Thứ tư, ngày 03 tháng 07 năm 2024 | 03:53 PM - Giới thiệu | Ý nghĩa logo
Truyền thông

Tìm hiểu tại sao Tân Phúc-Âm-hoá

 

Truyen_giaoToàn thể Giáo hội hôm nay đang tập trung quan tâm đến Tân Phúc-Âm-hóa. Năm 2010 Đức Bênêđictô XVI lập Hội Đồng Tòa Thánh lo thúc đẩy việc Tân Phúc-Âm-hóa, đến năm 2012 ngài họp Thượng Hội đồng Giám mục thế giới khóa 13 bàn về đề tài "Tân Phúc-Âm-hóa để thông truyền Đức tin Kitô giáo". Vì thế ta sẽ cố gắng tìm hiểu một lần đến nơi đến chốn, để cảm thông với Giáo hội và góp phần vào việc Tân Phúc-Âm-hóa. Ta sẽ tìm hiểu về ý nghĩa mỗi chữ rồi đến ý nghĩa các cụm từ.

 

1. Ý nghĩa mỗi chữ

Trong tập Bài giảng Chúa Nhật của Tòa Tổng Giám Mục Sài Gòn, tháng 2-2013, mục "Mỗi tháng một từ", linh mục Huỳnh Trụ đã có bài viết nghiên cứu đầy đủ; ở đây chỉ tóm tắt những gì cốt yếu giúp ta hiểu thôi.

– Nghĩa chữ "Tân": Tân có 12 chữ Hán, nghĩa chính là: "mới", thay đổi cho mới, những cái mới, những gì mới xuất hiện.

– Nghĩa chữ "Phúc": Phúc có 9 chữ Hán, nghĩa chính là: những sự tốt lành, điều may, những điều tốt đẹp trời đất ban để thỏa mãn nguyện vọng của con người.

– Nghĩa chữ "Âm": Âm có 11 chữ Hán, nghĩa chính là tiếng phát ra bởi vật thể bị chấn động, tin tức.

– Nghĩa chữ "Hóa": Hóa có 2 chữ Hán, nghĩa chính là dạy, giáo dục, thay đổi, biến chất. Nếu đặt sau danh từ hay tĩnh từ thì có nghĩa là chuyển biến trạng thái hay tính chất của vật, làm cho trở thành, biến thành, làm cho thấm nhuần.

 

Trong cụm từ Tân Phúc-Âm-hóa phải lưu ý phân biệt, nếu coi Tân là bổ nghĩa cho Phúc-Âm-hóa thì mới hiểu được là việc hay công cuộc Phúc-Âm-hóa được đổi mới, canh tân. Nếu coi Tân chỉ bổ nghĩa cho Phúc Âm mà thôi thì sẽ là Phúc Âm mới: ta nghĩ xem có Phúc Âm mới không, nếu có thì nó thế nào? Ta phải nắm vững ngay rằng không bao giờ có Phúc Âm mới, vì chỉ có một Phúc Âm duy nhất mà Đức Giêsu Kitô đem đến cho mọi người "Đức Giêsu Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi là một" (Dt,13,8). Ta sẽ tiếp tục tìm hiểu ý nghĩa các cụm từ.

 

2. Phúc Âm

Phúc Âm hay Tin Mừng là cụm từ dịch tiếng Hi Lạp euaggelion nghĩa là tin vui thắng trận. Thời trước đây quen gọi là Evan: đọc Evan, sách Evan. Sau mới dịch là Phúc Âm. Linh mục Phan Tấn Thành cho biết: "Hồi còn nhỏ cách đây 60 năm khi đi lễ Chúa Nhật tôi được nghe đọc sách Evan. Khi đi tu cách đây 55 năm tôi được nghe đọc sách Phúc Âm". Từ thập niêm 60, chữ Phúc Âm được phổ biến khắp Việt Nam: sách Phúc Âm, rao giảng Phúc Âm, các lời khuyên Phúc Âm. Sang thập niên 90, thấy từ Tin Mừng dần dần xuất hiện trong Thánh đường, rồi trong sách vở (xem Hiệp Thông số 73 tháng 11 & 12). Có người đoán rằng Phúc Âm là tiếng Hán, được dùng từ thời các cố, các cụ già xưa, người bình dân sau này khó hiểu; còn Tin Mừng là tiếng Nôm, tiếng Việt dễ hiểu, gần với tin lành, tin vui, như tin trúng số, tin thi đậu... Tuy nhiên, theo linh mục Huỳnh Trụ thì Tin Mừng chỉ có nội dung đơn giản (tin chiến thắng, tin vui, tin lành) còn Phúc Âm thì có nội dung rất phong phú, sâu sắc, bao hàm nhiều điều tốt đẹp may mắn trời đất cho, để con người được thỏa mãn mơ ước của mình, lại gần với triết lý và văn hóa Đông Phương, có Ngũ Phúc hay Phúc Lộc Thọ, nhất là có thể hội nhập với giáo lý Kitô giáo. Từ Phúc Âm có nghĩa tuyệt vời như vậy, tại sao lại thích từ mới là Tin Mừng, chỉ gợi ra ý nghĩa hạn hẹp nghèo nàn. Vì thế trong bài này tôi sẽ dùng Phúc Âm thay Tin Mừng, mặc dầu rất nhiều tài liệu vẫn dùng cả Phúc Âm và Tin Mừng lẫn lộn (nhưng không thấy dùng "những lời khuyên Tin Mừng" và cũng không thấy dùng "Tân Tin Mừng hóa"). Bây giờ ta tìm hiểu ý nghĩa cụm từ Phúc Âm. Cụm từ Phúc Âm bao hàm một nội dung rất gần gũi với đức tin Kitô giáo, có thể hiểu cụm từ này theo 3 nghĩa:

 

– Phúc Âm của Đức Kitô (có từ đầu thế kỷ I)

– Phúc Âm về Đức Giêsu Kitô (có từ giữa thế kỷ I)

