SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG TUẦN BÁT NHẬT PHỤC SINH
Lm. Phêrô Thanh Hà
Lời Chúa
Mt 28,8-15
Khi ấy, các bà vội ra khỏi mồ vừa sợ lại vừa hớn hở vui mừng, chạy báo tin cho các môn đệ Chúa. Và này Chúa Giêsu đón gặp các bà, Người nói: "Chào các bà". Các bà liền lại gần ôm chân Người và phục lạy. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo: "Các bà đừng sợ. Hãy đi báo tin cho các anh em Ta phải trở về Galilêa, rồi ở đó họ sẽ gặp Ta".
Ðang khi các bà lên đường, thì mấy người lính canh vào thành báo tin cho các thượng tế biết tất cả những gì đã xảy ra. Các thượng tế liền họp với các kỳ lão, và sau khi đã bàn định, họ cho lính một số tiền lớn và bảo rằng: "Các anh hãy nói rằng: Ban đêm khi chúng tôi đang ngủ, thì môn đệ ông đến lấy trộm xác ông. Nếu việc này đến tai tổng trấn, chúng tôi sẽ thương lượng với ông, không để các anh phải phiền hà đâu". Bọn lính canh nhận tiền và đã làm y như họ căn dặn chúng. Bởi thế, lời đó được phao truyền nơi người Do-thái cho đến ngày nay.
Suy Niệm
Con người thay đổi chính mình thật khó biết bao!
Ca dao tục ngữ có câu: ‘non sông dễ đổi, bản tính khó dời’. Câu ca dao trên không những có ý nghĩa về mặt văn chương, mà còn rất thiết thực trong đời sống của chúng ta, cụ thể qua bài Tin Mừng hôm nay. Thời gian đủ để cho con người nhận ra sự thật về Chúa Giêsu, bởi vì Ngài đã từng làm phép lạ, rao giảng, chịu đau khổ, chết trên thập giá và sống lại. Khi Chúa Giêsu tắt thở, viên sĩ quan đã từng thốt lên: ‘Quả thật, người này là con Thiên Chúa’ (Mt 27,54b). Tiếc thay, số người nhận ra Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật còn quá ít. Ngược lại, số người sống theo suy nghĩ ‘trần gian’ rất nhiều, như những người Pharisiêu. Dù biết rõ, Chúa Giêsu đã phục sinh nhưng họ tìm cách để đổi trắng thay đen. Thay vì loan truyền việc Chúa Giêsu phục sinh, các ông đã lập mưu, dựng một màn kịch xảo trá để chối từ việc sống lại của Ngài: ‘Các anh hãy nói như thế này: Ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm xác. Nếu sự việc này đến tai quan tổng trấn, chính chúng tôi sẽ dàn xếp với quan và lo cho các anh được vô sự’ (Mt 28,13-14).
Qua câu chuyện dàn xếp của những người Pharisiêu và hình ảnh rất ý nghĩa của các chị em phụ nữ ra viếng xác Chúa, chúng ta nhận ra sự thật về sự phục sinh của Chúa Giêsu. Là con cái Chúa, chúng ta sống và làm theo lời Chúa dạy. Ngược lại, nếu chúng ta từ chối Thiên Chúa, chúng ta sẽ làm theo sự hướng dẫn của ‘trần gian’. Cha Thánh Gioan-Vianney nói: ‘Con cái của Chúa luôn làm theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Con cái của ma quỷ làm theo sự hướng dẫn của tối tăm. Con cái Chúa Thánh Thần được trang điểm bằng các nhân đức. Con cái ma quỷ thì trang điểm bằng những mưu mô độc ác…’. Theo ngài, đó là một trong những lý do làm cho tâm hồn chúng ta khó thay đổi. Vậy, muốn thay đổi chúng ta phải quyết tâm đứng lên để đi về cùng Cha của chúng ta như người con hoang đàng (Lc 15,11-32). Muốn thay đổi, cần mời Chúa ngự vào ‘tâm hồn’ chúng ta và quyết tâm từ bỏ những việc làm không tốt như Lê-vi (Lc 5,27-32).
