người annam tẹt nữa, nhưng là người Việt nam. Không còn người mọi hay man rợ nữa mà là người Thượng, nghĩa là người vùng cao. Phải chú ý đến sự thay đổi từ ngữ. Nó là dấu hiệu báo trước một chuyển biến tuy hơi chậm và ít nhận thấy, nhưng là chuyển biến không kém phần thực tế và hậu quả lớn.

 

 

VÙNG CAO NGUYÊN

 

 

Trong tập XXX của tạp chí nghiên cứu Đông Dương “Société des études indochinoise” dành cho việc nghiên cứu lịch sử các dân tộc miền núi phía nam Đông Dương (quý I/1955), tác giả Benard Bourotte viết: “Phía nam vĩ tuyến 17, cấu trúc địa lý Đông Dương thay đổi. Thay vì những nếp gấp song song tiếp nối nhau, miền nam Đông Dương giống như một chiếc bàn bằng sành. Dựng đứng ở phía đông, nó hạ thấp dần như một sườn dốc đổ nhẹ về phía sông Mekong ẩn chứa một dãy bờ dốc đứt gãy giống như những bậc thang nối tiếp nhau. Tương tự cấu tạo vùng núi cao miền trung du nước Pháp, bờ đông của Cao Nguyên này đột ngột hạ thấp mặt đông do một  sự sụt lún địa hình tiếp cận vùng đồng bằng dọc bờ biển Việt Nam. Dốc đứng này tạo thành một bức tường mà khi nhìn bao quát, ta có ảo giác như đó là một dãy núi. Cũng giống Cao Nguyên trung phần của chúng ta (ở Pháp), Cao Nguyên Đông Dương có nhiều núi lửa đã tắt; nhiều hồ nước hình thành trong một số miệng núi lửa; một số nơi sụt lún đã khoét sâu lớp đá trên mặt tạo thành những vùng trũng thấp, đôi lúc thành những đầm lầy, và một phần đầm lầy đó biến thành những ruộng lúa có nước tưới… Những ốc đảo tươi mát hiếm hoi này đối chọi với phần còn lại là các vùng núi cao lởm chởm với những khu rừng rậm rạp không thể tiến sâu vào được, hoặc là những trảng cỏ mênh mông, hoặc vì những khu rừng thưa”.

 

 

NGƯỜI MIỀN NÚI

 

 

Họ gồm khoảng 1 triệu người, phần lớn (khoảng 7 đến 8 trăm nghìn) sống trên lãnh thổ Việt Nam. Số khác còn lại sống trên đất Lào và Cam Bốt. Nguồn gốc của họ đang là vấn đề hóc búa làm đau đầu các nhà dân tộc học và giải pháp tốt nhất là chờ đợi. Nước da có màu từ nâu xám đến màu bánh mật. Tóc đen và hoe nhạt; cũng có những cá thể tóc hung đỏ. Một số tóc dày và xoăn, có dạng giống người da đen; nhưng người ta cũng phân biệt họ khác người da đen. Tóm lại, ở đây cũng như hầu hết tất cả những dân tộc miền núi ở phía đông-nam Châu Á, từ đông Thibet đến cận bán đảo Đông Dương, người ta tìm thấy người In-điêng da đỏ chính hiệu. Những “người miền núi” này, ít ra phần đông họ giống nhau về mặt thể chất. Nhiều nhất là những người xưa kia sống ở vùng đồng bằng ven biển bị những dân tộc sinh sản nhiều và có tổ chức hơn đẩy lên vùng núi, như người Chàm đã bị đẩy lên chẳng hạn.

 