– Phúc Âm là sách ghi chép về cuộc đời và giáo huấn của Đức Giêsu Kitô (có từ thế kỷ II)

 

2.1 Phúc Âm của Đức Kitô: là tin đem lại hạnh phúc do chính Đức Giêsu Kitô là Con Đức Chúa Cha được cử đến trần gian, để báo cho mọi người biết rằng: Thiên Chúa Ba Ngôi vì tình yêu đã sáng tạo vũ trụ và con người, chia sẻ hạnh phúc cho con người. Nhưng con người nghe ma quỷ cám dỗ không muốn vâng phục Thiên Chúa rồi sa ngã trong tội lỗi, đau khổ triền miên. Thiên Chúa vẫn thương, đã cử Đức Giêsu Kitô đến trần gian, không những để báo tin Thiên Chúa sẽ cứu rỗi, và còn trao cho Đức Giêsu Kitô sứ vụ cứu rỗi bằng hiến mạng sống cứu chuộc tội lỗi loài người, để quy tụ tất cả mọi vật mọi người về hưởng hạnh phúc trong nước Thiên Chúa (Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 516-518). Như thế nội dung của Phúc Âm của Đức Giêsu Kitô là: Thiên Chúa yêu thương con người đã cứu rỗi và cứu chuộc con người. Và lịch sử Giáo hội là lịch sử việc Đức Giêsu Kitô loan báo Phúc Âm và thiết lập Nước Thiên Chúa ở trần gian, đem lại hạnh phúc thật cho con người. Muốn hiểu đúng và sâu nội dung này ta cần tìm hiểu hai từ then chốt là cứu rỗi và cứu chuộc.

 

Cứu rỗi và cứu chuộc đều là chữ Nôm, tiếng của nhà đạo, các tôn giáo khác như Khổng, Phật, Lão giáo không dùng. Cứu rỗi là kéo ra khỏi sự dữ, sự hư mất do tội lỗi, và phục hồi sự toàn vẹn. Cứu chuộc là giải thoát bằng chuộc lại, tìm cách lấy lại cái mình đã làm mất, hoặc đền bù để khỏi bị phạt. Cứu rỗi có nghĩa chung là cứu vớt linh hồn, còn cứu chuộc là cứu rỗi bao gồm việc phải trả giá. Vì thế Thiên Chúa và Đức Giêsu Kitô cứu rỗi, nhưng chỉ mình Đức Giêsu Kitô cứu chuộc. Hai từ này có nghĩa sâu sắc diễn tả đầy đủ rõ ràng công trình cứu rỗi của Thiên Chúa.Thế mà gần đây có nhiều người coi cứu rỗi cứu chuộc là tiếng nôm cổ, do các cố các cụ đặt ra, và thay bằng cứu độ, lấy cớ là tiếng mới, ngắn gọn, nhiều người dùng. Thực ra, theo linh mục Huỳnh Trụ, cứu độ là từ Hán Việt, bên Phật Giáo thường dùng, có nghĩa là cứu giúp như đưa qua từ bờ mê sang bờ ngộ, không bao hàm trọn vẹn ý nghĩa cứu rỗi và cứu chuộc mà chỉ có Thiên Chúa mới làm được. Vì thế không nên chọn cái tưởng là mới là hay mà chỉ có ý nghĩa hạn hẹp chung chung, để bỏ hai từ then chốt trong Kitô giáo (xem Tìm hiểu từ vựng Công giáo của linh mục Huỳnh Trụ).

 

2.2 Phúc Âm về Đức Giêsu Kitô, là lời rao giảng của các tông đồ và môn đệ về Đức Giêsu Kitô và ơn cứu rỗi cứu chuộc do Người mang đến, nghĩa là bao gồm Phúc Âm của Đức Giêsu Kitô như vừa kể ở trên đồng thời cả cuộc đời Đức Giêsu Kitô từ khi giáng sinh, sống ở Nadarét, đi giảng Phúc Âm, chịu tử hình thập giá, sống lại và về trời, sống với Chúa Cha, với Chúa Thánh Thần và với mọi người.

 

2.3 Phúc Âm là những sách ghi chép lại cuộc đời và giáo huấn của Đức Giêsu Kitô. Ta biết việc Đức Giêsu Kitô sống trên trần gian không có ai ghi chép lại, nhưng các tông đồ và các môn đệ sống chung với Người đã ghi nhớ tất cả và loan báo truyền thông cho mọi người. Khi các ngài về già, một số môn đệ đã thu thập những gì được truyền miệng để ghi chép lại thành sách, truyền miệng bằng tiếng Aram và Hi Lạp, còn sách thì trước hết là sách Phúc Âm theo Thánh Maccô, rồi đến Phúc Âm theo Thánh Matthêu, Phúc Âm theo Thánh Luca, sau hết là Phúc Âm theo Thánh Gioan, viết bằng tiếng Hi Lạp.

 

Tóm lại Phúc Âm của Đức Giêsu Kitô và các sách Phúc Âm làm thành nền tảng duy nhất không thể thay đổi để Giáo hội loan báo cho mọi người khắp thế giới cho đến khi Đức Giêsu Kitô lại đến, bởi vì Đức Giêsu Kitô vừa là Phúc Âm vừa là người loan báo Phúc Âm của Thiên Chúa vốn đã được loan báo trong lịch sử Israel qua các ngôn sứ, và được hứa trong Kinh Thánh, Đức Giêsu Kitô là tâm điểm của Phúc Âm, là người đầu tiên và vĩ đại nhất của việc Phúc-Âm-hóa: Phúc Âm của Người và chính Người là một.