Lạy Chúa, chúng con là kẻ tội lỗi, chúng con yếu đuối, nhất là việc hoán cải tâm hồn chúng con. Xin cho tâm hồn chúng con cũng được ‘phục sinh’ với Chúa để chúng con sống và làm theo lời Chúa dạy, hầu mang niềm vui và hạnh phúc cho nhiều người, nhất là trong tuần Bát nhật phục sinh này.
Lời Chúa
Ga 20,11-18
Khi ấy, bà Maria đang còn đứng gần mồ Chúa mà than khóc. Nhìn vào trong mồ, bà thấy hai thiên thần mặc áo trắng đang ngồi nơi đã đặt xác Chúa Giêsu, một vị ngồi phía đàng đầu, một vị ngồi phía đàng chân. Hai vị hỏi: "Tại sao bà khóc?" Bà trả lời: "Người ta đã lấy mất xác Chúa tôi và tôi không biết người ta đã để Người ở đâu?" Vừa nói xong, bà quay mặt lại, thì thấy Chúa Giêsu đã đứng đó, nhưng bà chưa biết là Chúa Giêsu. Chúa Giêsu hỏi: "Bà kia, sao mà khóc, bà tìm ai?" Tưởng là người giữ vườn, Maria thưa: "Thưa ông, nếu ông đã mang xác Người đi, thì xin cho tôi biết ông đã đặt Người ở đâu, để tôi đến lấy xác Người". Chúa Giêsu gọi: "Maria". Quay mặt lại, bà thưa Người: "Rabboni!" (nghĩa là "Lạy Thầy!"). Chúa Giêsu bảo bà: "Ðừng động đến Ta, vì Ta chưa về cùng Cha Ta. Nhưng hãy đi báo tin cho các anh em Ta hay và bảo họ rằng: Ta về cùng Cha Ta, cũng là Cha các con; về cùng Thiên Chúa Ta, cũng là Thiên Chúa các con". Maria Mađalêna đi báo tin cho các môn đệ rằng: "Tôi đã trông thấy Chúa và Chúa đã phán với tôi những điều ấy".
Suy Niệm
Người ta thường nói: ‘Sau cơn mưa trời lại sáng’. Còn Chúa Giêsu từng dạy các tông đồ là sau thập giá sẽ đến vinh quang. Thật vậy, qua đoạn Tin Mừng hôm nay, bà Maria rất hạnh phúc sau những giọt nước mắt (Ga 20,13-16). Bà khóc khi Chúa bị đánh đòn, khi Chúa chết trên thập giá. Bà khóc vì sự đau đớn của Chúa Giêsu; khóc vì sự yếu hèn của con người và khóc vì tình thương của bà dành cho Chúa. Hôm nay bà khóc vì xác của Chúa Giêsu biến mất. Từ đau buồn này nối tiếp đau buồn khác nhưng nỗi buồn biến thành niềm vui. Vui vì xác Chúa không những không bị mất, nhưng xác của Ngài đã phục sinh và hiện ra với bà. Thật là hạnh phúc khi tìm được những gì mình tưởng chừng đã mất nhưng tìm lại được (Ga 20,18).