Dù khác nhau về sắc tộc, họ lại có một số điểm chung “về văn hóa”. “Họ sống trần trụi”, là cách ghi nhận của những nhà chép biên niên sử In-điêng và Trung hoa nói một cách tình cờ về họ. Trần trụi, nhưng không hoàn toàn. Đàn ông đóng khố tương đối hơi rộng hoặc được thêu thùa (thường giống một giẻ lau dơ bẩn), chỉ đủ để che bộ phận “kín”; đàn bà thì mặc váy (bành). Đàn ông và nhất là đàn bà đôi lúc mặc chiếc áo ngắn che phần ngực, hay quấn tấm khăn đắp. Họ mài răng cửa hàm trên, trông xấu xí, tục lệ này ngày nay đã bị cấm đoán. Họ để tóc dài (nhất là trong những làng xa trung tâm tỉnh lỵ). Họ sống trong những ngôi nhà sàn bằng gỗ dựng trên những cây cột đỡ, có một vài nhà dài đến cả 100 mét, ở đó chung sống cả một tập thể lao động đích thực. Giữa làng là ngôi nhà rông lớn, ở đó giới thanh niên chưa có gia đình đến ngủ hàng đêm, nhà rông nổi tiếng với mái siêu nhọn. Đây cũng là nơi hội họp của các già làng và các vị bô lão. Họ đi săn bằng cung nỏ và giáo mác, đánh cá bằng lưới. Họ đốt rừng làm nương rẫy, làm hủy hoại rừng và biến đất đai cả vùng ra cằn cỗi. Chưa bao giờ nghe nói đến tục lệ ăn thịt người, nhưng “nghi lễ sát tế” thì có và tồn tại đến ngày nay, đáng buồn thay! Thường đó chỉ là sự trả thù bẩn thỉu của tên phù thủy được thêu dệt bằng một kịch bản tôn giáo… Mới đây, có việc hiến tế người: thân thể của một nô lệ bị bằm nát dưới cây cột trụ chính của ngôi nhà rông mới dựng. Nhiều người thượng ủng hộ chế độ nô lệ. Họ mua nô lệ nơi vùng lân cận của họ (nhất là người Annam), họ giữ lại một phần chiến lợi phẩm, và bán số còn lại cho những hàng xóm khác (nhất là cho người Lào). Điều có thật là họ không ngược đãi nô lệ. Một số bộ lạc (Sêđăng) có nghề rèn sắt và đồ đồng. Họ (người Jarai và Rhadé) theo chế độ mẫu hệ. Nhưng dù mẫu hệ hay phụ hệ, những đứa trẻ con thích làm những gì chúng muốn: cha mẹ chúng dù có điên đầu do việc chúng làm, cũng không bao giờ cấm cản. Tuy nhiên, việc đó đôi lúc cũng không ngăn được người cha Jarai giết con đầu của mình một cách lạnh lùng: sự việc này vẫn còn xảy ra ngày nay. Lý do là vì tiệc tùng ồn ào lộn xộn trong ngày cưới, đã tạo sự nghi ngờ về nguồn gốc của đứa con hơn là dựa trên so sánh nét giống nhau với người cha.

 

Ít nhiều xuất hiện một số “tay anh chị” tầm cỡ trong thời kỳ đầu lịch sử chưa hoàn chỉnh của sự hình thành các dân tộc vùng Cao Nguyên, vì “tính khí chung của họ giống nhau, đó là tính nhút nhát hoặc do không đủ khả năng mà phải chấp nhận sự lãnh đạo hay quyền lực ngoại lai hơn là uy thế trong làng (theo Bourotte op.cit.). Phải đợi đến năm 1888 để thấy trên 1.000 chiến binh công giáo hay không công giáo đầu quân dưới sự điều động của Cha Guerlach trong cuộc viễn chinh răn đe nhóm người Jarai hay sách nhiễu cướp phá. Ngoài ra họ còn có “tính khí chung” nữa là: khuynh hướng thiên về những cuộc chè chén linh đình say sưa trong ché rượu cần mà họ thường tổ chức với bất kỳ lý do nào. Để ý một chút, đó là sự diệt vong của họ như ta sẽ thấy sau này. Qua dòng lịch sử, người thượng vùng Cao Nguyên Đông Dương chưa bao giờ ý thức được rằng họ là một dân tộc khác biệt trong một xứ sở khác biệt, nó lại là chính đất nước của họ. Quá chú tâm đi gây chiến với nhau, họ chưa bao giờ thành công trong việc liên kết thành một liên bang, khi mà nhiều cơ hội đến với họ, nhất là khi Sabatier tha thiết tạo cơ hội cho họ; và mới đây nữa, chính quyền Pháp hình như đã đồng thuận hoàn toàn với Hoàng Đế Bảo Đại về việc này trong thời kỳ những năm cuối của cuộc chiến Đông Dương. Trong quá khứ, mặc dầu có cuộc sống gần như độc lập, họ tự cho mình là chư hầu đôi lúc của Chàm, đôi lúc của Thái, đôi lúc của Lào, đôi lúc của Annam, tùy theo các biến cố xảy ra…