 

3. Phúc-Âm-hóa

Phúc-Âm-hóa là cụm từ dịch tiếng La tinh (evangelisatio), xuất hiện từ thế kỷ XIX bên Âu Châu, được Công đồng Vatican II sử dụng, với ý nghĩa là loan báo, truyền giảng, đem Phúc Âm đến cho tất cả mọi tầng lớp nhân loại, để nhờ ảnh hưởng của Phúc Âm biến đổi nhân loại từ bên trong, và làm cho nhân loại nên mới (xem Tông huấn Loan Báo Phúc Âm của Đức Phaolô VI). Nói cách khác, đó là hoạt động đem các giá trị Phúc Âm thấm nhuần vào các thực tại trần thế như men trong bột, để biến đổi mọi sự cho phù hợp với tinh thần Phúc Âm. Nếu đến thế kỷ XIX mới dùng cụm từ này với ý nghĩa vừa kể, thì từ thời Đức Giêsu Kitô và các tông đồ cho đến thế kỷ XIX có Phúc-Âm-hóa không? Chắc chắn là có, và Đức Giêsu Kitô cũng như các tông đồ đã Phúc-Âm-hóa một cách tuyệt vời, chỉ chưa được gọi bằng cụm từ Phúc-Âm-hóa mà thôi. Hơn nữa việc Phúc-Âm-hóa của Đức Giêsu Kitô và các tông đồ còn là nền tảng, là mẫu mực cho mọi cuộc Phúc-Âm-hóa của Giáo hội cho đến ngày Đức Giêsu Kitô lại đến. Ta cần nắm vững việc Phúc-Âm-hóa này để có thể hiểu một cách dễ dàng tại sao lại phải Tân Phúc-Âm-hóa ngày nay.

 

3.1 Việc Phúc-Âm-hóa của Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu Kitô đã Phúc-Âm-hóa bằng cách nào, cho ai, ở đâu và kết quả ra sao?

a/ Phúc-Âm-hóa bằng dùng ngôn ngữ bình dân (tiếng Aram), dễ hiểu, với các dụ ngôn rút ra từ các chuyện trong đời thường, vừa đơn sơ dễ hiểu, vừa thâm thúy sâu sắc, để loan báo Phúc Âm cho mọi người.

b/ Phúc-Âm-hóa bằng toàn bộ đời sống của Người (từ khi sinh ra đến khi chịu chết, sống lại, về trời) đối với Thiên Chúa và mọi người:

– Với Thiên Chúa: người luôn hiệp thông trong vâng phục hoàn toàn ý Chúa Cha, luôn liên hợp với Chúa Thánh Thần để cùng hoạt động cho Phúc Âm. Chính sự liên hợp với Chúa Thánh Thần tạo nên cái mà nhà thần học Paul Tihon gọi là năng động của Phúc Âm. Năng động là sức mạnh sống động có khả năng tác động tích cực làm biến đổi thế giới chung quanh. Năng động của Phúc Âm là sức mạnh sống động của Đức Giêsu Kitô liên hợp với Chúa Thánh Thần, giống như ánh sáng, muối men có khả năng biến đổi, nhân văn hóa và siêu nhiên hóa cả cá nhân lẫn xã hội (xem Paul Tihon, Pour libérer L'Evangile, trang 106).

– Với mọi người: Chính nhờ năng động của Phúc Âm mà Đức Giêsu Kitô đi bước trước đến với mọi người, ưu tiên cho người nghèo, bệnh tật, đau khổ, bị gạt ra bên lề xã hội, để cảm thông, chia sẻ, chữa lành, phục vụ họ. Đức Giêsu Kitô sống hiền lành, khiêm nhường, khó nghèo, không kỳ thị ai. Người còn tín nhiệm chọn gọi một số người làm tông đồ, lập thành Giáo hội của Người để cộng tác như bạn hữu của Người. Cuối cùng Người hiến thân chịu chết trên thập giá như hiến tế cứu chuộc toàn thể nhân loại.

c/ Đức Giêsu Kitô đã Phúc-Âm-hóa người Do Thái là dân riêng của Thiên Chúa trước hết, nhưng cũng muốn Phúc-Âm-hóa tất cả mọi người mà Người gặp trên đất Palestin, những người có thiện cảm cũng như những người chống đối và thù nghịch.

d/ Kết quả việc Phúc-Âm-hóa của Người là biến đổi nhiều người thành tông đồ, thành môn đệ trong Giáo hội Người, tin theo Người và Phúc Âm của Người, sống theo lối sống của Người với Thiên Chúa với mọi người, sẵn sàng sống chết để làm chứng về Người, và tiếp nối sứ vụ Người trao cho. Nhưng quan trọng và cao quý hơn hết là Đức Giêsu Kitô làm vinh danh Chúa Cha, cứu chuộc mọi người mọi vật sinh ra trên trần, từ khởi thủy cho đến tận thế. Việc Phúc-Âm-hóa của Người đã được ghi chép trong các sách Phúc Âm.

 

3.2 Việc Phúc-Âm-hóa của các tông đồ và môn đệ đầu tiên. Nhận huấn lệnh đi khắp thế giới để Phúc-Âm-hóa, các ngài Phúc-Âm-hóa thế nào, cho ai, ở đâu và kết quả thế nào?

a/ Các ngài Phúc-Âm-hóa bằng loan báo Phúc Âm của Đức Giêsu Kitô cùng với Phúc Âm về Đức Giêsu Kitô nghĩa là gồm cả cuộc đời của Đức Giêsu Kitô trên trần gian. Phúc-Âm-hóa bằng can đảm mạnh dạn đi loan bao Phúc Âm cho muôn dân, biến đổi họ thành môn đệ Đức Giêsu Kitô. Nhờ năng động do Thánh Thần của Đức Giêsu Kitô ban cho, các ngài tìm lời lẽ thích hợp với dân chúng để họ dễ hiểu, hội nhập Phúc Âm vào văn hóa của họ như diễn từ của Thánh Phaolô ở Athen (Cv 17,22-32 ). Lúc đầu dùng tiếng Aram, về sau ghi chép lời giảng thành sách Phúc Âm, rồi còn ghi chép công việc Phúc-Âm-hóa của các ngài trong sách Công vụ các tông đồ và trong các thư gửi các giáo đoàn.