Có lẽ ai trong chúng ta từng có cảm nghiệm nỗi buồn biến thành niềm vui. Có người mất vật chất. Có người vì lý do nào đó đánh mất niềm hy vọng. Có người cách này hay cách khác đánh mất niềm tin, đánh mất tình yêu… nhưng đã tìm lại được. Nếu những ai còn đang mang nỗi buồn, chúng ta hãy noi gương bà Maria chạy đến với Chúa phục sinh để Ngài đong đầy niềm vui, hạnh phúc cho chúng ta, cách riêng là trong những ngày hoan lạc mừng Chúa sống lại. Thấu hiểu điều này, Thánh Gioan Vianey khuyên chúng ta: ‘Khi các thập giá vào đau khổ đến, chúng ta cũng hãy qùy gối trong vườn cây Dầu; chúng ta hãy uống cạn chén đắng đồi Golgotha; chúng ta hãy ngẩng đầu lên với lòng dũng cảm và với lòng nhiệt thành thánh thiện. theo sau ngày thứ Sáu tuần thánh là buổi sáng vui mừng phục sinh của Thiên Chúa nhập thể, và chúng ta cũng có một ngày vui mừng như vậy. Bởi vì nếu chúng ta cùng chịu đau khổ với Đức Ki-tô, chúng ta cũng sẽ được hưởng vinh quang với Người’ (Sermon of St. Gioan Vianney, p. 340-342)
Lạy Chúa, hằng năm chúng con đều mừng lễ Phục Sinh với tâm hồn đầy phấn khởi hân hoan, nhưng chúng con không hoàn toàn giữ được niềm vui đó trong cuộc sống vì nhiều thử thách. Xin cho chúng sức mạnh để vượt qua những thử thách và luôn xác tín điều Chúa dạy: Sau thập giá là vinh quang.
Lời Chúa
Lc 24,13-35
Cùng ngày thứ nhất trong tuần, có hai môn đệ đi đến một làng tên là Emmaus, cách Giêrusalem độ sáu mươi dặm. Dọc đường, các ông nói với nhau về những việc vừa xảy ra. Ðang khi họ nói truyện và trao đổi ý kiến với nhau, thì chính Chúa Giêsu tiến lại cùng đi với họ, nhưng mắt họ bị che phủ nên không nhận ra Người. Người hỏi: "Các ông có truyện gì vừa đi vừa trao đổi với nhau mà buồn bã vậy?" Một người tên là Clêophas trả lời: "Có lẽ ông là khách hành hương duy nhất ở Giêrusalem mà không hay biết những sự việc vừa xảy ra trong thành mấy ngày nay". Chúa hỏi: "Việc gì thế?" Các ông thưa: "Sự việc liên can đến ông Giêsu quê thành Nadarét. Người là một vị tiên tri có quyền lực trong hành động và ngôn ngữ, trước mặt Thiên Chúa và toàn thể dân chúng. Thế mà các trưởng tế và thủ lãnh của chúng ta đã bắt nộp Người để xử tử và đóng đinh Người vào thập giá. Phần chúng tôi, chúng tôi vẫn hy vọng Người sẽ cứu Israel. Các việc ấy đã xảy ra nay đã đến ngày thứ ba rồi. Nhưng mấy phụ nữ trong nhóm chúng tôi, quả thật đã làm chúng tôi lo sợ. Họ đến mồ từ tảng sáng. Và không thấy xác Người, họ trở về nói đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng: Người đang sống. Vài người trong chúng tôi cũng ra thăm mồ và thấy mọi sự đều đúng như lời các phụ nữ đã nói; còn Người thì họ không gặp". Bấy giờ Người bảo họ: "Ôi kẻ khờ dại, chậm tin các điều tiên tri đã nói! Chớ thì Ðấng Kitô chẳng phải chịu đau khổ như vậy rồi mới được vinh quang sao?" Ðoạn Người bắt đầu từ Môsê đến tất cả các tiên tri, giải thích cho hai ông tất cả các lời Kinh Thánh chỉ về Người. Khi gần đến làng hai ông định tới, Người giả vờ muốn đi xa hơn nữa. Nhưng hai môn đệ nài ép Người rằng: "Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã về chiều, và ngày sắp tàn". Người liền vào với các ông.
Ðang khi cùng các ông ngồi bàn, Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông. Mắt họ sáng ra và nhận ra Người. Ðoạn Người biến mất. Họ bảo nhau: "Phải chăng lòng chúng ta đã chẳng sốt sắng lên trong ta khi Người đi đường đàm đạo và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó ư?" Ngay lúc ấy họ chỗi dậy trở về Giêrusalem, và gặp mười một tông đồ và các bạn khác đang tụ họp. Các vị đó bảo hai ông: "Thật Chúa đã sống lại, và đã hiện ra với Simon". Hai ông cũng thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào.