 

Tính chư hầu này chủ yếu lệ thuộc vào những trao đổi quà cáp hàng năm của lãnh chúa của họ trên lý thuyết; và phải công nhận rằng trong những tình huống này, nói chung họ nhận được lợi nhiều hơn là cho đi. Để cho chúng ta hiểu rõ hơn, các Hoàng đế Annam chưa bao giờ thực hiện việc kiểm soát, trừ một vài kiểm tra rất cách quãng – và chỉ kiểm soát gắt gao vào thời điểm thu thuế hàng năm – trên vùng đồng bào dân tộc thuộc những thung lũng thấp ven biển. Và khi vua Gia Long, người thống nhất  đất nước Việt Nam vào cuối thế kỷ XVIII, đã từ chối thẳng thừng việc sáp nhập những “người man rợ” này vào thành phần thần dân của ông. Đầu thế kỷ XX, hòa bình nước Pháp đã áp đặt quyền hành từ từ với phương cách nhẹ nhàng lên vùng Cao Nguyên, nhưng không phải là không gặp những thảm kịch; và nhiều người lương thiện với bàn tay trắng, trong khi chinh phục từ Brazza và đến Pavie đã phải trả giá bằng mạng sống cho sự liều lĩnh táo bạo của họ. Cuối cùng, vài bộ lạc hiếu chiến (Rhadé, Sêđăng) sau này đã cung cấp cho quân đội viễn chinh Pháp những toán lính tinh nhuệ.


Trong khi đó, phía bắc Cao Nguyên, gần ranh giới Đà Nẵng, có 2 bộ tộc đến bây giờ đã không thể kiểm soát và thâm nhập vào được: đó là người Dié và người Khatu. Nhất là những người thuộc bộ tộc thứ hai có tiếng đáng sợ. Họ có biệt danh là “những kẻ săn máu”, giết người không phải vì thù oán, không vì ăn cướp, không vì gì cả, mà chỉ để “làm hả cơn giận các thần dữ”. Họ nói: “Người này được tổ tiên chúc phúc, cho nên ngọn giáo của nó đã đâm 100 lần qua thân thể người khác. Nó là niềm kiêu hãnh của buôn làng, và nó được các phụ nữ ca tụng”. Bằng một cách nào đó, là những nghệ thuật gia… – Người ta đã cho rằng Việt Minh sẽ thành công ở nơi mà những người khác đã thất bại, và rằng họ sẽ thâm nhập được vào cộng đồng người Khatu, và đã trở nên căn cứ địa bất khả xâm nhập của Việt Minh đó chẳng phải như thế sao? Nhưng đó chỉ là những phỏng đoán, không phải là không thực tiễn, mà là chưa được kiểm chứng thôi.



NGƯỜI BAHNAR

VÀ NHỮNG SẮC TỘC KHÁC



Bộ tộc Bahnar tương đối hiếu hòa, sống giữa 2 bộ tộc khác đáng sợ là Sêđăng và Jarai. Họ đón nhận những vị Thừa sai đầu tiên cách đây 100 năm. Người Bahnar cũng như những dân tộc miền núi khác thờ linh vật thô kệch và đầy rẫy. Cả đời sống của con người lệ thuộc vào tính thất thường của vô số các yang, hay đúng hơn là của các tay ma thuật làm trung gian cho các yang. Đó là các tay ma thuật, người chủ đích thực của xứ sở. Tuy nhiên, người thượng có 2 khát vọng lạ lùng: Trước tiên là mong chờ một “vị cứu tinh”  sẽ mang lại thời vàng son trường sinh cho họ…, vị cứu tinh này thường được mô tả ít nhiều giống như: người khổng lồ, người lùn, “người hổ”, “người bay”, hoặc một con vật được thuần hóa. Tính cả tin của người miền núi hình như là vô hạn. Cuối cùng, không có gì xảy ra thì không ai nói đến nữa. Khát vọng thứ hai: ước muốn có nước phép mầu… Nhiều phù thủy xảo trá đôi lúc tạo được những tài sản nhỏ nhờ bán hàng lít, hàng lít “nước phép mầu”. Dù sao đi nữa, đây chắc chắn cũng là 2 nền tảng thuận lợi cho việc giảng dạy giáo lý công giáo.