b) Phúc-Âm-hóa bằng chính đời sống noi gương Đức Giêsu Kitô để - sống với Thiên Chúa, cùng nhau chuyên cần cầu nguyện, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, ca tụng Thiên Chúa (Cv 2, 42.47) - sống với mọi người theo lối sống của Đức Giêsu Kitô, hòa nhập với mọi người, luôn hiệp thông với nhau, để của chung rồi chia sẻ cho nhau tùy theo nhu cầu (Cv 2,42-44 ) với thái độ hiền lành, khiêm tốn, khó nghèo "sống như Chúa Kitô sống trong mình" (Gl 2,20). Đến cuối đời hầu hết các ngài đã tử vì đạo để làm chứng cho Phúc Âm và trở thành hạt giống trổ sinh các Kitô hữu.

c) Phúc-Âm-hóa người Do Thái và cả những người không phải Do Thái như Hi Lạp, Rôma hay các dân tộc khác ở đất Palestin. Các ngài tuyên xưng đức tin trước giáo quyền Do Thái, dù bị cấm cách bách hại, và cũng làm chứng về Phúc Âm cho cả các nhà cầm quyền Rôma dù bị cầm tù và phải tử vì đạo.

d) Kết quả việc Phúc-Âm-hóa của các ngài là biến đổi được nhiều người trở thành Kitô hữu (bạn của Đức Giêsu Kitô) khiến cộng đoàn ở Giêrusalem mỗi ngày một đông. Khi bị cấm cách, các ngài di tản đến các vùng chung quanh rồi lan tràn khắp đế quốc Rôma để lập nên rất nhiều cộng đoàn Kitô hữu. Mặc dù việc Phúc-Âm-hóa của các ngài bị giáo quyền Do Thái và nhà cầm quyền Rôma cấm đoán bách hại, nhưng chính nhờ thế mà Phúc Âm được loan báo khắp đế quốc Rôma. Việc Phúc-Âm-hóa này được ghi chép trong sách Công vụ các tông đồ, trong các thư gửi các giáo đoàn và trong sách Khải huyền. Tất cả cùng với 4 sách Phúc Âm làm thành sách Tân ước, được viết bằng tiếng Hi Lạp, để mọi người đã được nghe còn có thể đọc nữa.

 

3.3 Việc Phúc-Âm-hóa của Giáo hội. Đức Giêsu Kitô khi ở trần gian đã Phúc-Âm-hóa trong 33 năm, sau đó các tông đồ và môn đệ tiếp tục sứ vụ của Người để Phúc-Âm-hóa đến hết thế kỷ I. Từ thế kỷ II Giáo hội Phúc-Âm-hóa cho đến ngày nay trong suốt 20 thế kỷ, thời gian vừa dài vừa đầy những biến chuyển mới lạ, cần chia làm nhìều thời kỳ để tìm hiểu thấu đáo hơn.

Xin chia ra 3 thời kỳ:

– Thời kỳ 1 từ thế kỷ II đến thế kỷ V

– Thời kỳ 2 từ thế kỷ V đến thế kỷ XV

– Thời kỳ 3 từ thế kỷ XV đến nay

- Thời kỳ 1, từ thế kỷ II đến thế kỷ V

Những ai chủ động trong việc Phúc-Âm-hóa, Phúc-Âm-hóa bằng cách nào, cho ai, ở đâu và kết quả như thế nào?

a/ Giáo Hội loan báo Phúc Âm do sáng kiến của các cá nhân là môn đệ của các tông đồ đã được Phúc-Âm-hóa và lãnh nhận năng động của Phúc Âm, để tiếp tục loan báo Phúc Âm của Đức Giêsu Kitô cùng với Phúc Âm về Đức Giêsu Kitô như các tông đồ đã làm. Phúc Âm này được ghi chép thành sách (thế kỷ II) là sách Tân Ước bằng tiếng Hi Lạp. Đến thế kỷ thứ IV, thánh Hiêrônymô lại dịch sang tiếng Latinh để Kitô hữu Rôma có thể dùng. Giáo hội còn tóm lược giáo lý trong Kinh Tin Kính, Lạy Cha, và trong các bí tích Rửa tội, Thêm sức, Thánh Thể. Giáo hội tiếp xúc với mọi người tùy theo hoàn cảnh sinh sống và nghề nghiệp. Đến thế kỷ thứ IV khi Giáo hội được tự do hoạt động thì các mục tử tổ chức các khóa dự tòng, dạy giáo lý cho người xin vào đạo để khai tâm cho họ.

b/ Giáo hội Phúc-Âm-hóa bằng đời sống noi gương Đức Giêsu Kitô và các tông đồ, để: - đối với Chúa vẫn giữ truyền thống các tông đồ, là chuyên cần cầu nguyện, suy gẫm Phúc Âm, lãnh các bí tích, - đối với nhau và với mọi người là luôn hiệp thông trong tình huynh đệ, chia sẻ cho nhau trong các cuộc lạc quyên, cứu trợ (xem 2 Cr 8, 1-9,15), sống hiền lành, khiêm tốn, khó nghèo và sẵn sàng làm chứng cho Phúc Âm bằng tử đạo như các Kitô hữu đi trước.

c/ Giáo hội Phúc-Âm-hóa những người sống chung quanh cộng đồng mình, người buôn bán hoặc làm nghề với mình, cả những nô lệ hoặc địa chủ và công chức của đế quốc Rôma. Nhưng Giáo hội bắt đầu gặp các tà giáo gây chia rẽ (xem sách Khải huyền đoạn 12 và 13).