Suy Niệm
Tôi còn nhớ bài thơ ‘footprints in the sand’ tạm dịch là 'dấu chân trên cát' như sau:
Một đêm kia, tôi nằm mơ,
Tôi thấy mình đang đi bộ trên bãi cát với Thiên Chúa.
Những cảnh sống trong cuộc đời tôi chợt hiện ra trên bầu trời.
Trong mỗi cảnh đời, tôi nhận thấy có những dấu chân trên bãi cát.
Nhiều khi có dấu vết của hai đôi chân,
Nhưng cũng có lúc chỉ hiện dấu một đôi chân trên cát.
Điều làm tôi xiết bao buồn bã:
Trong những lúc đời tôi ưu sầu và phiền muộn,
Thất bại, thống khổ và đau đớn,
Thì tôi chỉ thấy có một đôi chân trên bãi cát mà thôi.
Vì thế tôi liền giận dỗi nói với Chúa rằng:
‘Lạy Chúa, Chúa đã hứa với con: nếu con đi theo Chúa,
thì Chúa luôn bước đi song hành với con.
Nhưng con đã thấy rồi:
Trong những giây phút khó khăn nhất của đời con.
Lại chỉ có một đôi chân trên cát.
Tại sao, tại sao khi con cần Chúa nhất,
Chúa không thường ở cạnh bên con?’
Và Thiên Chúa âu yếm trả lời:
‘Con yêu dấu ơi,
Khi con chỉ thấy dấu một đôi chân trên bãi cát,
Đó chính là vì ... Cha cõng con trên vai!’
Nội dung của bài thơ footprints diễn tả đôi nét nội dung của bài Tin Mừng hôm nay. Trước khi gặp Chúa Giêsu Phục Sinh, lòng các ông đầy hoang mang, buồn chán và thất vọng, những ước mộng đã tan tành và cuộc đời gần như vô phuơng mất huớng. Các ông đã từ bỏ nhóm, từ bỏ Giêrusalem với bao nhiêu dấu ấn buồn vui kỷ niệm với Thầy mình và với anh em. Các ông lê từng bước chân thất thểu mệt mỏi trên chặng đuờng dài để về quê quán của mình. Một ngày đi bên nhau, một ngày trò truyện với “Người Khách Lạ”, các ông đã không nhận ra “Người Khách Lạ” đó chính là Thầy mình, vì con mắt các ông bị che phủ bởi những tối tăm của hoang mang hốt hoảng, tâm hồn các ông vẫn còn bị đóng lại bởi những lo âu buồn chán và thất vọng.
Trong những lúc khó khăn nhất, khủng hoảng nhất, thất vọng nhất, Chúa Giêsu Phục Sinh vẫn hiện diện, đồng hành và đồng bàn với các ông. Ngài dùng Kinh Thánh để trò truyện với các ông. Ngài tế nhị gợi lên niềm vui và hy vọng nơi các ông, từ từ đưa các ông đến chỗ nhận ra Ngài trong cử chỉ quen thuộc khi Ngài bẻ bánh và dâng lời chúc tụng. Có thể tóm lại như sau: Lúc hai môn đệ cảm thấy thất vọng nhất là lúc Chúa mang lại niềm vui và hạnh phúc. Lúc họ cảm thấy cô đơn nhất thì có Chúa đồng hành với họ. Điều quan trọng là Chúa đã trao cho họ sự sống mới, tinh thần mới, khi cùng nhau cử hành nghi thức bẻ bánh.
Lạy Chúa, chúng con đang vui mừng sống mầu nhiệm Chúa phục sinh. Xin Chúa giúp chúng luôn ý rằng, Chúa đang đồng hành với chúng con trong mọi hoàn cảnh, đặc biệt là những lúc khó khăn nhất. Xin Chúa ban cho chúng con tinh thần mới, sự sống mới, lòng nhiệt thành mới và nhất là tình yêu mới như hai môn đệ trong bài Tin Mừng hôm nay. Xin Chúa giúp chúng con năng lãnh nhận Bí Tích thánh thể, từ đó chúng con mang Tin Mừng phục sinh của Chúa đến cho tha nhân trong đời sống Ki-tô hữu của chúng con.