Chính người Bahnar là những người được tiếp nhận Tin Mừng đầu tiên. Số tín hữu lúc đó chiếm tỷ lệ khoản 15%: gần 10.000 người. Nhưng ngày nay, không nên gọi địa phận  chúng ta là “vùng truyền giáo cho người Bahnar”, bởi họ không chiếm hơn ½  tổng số người thượng có đạo. Vì dân tộc Sêđăng đáng sợ, được mệnh danh là những chiến binh thợ rèn và là những tên cướp người nô lệ, sắp bắt kịp họ về số người tòng giáo với gần 8.000 tân tòng được rửa tội. Sắc tộc Rơngao vượt qua con số 6.000 tín hữu. Tiếp đến là bộ lạc rộng lớn Jarai, với các tục lệ đáng ghét, là bọn cướp bóc có tiếng mà ngày xưa Cha Guerlach đã buộc phải cho họ một bài học nghiêm khắc, họ cũng được cải đạo và có 1.500 người được rửa tội. Truyền giáo được tiến hành theo kiểu vết dầu loang và đến lượt Kontum đã thấm dần dần. Trong khi đó, một nhóm Thừa sai đặc biệt được thành lập và hình thành vùng Truyền giáo tại Banmêthuột, nơi sắc tộc Rhadé cư trú. Thành phố này cách Kontum 238 cây số về phía Nam, là một kiệt tác nghệ thuật của Công sứ Sabatier; vùng này trực thuộc Miền Truyền giáo Kontum. Thành phố không có địa hình đẹp, không sông ngòi, và hình như nó vẫn phải tiếp tục tồn tại sau khi người sáng lập nó đã chết. Tuy nhiên trong cuộc chiến Đông Dương, Banmêthuột được cựu Hoàng Đế Bảo Đại phục hồi trở lại, vì ông thích sự tĩnh lặng và những khu rừng chung quanh thuận lợi cho việc săn bắn thú lớn, là sở thích của vị Hoàng đế. Chính vì thế, ông có thói quen lưu lại ở đây phần lớn thời gian. Sau tuyên ngôn thiết lập nền cộng hòa, thay vì mất đi vị trí quan trọng, Banmêthuột được chỉ định là thủ đô của Trung Kỳ Việt Nam thay thế Huế. Dù dân cư thưa thớt và chưa được xây dựng quy mô, nhưng thực ra nó lại chiếm một vị trí tuyệt đối trung tâm vững chắc của nước Việt Nam tự do. Cho nên, mặc dù có các linh mục đang coi sóc cộng đồng người Việt ở đó, một vị Thừa sai được độc lập gửi tới đó để “nhập cuộc” vào dân tộc Rhadé và Mnong. Những cuộc tiếp xúc đã được thực hiện và niềm hy vọng được nhen nhúm. Mười sáu người lớn đầu tiên được rửa tội vào lễ Giáng Sinh 1955. Tổng Thống Diệm đã nhận đỡ đầu, nhưng ông Ngô Đình Nhu, em ruột và là cố vấn của Tổng Thống, là người được ủy quyền tham dự biến cố này.