d/ Kết quả: Giáo hội có sách Phúc Âm bằng tiếng Hi Lạp cho người Hi Lạp, bằng tiếng La tinh cho người Rôma để học Phúc Âm thường xuyên hơn, Giáo hội biết hội nhập Phúc Âm vào văn hóa Hi Lạp Rôma, tổ chức cộng đoàn có Đức Giáo Hoàng đầu tiên là Linô kế vị thánh Phêrô, các giám mục, linh mục, phó tế hướng dẫn các Kitô hữu, có cơ chế để cử hành phụng vụ Thánh Thể. Nhất là Giáo hội có các giám mục gương mẫu về thánh thiện và khôn ngoan, gọi là các giáo phụ, dạy dỗ về Kinh Thánh, giáo lý, bảo vệ đức tin chống các bè rối mới nổi lên, như Thánh Giustinô, Irênê, Augustinô... các ngài là những nhà thần học đầu tiên. Điều đáng ghi nhớ là Giáo hội vẫn đang sống như "Giáo hội hầm trú" vì trung thành với Phúc Âm, và đã có cả trăm ngàn Kitô hữu tử vì đạo. Kết quả độc đáo hơn cả là Giáo hội đã Phúc-Âm-hóa được hoàng đế Rôma là Constantinô, nên Giáo hội được tự do Phúc-Âm-hóa trên toàn đế quốc Rôma, về sau hoàng đế Rôma còn chọn Kitô giáo làm quốc giáo. Nhưng các bè rối nổi lên làm khó cho Giáo hội, đó là dấu hiệu cho thấy Phúc Âm bắt đầu bị bóp méo sai lệch.

 

- Thời kỳ 2, từ thế kỷ V đến thế kỷ XV

Các bè rối phát triển, Giáo hội phải họp Công đồng để giải quyết (Công đồng Nixê và Ephêxô). Không còn được tử đạo, Kitô hữu chuyển sang lý tưởng tu dòng (thánh Antôn tu rừng, thánh Bênêđictô). Các tu viện với các tu sĩ đã trở nên những trung tâm nuôi dưỡng tinh thần Phúc Âm và văn hóa trong các miền nông thôn. Trong khi đó nhiều quân mandi là di dân xâm chiếm đế quốc Rôma đang chia rẽ, cuối cùng đế quốc Rôma sụp đổ. Giáo hội đã Phúc-Âm-hóa trong thời kỳ này thế nào, bằng cách nào, cho ai, và kết quả thế nào?

a/ Giáo hội luôn đứng vững để Phúc-Âm-hóa xã hội, đang khi đế quốc Rôma sụp đổ dưới sức mạnh của quân mandi. Giáo hội nhờ các mục tử sáng suốt, nhất là nhờ các tu viện có các tu sĩ sinh sống, Giáo hội vẫn duy trì được truyền thống và năng động của Phúc Âm từ thời các tông đồ để củng cố đức tin cho những người đã theo đạo, lấy Phúc Âm để cảm hóa giáo dục và Phúc-Âm-hóa dân mandi, rồi còn mở rộng sang các nước Âu châu. Vì dân mandi không biết tiếng Hi Lạp Latinh, lại theo đạo tập thể nên không còn tổ chức các khóa dự tòng.

b/ Giáo hội Phúc-Âm-hóa bằng tổ chức đời sống với Chúa và với mọi người. Giáo hội quy định những việc làm cụ thể với Thiên Chúa như đọc kinh sáng trưa chiều (Kinh Truyền Tin), dự thánh lễ, ăn chay kiêng thịt, đi hành hương, rước kiệu, học thuộc kinh Lạy Cha, kinh Tin Kính, kinh 10 điều răn ĐCT và 6 điều răn Hội thánh, kinh Tám mối Phúc thật, kinh Thương người có 14 mối. Với mọi người Giáo hội tổ chức làm việc từ thiện giúp cô nhi quả phụ, chia sẻ cứu trợ người nghèo, giáo dục binh lính biết trừ gian diệt bạo, giáo dục người dân biết buôn bán hay lao động theo lương tâm nghề nghiệp.

c/ Giáo hội Phúc-Âm-hóa mọi hạng người trong xã hội: các Kitô hữu đạo gốc, các dự tòng, tân tòng, đa số là dân mandi không biết chữ, các viên chức nhà nước, các người buôn bán và làm các nghề.

d/ Kết quả: Trong mấy thế kỷ đầu từ thế kỷ V đến thế kỷ XIII, Giáo hội còn giữ được truyền thống các tông đồ để Phúc-Âm-hóa, nhất là nhờ các tu viện và các tu sĩ có mặt khắp nơi, đã cảm hóa và biến đổi con người cũng như xã hội. Rồi khi Giáo hội tổ chức đời sống đối với Chúa, với nhau và với mọi người bằng thực hành những việc làm cụ thể, rất thích hợp với đa số là dân mandi thíếu học thức, thì việc Phúc-Âm-hóa phát triển rất mạnh đến nỗi sang thế kỷ XII và XIII cả Âu châu trở thành một Thế giới Kitô giáo. Tuy nhiên, sau khi Giáo hội hòa nhập với chế độ quân chủ phong kiến, giáo sĩ được nhà nước cho hưởng lộc tiền bạc đất đai để xây cất nhà thờ nhà xứ, nên sao nhãng việc Phúc-Âm-hóa; còn giáo dân không được giảng dạy giáo lý, lại không có chữ nghĩa để đọc Kinh Thánh và Phúc Âm. Đang khi đó ngoài xã hội, vào thế kỷ XV, phong trào Phục hưng các giá trị nhân văn nổi lên, đề cao tự do cá nhân, muốn tục hóa Giáo hội, dửng dưng với Thiên Chúa. Đó là dấu hiệu virus phong kiến đã phát triển mạnh, giáo sĩ và vua chúa tranh giành đất đai danh vọng, xã hội chia rẽ, khiến cho Thế giới Kitô giáo tan rã. Mặc dầu có hai vị Thánh là Phanxicô Atxidi và Đôminicô đã lập hai dòng lớn để đổi mới, nhưng ảnh hưởng có giới hạn. Sang thế kỷ XV và XVI giáo hoàng, giám mục, tu sĩ mải mê lo những chuyện trần thế, việc buôn thần bán thánh (ân xá) và gương xấu đã đạt mức kỷ lục... Có thể rút ra bài học lịch sử là: khi Xêda phục vụ Giáo hội thì thường gây nhiều nguy hại cho Giáo hội hơn là khi bách hại. Càng xa rời Phúc Âm của Đức Giêsu Kitô, Giáo hội càng suy sụp.