Lời Chúa
Lc 24,35-48
Khi ấy, hai môn đệ thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào. Mọi người còn đứng bàn chuyện thì Chúa Giêsu hiện ra đứng giữa họ và phán: "Bình an cho các con! Này Thầy đây, đừng sợ". Nhưng mọi người bối rối tưởng mình thấy ma. Chúa lại phán: "Sao các con bối rối và lòng các con lo nghĩ như vậy? Hãy xem tay chân Thầy: chính Thầy đây! Hãy sờ mà xem: ma đâu có xương thịt như các con thấy Thầy có đây". Nói xong, Người đưa tay chân cho họ xem. Thấy họ còn chưa tin, và vì vui mừng mà bỡ ngỡ, Chúa hỏi: "Ở đây các con có gì ăn không?" Họ dâng cho Người một mẩu cá nướng và một tảng mật ong. Người ăn trước mặt các ông và đưa phần còn lại cho họ. Ðoạn Người phán: "Ðúng như lời Thầy đã nói với các con khi Thầy còn ở với các con, là: cần phải ứng nghiệm hết mọi lời đã ghi chép về Thầy trong luật Môsê, trong sách tiên tri và thánh vịnh". Rồi Người mở trí cho các ông am hiểu Kinh Thánh.
Người lại nói: "Có lời chép rằng: Ðấng Kitô sẽ phải chịu thương khó và ngày thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống lại. Rồi phải nhân danh Người rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội cho muôn dân, bắt đầu từ thành Giêrusalem. Còn các con, các con sẽ làm chứng nhân về những điều ấy".
Suy Niệm
Bình an là quà tặng của Thiên Chúa dành cho con người. Tiếc thay, đôi khi con người không biết quý trọng món quà ấy của Chúa ban với nhiều lý do. Có thể là do tác động từ bên ngoài như: Cuộc sống sôi động, cuộc sống thiếu thành thật, cuộc sống quá bon chen. Ngoài ra, chúng ta đánh mất bình an là do chính bản thân như: Sự sợ hãi, sự lo âu, sự chán nản và những việc làm sai trái… dẫn đến lung lay đức tin, mất niềm hy vọng, mất niềm cậy trông vào Chúa.
Nhìn lại các tông đồ, các ông đã nhiều lần đánh mất bình an khi các ông xa Chúa. Cụ thể:
- Khi các ông gặp giông bão (Ga 6,16-21). Nhưng khi có Chúa hiện diện, lòng các ông cảm thấy bình an và hạnh phúc.
- Khi Chúa Giêsu bị bắt, bị đánh đòn và chết trên thập giá chắc chắn lòng các ông bất an – trốn vào phòng kín (Ga 20,18). Thấu hiểu được điều đó, sau khi Chúa Giêsu phục sinh, Ngài trao ban bình an cho các ông: ‘Bình an cho anh em’ (Ga 20,21).
Khi nhận được sự bình an của Thiên Chúa, các ông thay đổi cuộc sống vì thấy cuộc đời có ý nghĩa hơn như hai môn đệ trên đường về Emmau và các tông đồ khác. Đặc biệt, các ông cảm thấy cuộc đời rất hữu dụng và tràn đầy hạnh phúc khi ra đi rao giảng Tin Mừng của Chúa mà không sợ hãi như thánh Phêrô mạnh dạn nói với thượng hội đồng Do thái: ‘Vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người ta’ (Cv 5,9).
Thật vậy, vâng lời Thiên Chúa và giữ các điều Chúa truyền dạy là cách tốt nhất để chúng ta tìm được sự bình an và hạnh phúc như các tổ phụ, các tiên tri và các thánh dù họ gặp nhiều thử thách trong cuộc sống. Thử thách ở trần gian không ngăn cản bước đường tìm kiếm hạnh phúc mà Chúa ban cho họ, từ đó họ chia sẻ cho tha nhân. Đức Thánh Cha Phanxicô viết như sau: ‘Những ai đã mở cửa tâm hồn mình cho tình yêu của Thiên Chúa, đã nghe thấy giọng nói của Ngài và nhận được ánh sáng của Ngài, thì không thể giữ món quà này cho riêng mình. Vì khi đức tin được nghe và được thấy, nó cũng được truyền lại như lời nói và ánh sáng’ (Đức Phanxicô, Thông điệp Lumen Fidei, 37).