CUỘC SỐNG CỦA CÁC VỊ THỪA SAI

TRÊN CAO NGUYÊN



Đọc trình thuật của Cha Dourisboure, người ta không khỏi ớn lạnh. Một xứ sở khủng khiếp! Chỉ duy nhất một người có thể đứng vững được: đó chính là tác giả. Tất cả các bạn đồng sự của ông đã phải lần lượt ra đi, người này tiếp nối người kia. Ba người ra khỏi Cao Nguyên mà không còn chút sức lực nào và sống kiệt sức thêm một thời gian mà không thể hồi phục nổi. Bốn người khác chết tại chỗ sau vài năm phục vụ rất vất vả. Người cuối cùng mà cái chết kết thúc câu chuyện đời mình là Cha Suchet, ngài chết chỉ sau vài tuần đến đây. Và chính Cha Dourisboure đã chấm dứt cuộc đời tại Paris; Cha đã phải ra khỏi đây trong tình trạng nửa sống nửa chết để về lại Paris!  Cho nên, ngày nay một người nào đó mới đến đây, sẽ không thể không cảm nhận được sự ngạc nhiên thú vị. Xứ sở đẹp đẽ. Không khí trong lành. Màn đêm mát mẻ. Cái nóng dễ chịu hơn cái nóng trong những lò hấp vùng châu thổ khác. Sau những cơn mưa lớn, đất đai khô ráo nhanh chóng. Ít muỗi… Có phải Cha Dourisboure đã “phóng đại quá” không? Dù sao, hãy nhìn những phần mộ này… có phải là mộ thực sự không? Chắc chắn rồi! Và Cha Dourisboure là nhân chứng đích thực. Những điều kiện sống đã thay đổi kể từ lúc đó. Các vị kế tục ngài đã đưa ngựa vào xứ sở này mà trước đây chưa ai biết loài này. Sau đó là xe Jeep đến thay thế ngựa. Ngày nay, một vị Thừa sai phải đi bộ 5 giờ để tìm ra đường cho xe hơi chạy được đến làng Kon Mahar là một trường hợp ngoại lệ. Thuốc tây tân dược đã ổn định tốt được tình hình, và lúc đó người ta sống thọ hơn trên Cao Nguyên. Hãy nhìn Cha niên trưởng Alberty của chúng ta đang vui tươi hồn nhiên kia, ngài đã cống hiến cả đời tông đồ của mình trong khắp các huyện lỵ, ngài sống đến 83 tuổi.


Các tin khác

VIDEO

  Bài 2: HIỆP HÀNH: Hiệp Thông - Tham Gia - Sứ Vụ | Thường huấn linh mục GP Ban Mê Thuột 2023

  Bài 1: Tầm Nhìn Hoàn Vũ | Thường huấn linh mục GP Ban Mê Thuột 2023

  ĐỨC TIN | Tròn Đầy & Trong Sáng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh

  Mục Vụ Văn Hóa: DANH - LỢI - NGHĨA | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh

  Cử Hành Phụng Vụ | Gặp Gỡ Chúa Kitô - Loan Báo Tin Mừng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn văn Hinh

  Thần Học Mục Vụ & Công đồng Vatican II: Con người - Giáo hội - Môi trường

  Hiệp Hành Hội Ý Dựng lại Mùa Xuân | Người Giáo dân Thiên niên kỷ mới

  Bài 4: Văn Hóa Tổ Chức - Đời Sống Cá Nhân

  Hiệp Hành Kín Đáo và Minh Bạch

  Văn Hóa Tổ Chức - Tổ Chức Cộng Đồng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh (Phần 3)

  Tìm hiểu về văn hóa (Phần 2) - Lm Gioan Kim Nguyễn Văn Hinh

  Tìm hiểu về văn hóa (Phần 1) - Lm Gioan Kim Nguyễn Văn Hinh

  TRỰC TUYẾN BÀI 29: MỤC VỤ THÁNH THIỆN THUẬN THEO

  TRỰC TUYẾN BÀI 28 : MỤC VỤ TÍCH HỢP VĂN HÓA ĐÔNG TÂY

  TRỰC TUYẾN BÀI 27 : MỤC VỤ LỜI CHÚA NGÀY NAY

  TRỰC TUYẾN BÀI : TÌM HIỂU VỀ VĂN HÓA VÀ BẢN SẮC VĂN HÓA VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 26: MỤC VỤ ĐẠO ĐỨC KINH TẾ DỊCH VỤ