 

- Thời kỳ 3, từ thế kỷ XV đến nay

Thời kỳ này có rất nhiều biến cố và hoàn cảnh làm biến đổi cả Giáo hội lẫn xã hội. Xin tóm tắt:

– Năm 1520 linh mục Lutêrô cải cách Giáo hội đang suy sụp không đúng theo truyền thống các tông đồ, ly khai khỏi Giáo hội và lập Giáo hội Tin lành.

– Năm 1545 Giáo hội họp Công đồng Trentô để Phúc-Âm-hóa lại nội bộ Giáo hội theo tinh thần Phúc Âm và truyền thống các tông đồ.

– Khi khám phá Mỹ châu, Phi châu, Á châu, Úc châu, Giáo hội sai các tu sĩ giáo sĩ đi truyền giáo cho họ (thế kỷ XV- XVI).

– Từ thế kỷ XVIII là thế kỷ Ánh sáng, thế giới Âu châu biến đổi mạnh theo hướng đã bắt đầu từ thời Phục hưng (thế kỷ XV): đề cao cá nhân, khoa học, lý trí, tự do, muốn thế tục hóa, muốn tách khỏi Kitô giáo và tách khỏi cả Thiên Chúa.

– Giáo hội đã cải cách đổi mới suốt 400 năm, từ Công đồng Trentô đến Công đồng Vatican II, nhưng thần học chưa theo kịp đà phát triển trí thức, khoa học, kỹ nghệ của thế giới. Mặc dù Công đồng Vatican II đã cập nhật hóa Giáo hội nhưng sau Công đồng gần 50 năm việc cập nhật hóa vẫn chưa thấm nhập vào Dân Thiên Chúa, chưa ảnh hưởng tích cực đến thế giới. Trước những hoàn cảnh biến đổi trên, Giáo hội đã Phúc-Âm-hóa thế nào, bằng cách nào, cho ai, ở đâu và kết quả ra sao?

a/ Linh mục Lutêrô đã cải cách Giáo hội vì nhận ra rằng Giáo hội đã sống xa rời Kinh Thánh, không quan tâm học và dạy giáo lý, nên dễ chạy theo thế tục. Vì thế ngài là người đầu tiên dịch Kinh Thánh ra tiếng địa phương, soạn sách giáo lý cho người lớn và trẻ em. Nhưng ngài đã đi trệch đường, không đúng với truyền thống các tông đồ. Còn Công đồng Trentô đã Phúc-Âm-hóa lại các giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân bằng quy định kỷ luật, soạn sách lễ, sách các giờ Kinh, sách các bí tích, sách giáo lý, giúp các cha xứ dạy giáo lý, nhưng không dịch Kinh Thánh (mãi tới Công đồng Vatican II mới có Kinh Thánh bằng tiếng địa phương). Khi khám phá các châu lục mới bên ngoài Âu châu, Giáo hội sai các tu sĩ các dòng Phanxicô, Đôminicô, dòng Tên... đến với họ để Phúc-Âm-hóa.

b/ Giáo hội không chỉ Phúc-Âm-hóa bằng loan báo Phúc Âm mà còn Phúc-Âm-hóa bằng chính đời sống với Chúa và với mọi người theo truyền thống các tông đồ. Giáo hội tổ chức cầu nguyện, lãnh các bí tích, sống hiền lành, khó nghèo, Giáo hội cũng hội nhập Phúc Âm vào xã hội Âu Châu, và vào cả các nước trên khắp thế giới.

c/ Giáo hội Phúc-Âm-hóa các Kitô hữu của mình, dân chúng sống ở khắp Âu châu, và còn lo Phúc-Âm-hóa cho nhiều dân tộc ở ngoài Âu châu, sống trong những vùng đất mênh mông trên khắp các lục địa mới khám phá. Đặc biệt sang thế kỷ XVIII trở đi, Giáo hội phải đối mặt với những người theo thế kỷ Ánh sáng, chủ trương tục hóa, chống lại Giáo hội. Thế kỷ gần đây khoa học, kỹ thuật còn phát triển mau chóng vượt bậc, và thế giới còn được toàn cầu hóa.

d/ Kết quả: Cuộc cải cách của linh mục Lutêrô đã trệch ra khỏi truyền thống của các tông đồ, kéo theo một nửa số Kitô hữu Âu châu (lúc đó khoảng 40 triệu) ly khai khỏi Giáo hội, lấy tên là Giáo hội Tin lành, gây chia rẽ trong Giáo hội cho tới ngày nay chưa hàn gắn được. Cuộc cải cách của Công đồng Trentô đã giúp Giáo hội hồi phục nếp sống theo Phúc Âm, và được duy trì suốt 400 năm cho tới Công đồng Vatican II. Khi các nhà truyền giáo được sai đến muôn dân ở các châu lục mới, các ngài đã đem đến nếp sống Kitô giáo theo văn hóa Âu châu để truyền lại cho các dân như Ấn Độ, Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam. Các dân này đã có sẵn một tôn giáo hoặc tín ngưỡng từ lâu đời, như Phật giáo, đạo ông bà... vì thế việc truyền giáo khó phát triển (đạo của Tây). Cho tới nay ở Á châu mới chỉ có 3% là Công giáo. Sang thế kỷ XVIII, thế kỷ Ánh sáng với phong trào đề cao tự do cá nhân, đề cao lý trí và khoa học,việc tục hóa càng mạnh, nhiều Kitô hữu đã tách rời khỏi Giáo hội và cả Thiên Chúa nữa. Còn Giáo hội chưa kịp phát triển thần học để Phúc-Âm-hóa các hoàn cảnh và tình huống mới đó. Nên từ việc Giáo hội kết án nhà khoa học Galilê là lạc đạo khi ông quả quyết trái đất xoay quanh mặt trời (1633), (mãi đến thời Đức Gioan Phaolô II năm 1992 mới phục hồi danh dự cho ông), cho đến việc Giáo hội không ngăn cản được 2 nước theo Kitô giáo làm cách mạng: Pháp (1789) và Nga (1917); và cũng không ngăn cản được nhiều nước theo Kitô giáo gây ra hai cuộc thế chiến 1914 – 1918 và 1939 – 1945, giết chết cả 70 triệu người. Sau 2 thế chiến cỏn tiếp tục có chiến tranh lạnh giữa 2 khối tự do và cộng sản. Uy tín Giáo hội với thế giới giảm sút, nhiều Kitô hữu rời bỏ Kitô giáo hoặc theo các giáo phái khác. Mặc dù Công đồng Vatican II (1965) giúp Giáo hội cập nhật với thế giới, tuy nhiên gần 50 năm sau Công đồng, việc cập nhật hóa tiến triển chậm chạp. Dịp Năm Thánh 2000, Đức Gioan Phaolô II nhìn nhận rằng việc Phúc-Âm-hóa vẫn còn ở giai đoạn đầu, và kêu gọi toàn Giáo hội phải khẩn cấp Tân Phúc-Âm-hóa. Từ thế kỷ XX cho tới nay, thế giới còn phát triển khoa học và kỹ nghệ hạt nhân, được ứng dụng vào y tế (máy hiển vi điện tử), giao thông (máy bay siêu thanh), truyền thông (vi tính, điện thoại di động ...), và thế giới đang được toàn cầu hóa nữa.