Mỗi người được Chúa trao ban món quà bình an, xin Chúa cho chúng con biết gìn giữ trong tâm hồn, nhất là biết trao ban cho anh em và cùng giúp nhau đạt tới bình an đích thực trên trời mà Chúa dành cho chúng ta.
Lời Chúa
Ga 21,1-14
Khi ấy, lúc các môn đệ đang ở bờ biển Tibêria, Chúa Giêsu lại hiện đến. Công việc đã xảy ra như sau: Simon Phêrô, Tôma cũng gọi là Ðiđymô, Nathanael quê tại Cana xứ Galilêa, các con ông Giêbêđê, và hai môn đệ nữa đang ở với nhau. Simon Phêrô bảo: "Tôi đi đánh cá đây". Các ông kia nói rằng: "Chúng tôi cùng đi với ông". Mọi người ra đi xuống thuyền. Nhưng đêm ấy các ông không bắt được con cá nào. Lúc rạng đông, Chúa Giêsu hiện đến trên bờ biển, nhưng các môn đệ không biết là Chúa Giêsu. Người liền hỏi: "Này các con, có gì ăn không?" Họ đồng thanh đáp: "Thưa không". Chúa Giêsu bảo: "Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được". Các ông liền thả lưới và hầu không kéo nổi lưới lên, vì đầy cá. Người môn đệ Chúa Giêsu yêu, liền nói với Phêrô: "Chính Chúa đó". Simon Phêrô nghe nói là Chúa, liền khoác áo vào, vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. Các môn đệ khác chèo thuyền vào và kéo lưới đầy cá theo, vì không còn xa đất bao nhiêu, chỉ độ hai trăm thước tay. Khi các ông lên bờ, thấy có sẵn lửa than, trên để cá và bánh. Chúa Giêsu bảo: "Các con hãy mang cá mới bắt được lại đây". Simon Phêrô xuống thuyền kéo lưới lên bờ. Lưới đầy toàn cá lớn; tất cả được một trăm năm mươi ba con. Dầu cá nhiều đến thế, nhưng lưới không rách. Chúa Giêsu bảo rằng: "Các con hãy lại ăn". Không ai trong đám ngồi ăn dám hỏi: "Ông là ai?" Vì mọi người đã biết là Chúa. Chúa Giêsu lại gần, lấy bánh trao cho các môn đệ; Người cũng cho cá như thế. Ðây là lần thứ ba, Chúa Giêsu đã hiện ra với môn đệ khi Người từ cõi chết sống lại.
Suy Niệm
Sau khi đọc bài Tin Mừng hôm nay, tôi có cảm giác thật vui tươi và hạnh phúc. Vui vì được hòa cùng Giáo hội mừng lễ phục sinh. Hạnh phúc vì cảm nhận được tình thương của Chúa dành tôi như Chúa đã trao ban cho các tông đồ năm xưa.
Khởi đầu sứ mạng rao giảng, Chúa Giêsu kêu gọi bốn tông đồ đầu tiên; các ông tin tưởng vào Chúa Giêsu (Mt 4,18-22). Không một chút do dự hoặc nghi vấn điều gì, các ông từ bỏ mọi sự để đi theo Chúa Giêsu. Thời gian đi theo Chúa, đôi lần các ông gặp những khó khăn và thất bại. Nhưng hôm nay, sắp kết thúc hành trình đi theo Chúa, các ông tràn đầy hạnh phúc. Hạnh phúc vì được Chúa đồng hành với các ông. Hạnh phúc vì được Chúa Giêsu phục sinh hiện ra và làm phép lạ cho các ông. Hạnh phúc vì được Chúa mời gọi vào ăn với Chúa: ‘Anh em hãy đến mà ăn!’ (Ga 21,12a); và hạnh phúc nhất là các ông nhận ra Chúa Giêsu đã phục sinh và sẽ hiện diện với các ông luôn mãi qua lời hứa: ‘Thầy sẽ ở cùng với các con mọi ngày chó đến tận thế’ (Mt 28,20).
Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa đã yêu thương con từ khi còn trong lòng mẹ; cho con được sinh ra làm người và được tẩy rửa trong dòng nước tinh tuyền của Chúa (Bí tích Rửa Tội); Ngài cho chúng con được ăn và uống máu của Ngài (Bí tích Thánh Thể). Xin cho chúng con biết ở lại trong tình yêu của Chúa như cành nho gắn liền với cây nho để chúng con luôn sống hạnh phúc và bình an ở hiện tại và tương lai như các tông đồ năm xưa. Amen.
Lời Chúa
Mc 16,9-15
Khi Chúa Giêsu sống lại, sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, thì trước hết Người hiện ra với Maria Mađalêna, kẻ đã được Chúa đuổi bảy quỷ. Bà đi báo tin cho những kẻ đã từng ở với Người và nay đang buồn thảm khóc lóc. Họ nghe bà nói Chúa sống lại và bà đã thấy Người, nhưng họ không tin. Sau đó, Chúa lại hiện ra dưới hình thức khác với hai môn đệ đang trên đường về miền quê. Hai ông trở về báo tin cho anh em, nhưng họ cũng không tin các ông ấy. Sau hết, Chúa hiện ra với mười một tông đồ lúc đang ngồi ăn. Chúa khiển trách các ông đã cứng lòng, vì các ông không tin những kẻ đã thấy Người sống lại. Rồi Người phán: "Các con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cho muôn loài".
Suy Niệm
Tôi nhớ, tuần tĩnh tâm của các linh mục địa phận Cần Thơ từ ngày 13 đến 17 tháng 01 năm 2014 diễn ra tốt đẹp, đặc biệt là giờ tiếng nói Giám mục trong ngày sau cùng. Đức Cha Stêphanô nhắn nhủ nhiều điều cho linh mục đoàn, cách riêng là ngài quan tâm đến việc truyền giáo. Đức cha nói: ‘Chúng ta không chỉ quan tâm đến bốn con chiên, nhưng chúng ta còn phải quan tâm đến chính mươi sáu con chiên khác’. Bốn con chiên Đức cha đề cập ở trên là tỉ lệ người công giáo ở Việt Nam trên dưới bốn phần trăm so với dân số Việt Nam (88 triệu). Chín mươi sáu con chiên khác là những người chưa biết Chúa, nên chúng ta cần quan tâm, cụ thể là việc truyền giáo.
Đọc bài Tin Mừng hôm nay cách đây 2000 năm, Chúa Giêsu rất quan tâm đến việc truyền giáo, cuối đoạn Tin Mừng, Chúa mời gọi các tông đồ ra đi rao giảng Tin Mừng: ‘Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo’ (Mc 16,15). Tại sao Chúa Giêsu muốn các tông đồ ra đi rao giảng nước Thiên Chúa? Vì Ngài muốn mọi người nhận ra được Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Ngài muốn mọi người được tham dự vào tiệc nước trời: ‘Ra các ngã ba, ngã tư mời họ vào dự tiệc’ (Lc 14,21-23). Ngài cũng muốn cho Danh Cha được cả sáng (Mt 6,9), và sau cùng là muốn cho mọi người chúng ta trở nên con cái của Cha trên trời.
Lạy Chúa, sứ vụ truyền giáo rất cấp bách nhưng đôi khi chúng con chưa quan tâm đủ. Xin Chúa giúp chúng con hăng say rao giảng Tin Mừng phục sinh của Chúa, cách riêng trong năm Tân Phúc Âm hóa gia đình. Ngoài ra, xin Chúa ban bình an, nghị lực và lòng nhiệt thành cho chúng con như các tông đồ và các nhà truyền giáo xưa nay. Amen.
Các tin khác