  TRỰC TUYẾN BÀI 25: MỤC VỤ TUẦN THÁNH UY VÀ ĐỨC

  TRỰC TUYẾN BÀI 24: MỤC VỤ GIA TÀI CỦA MẸ

  TRỰC TUYẾN BÀI 23: MỤC VỤ BỔ VÀ TẢ

  mvgd20162016

  TRỰC TUYẾN BÀI 21: MỤC VỤ LUẬT CÂN BẰNG

  TRỰC TUYẾN BÀI 20: TRUY TÌM MÃNH LỰC

  TRỰC TUYẾN BÀI 19: THẾ GIỚI HÔM NAY CẦN NHỮNG NGƯỜI CHA NHÂN HẬU LÝ TƯỞNG VÀ THỰC TIỄN

  TRỰC TUYẾN BÀI 18: NĂM THÁNH THÁNH CẢ GIUSE LÃNH ĐẠO VÀ NIỀM TIN

  TRỰC TUYẾN BÀI 17: MỪNG XUÂN TÂN SỬU 2021 - LÒNG BIẾT ƠN TIN VUI ĐẠO ĐỨC VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 17: MỪNG XUÂN TÂN SỬU 2021 - LÒNG BIẾT ƠN TIN VUI ĐẠO ĐỨC VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 16: ĐỀ TÀI ĐIỂM TỰA

  TRỰC TUYẾN BÀI 14: VĂN HÓA KHÔNG NHẬN SAI NHƯNG SỬA SAI

  TRỰC TUYẾN BÀI 13: VUN TRỒNG NỀN VĂN HÓA “TÂM LINH – KHOA HỌC”

  TRỰC TUYẾN BÀI 12: NĂM MỚI 2021 XÂY DỰNG NỀN VĂN MINH TÂM LINH & KHOA HỌC

  TRỰC TUYẾN BÀI 11: GIÁNG SINH 2020 - LÀM NGƯỜi - GIÊSU

  TRỰC TUYẾN BÀI 10: PHÍA ĐẰNG SAU TÂM LINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 9: ĐỂ CÓ CHÚA THÁNH THẦN

  TRỰC TUYẾN BÀI 8: LOAN BÁO TIN MỪNG

  TRỰC TUYẾN BÀI 7: PHÒNG ĐÀO LUYỆN TÂM LINH CỦA TÍN HỮU DÂN CHÚA

  TRỰC TUYẾN BÀI 6: ĐÀO LUYỆN TÍN HỮU DÂN CHÚA

  TRỰC TUYẾN BÀI 5: TẦM NHÌN THIÊN NIÊN KỶ MỚI

  TRỰC TUYẾN BÀI 4: ĐÀO LUYỆN TÂM LINH BẮT ĐẦU TỪ THÁNH THỂ HAY THÁNH KINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 3: PHƯƠNG THỨC CẦU NGUYỆN CẢM NGHIỆM- SỐNG THÁNH GIỮA ĐỜI

  TRỰC TUYẾN: BÀI 2: GIẢI THÍCH ĐÀO LUYỆN TÂM LINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 1: ĐÀO LUYỆN TÂM LINH

  TintucVatican

  Thánh Lễ Tuyên Thánh Jacinta và Francisco Marto

  Muối và ánh sáng

  Thế Giới Nhìn Từ Vatican

  Nghi thức đóng Cửa Thánh

  Xin Mẹ Thương

  Thế Giới Nhìn Từ Vatican

  Suy Niệm với Đức Thánh Cha Phanxicô

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__3

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__1

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__2

  Thường huấn HĐMVGX Ban Mê Thuật

  Quốc tế thiếu nhi 01-6-2014

  Thể dục Dưỡng Sinh

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  CƠM TRƯA TRUNG THU 2013

  Thi đấu thăng cấp sơ đẳng Vovinam

  Khai mạc kỳ thi thăng cấp Vovinam

  Vovinam

  Đào luyện tâm linh

  Nghệ thuật cân bằng

  Đào Luyện Tinh Thần

  Đào Luyện Thể Chất

Bài viết mới
Mười hai lời khuyên của Đức Thánh Cha Phanxicô để trở thành người cừ khôi trong việc loan báo Tin Mừng
Mười hai lời khuyên của Đức Thánh Cha Phanxicô để trở thành người ...
Công bố tự truyện của Đức Thánh Cha Phanxicô
Công bố tự truyện của Đức Thánh Cha Phanxicô
Người dân Ai Len bỏ phiếu chống đề xuất sửa đổi định nghĩa về gia đình trong hiến pháp
Người dân Ai Len bỏ phiếu chống đề xuất sửa đổi định nghĩa ...
Mười một năm Giáo hoàng của Đức Thánh Cha Phanxicô
Mười một năm Giáo hoàng của Đức Thánh Cha Phanxicô