 

4. Tân Phúc Âm Hóa

Qua ba số 1, 2, 3 ta đã hiểu Phúc-Âm-hóa là gì, rồi xem kết quả việc Phúc-Âm-hóa từng thời kỳ ta cũng dễ dàng nhận ra tại sao ngày nay phải Tân Phúc-Âm-hóa. Đức Giêsu Kitô đã dạy ta một nguyên tắc để phán đoán là "cứ xem quả thì biết cây" (Mt 12, 33). Cây không còn sinh hoa trái tốt là cây có vấn đề. Ta cũng biết tâm điểm của Phúc-Âm-hóa là gặp gỡ chính Đức Giêsu Kitô để Phúc Âm của Người biến đổi con người thành con người được Phúc-Âm-hóa. Có được Phúc-Âm-hóa rồi, ta mới có thể Phúc-Âm-hóa người khác. Đức Giêsu Kitô và Phúc Âm của Người thì không biến đổi bao giờ: "Đức Giêsu Kitô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay và như vậy mãi đến muôn đời" (Dt 13, 8); nhưng thế giới và con người sống trong thế giới thì luôn đổi thay. Do đó Tân Phúc-Âm-hóa không phải là loan báo một Phúc Âm mới mà là Phúc-Âm-hóa một cách mới mẻ, nói cho cụ thể là phải đổi mới người Phúc-Âm-hóa để họ có một nhiệt tình mới, để họ biết dùng những phương pháp mới, để họ có thể trình bày Phúc Âm một cách mới mẻ phù hợp với con người của thời đại hôm nay. Người của thời đại hôm nay tin vào kinh nghiệm và việc làm hơn là lý thuyết lý luận, họ là người duy vật nên nhạy cảm với những gì họ thấy được, đụng chạm sờ mó được. Đức Giêsu Kitô và năng động của Phúc Âm luôn ở cùng Giáo hội cho đến ngày tận thế, giúp Giáo hội Tân Phúc-Âm-hóa, Giáo hội luôn luôn phải cải cách (Ecclesia semper reformanda), mà Giáo hội là các Kitô hữu. Vậy Kitô hữu muốn Tân Phúc-Âm-hóa để thông truyền đức tin Kitô giáo thì chính Kitô hữu phải được Tân Phúc-Âm-hóa trước hết, có thế mới hòng Phúc-Âm-hóa con người và thế giới được.

 

Để kết

Chuyện kể là một triết gia Ấn độ đã nhìn lại quãng đời của mình như sau: Lúc còn trẻ tôi là một người có đầu óc cách mạng. Lời cầu nguyện duy nhất của tôi dâng lên Thượng Đế là: "Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để thay đổi thế giới". Đến tuổi trung niên, tôi mới nhận thấy rằng nửa đời tôi đã qua đi mà tôi chưa thay đổi được một người nào. Lúc đó, tôi mới cầu nguyện với Thượng Đế: "Lạy Chúa xin ban cho con được ơn biến đổi tất cả những người con gặp gỡ hằng ngày, nhất là gia đình con, bạn bè con. Và như vậy là đủ cho con mãn nguyện rồi". Nhưng giờ đây, tóc đã bạc, răng đã long, ngày tháng còn lại chỉ đếm trên đầu ngón tay, tôi mới nhận thức rằng tôi đã khờ dại biết chừng nào. Giờ này, tôi chỉ biết cầu nguyện như sau: "Lạy Chúa, xin ban cho con được ơn thay đổi chính con". Nếu tôi biết cầu nguyện như thế này ngay từ lúc đầu thì tôi đã không phí phạm quãng đời đã qua.

 

Khoảng 600 năm trước Đức Giêsu Kitô, Đức Khổng tử đã dạy các đệ tử của ngài phải tu thân thì mới tề gia được, có tề gia thì mới trị quốc được... Đức Giêsu Kitô đã tự nguyện xuống thế làm người cách đây khoảng 2000 năm để Phúc-Âm-hóa loài người và thế giới bằng chu toàn ba sứ vụ là: tư tế, ngôn sứ, vương giả. Tư tế là người hiến thân chuộc tội và cầu thay nguyện giúp cho đời; ngôn sứ là người loan báo cho đời biết Thiên Chúa cũng như biết mình, và tố cáo mọi tội ác bất công; vương giả là người làm tôi tớ phục vụ cho hạnh phúc mọi người như Người dạy (x. Mt 20, 26-28). Kitô hữu là bạn hữu của Đức Giêsu Kitô, dù là ai cũng phải Phúc-Âm-hóa mình sao cho giáo hoàng ra giáo hoàng, giám mục ra giám mục, linh mục ra linh mục, tu sĩ ra tu sĩ, giáo dân ra giáo dân, để tự nguyện chu toàn ba sứ vụ cho tốt. Nếu chỉ là tư tế biết đọc kinh xem lễ theo đúng "chữ đỏ" mà không hiệp thông với Đức Giêsu Kitô hiến mình cho Thiên Chúa và mọi người; nếu chỉ là ngôn sứ giảng thuyết rất hùng hồn mà không loan báo Phúc Âm và không dám tố cáo tội ác bất công; nếu chỉ là vương giả để sống như ông vua độc tài quan liêu, xa hoa, hưởng thụ, vô cảm với người nghèo khổ bệnh tật bị áp bức... thì phải cầu xin Thiên Chúa đổi thay chính mình trước. Thánh Gioan tông đồ trong sách Khải huyền đã khuyên Kitô hữu mua thuốc đau mắt để nhỏ mắt cho thấy được (Kh 3, 13). Nhà văn Anh có tinh thần công giáo ngày nay đã viết một câu rất ngắn gọn sâu sắc: Bác ái phải bắt đầu từ bản thân, từ nhà mình trước (charity begins at home). Vì thế dù bây giờ còn trẻ, đã lớn, hay đã già, không bao giờ tu thân là muộn. Người Anh có câu châm ngôn rất hay là "muộn còn hơn không" (better late than never).

 

CÂU HỎI THẢO LUẬN

1. Tân Phúc-Âm-hóa có phải là làm cho Phúc Âm biến đổi thành Phúc Âm mới không? Tại sao? Nếu không phải thì là đổi mới cái gì?

2. Những nguyên nhân chính nào khiến giáo hội phải khẩn cấp Tân Phúc-Âm-hóa?

3. Bạn có thể làm gì để giúp gia đình bạn tham gia việc Tân Phúc-Âm-hóa?.

4. Bạn có thể làm gì để giúp các giáo dân trong giáo xứ bạn tham gia việc Tân Phúc-Âm-hóa?

5. Bạn hãy cắt nghĩa vắn tắt: sứ vụ Tư Tế, sứ vụ Ngôn Sứ, và sứ vụ Vương Giả là gì?

6. Đức Giêsu Kitô đã trao cho mỗi Kitô hữu ba sứ vụ kể trên, bản thân bạn đã làm gì để thi hành các sứ vụ đó nơi gia đình và giáo xứ bạn?

7. Bạn tìm hiểu xem Giáo hội đã Phúc-Âm-hóa thế nào mà cả Âu châu biến đổi thành thế giới Kitô giáo?

8. Bạn tìm hiểu xem tại sao thế giới Kitô giáo đã tan rã?

9. Bạn tìm hiểu xem việc Phúc-Âm-hóa các nước Á châu đã gặp phải những khó khăn nào khiến không được phát triển?

10. Bạn thấy từ thế kỷ XVIII đến nay thế giới đã đổi mới như thế nào về khoa học, kỹ thuật, giao thông, truyền thông... về toàn cầu hóa? Còn Giáo hội đã có biến đổi gì?

[Bài này được soạn nhằm giúp các đoàn thể

học hỏi về Tông huấn "Tân Phúc-Âm-hóa để thông truyền đức tin Kitô giáo" (2012)]

Chúa nhật Truyền Giáo 2013

Linh mục Antôn Nguyễn mạnh Đồng

Nhà Hưu dưỡng Linh

Các tin khác

VIDEO

  Bài 2: HIỆP HÀNH: Hiệp Thông - Tham Gia - Sứ Vụ | Thường huấn linh mục GP Ban Mê Thuột 2023

  Bài 1: Tầm Nhìn Hoàn Vũ | Thường huấn linh mục GP Ban Mê Thuột 2023

  ĐỨC TIN | Tròn Đầy & Trong Sáng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh

  Mục Vụ Văn Hóa: DANH - LỢI - NGHĨA | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh

  Cử Hành Phụng Vụ | Gặp Gỡ Chúa Kitô - Loan Báo Tin Mừng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn văn Hinh

  Thần Học Mục Vụ & Công đồng Vatican II: Con người - Giáo hội - Môi trường

  Hiệp Hành Hội Ý Dựng lại Mùa Xuân | Người Giáo dân Thiên niên kỷ mới

  Bài 4: Văn Hóa Tổ Chức - Đời Sống Cá Nhân

  Hiệp Hành Kín Đáo và Minh Bạch

  Văn Hóa Tổ Chức - Tổ Chức Cộng Đồng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh (Phần 3)

  Tìm hiểu về văn hóa (Phần 2) - Lm Gioan Kim Nguyễn Văn Hinh

  Tìm hiểu về văn hóa (Phần 1) - Lm Gioan Kim Nguyễn Văn Hinh

  TRỰC TUYẾN BÀI 29: MỤC VỤ THÁNH THIỆN THUẬN THEO

  TRỰC TUYẾN BÀI 28 : MỤC VỤ TÍCH HỢP VĂN HÓA ĐÔNG TÂY

  TRỰC TUYẾN BÀI 27 : MỤC VỤ LỜI CHÚA NGÀY NAY

  TRỰC TUYẾN BÀI : TÌM HIỂU VỀ VĂN HÓA VÀ BẢN SẮC VĂN HÓA VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 26: MỤC VỤ ĐẠO ĐỨC KINH TẾ DỊCH VỤ

  TRỰC TUYẾN BÀI 25: MỤC VỤ TUẦN THÁNH UY VÀ ĐỨC

  TRỰC TUYẾN BÀI 24: MỤC VỤ GIA TÀI CỦA MẸ

  TRỰC TUYẾN BÀI 23: MỤC VỤ BỔ VÀ TẢ

  mvgd20162016

  TRỰC TUYẾN BÀI 21: MỤC VỤ LUẬT CÂN BẰNG

  TRỰC TUYẾN BÀI 20: TRUY TÌM MÃNH LỰC

  TRỰC TUYẾN BÀI 19: THẾ GIỚI HÔM NAY CẦN NHỮNG NGƯỜI CHA NHÂN HẬU LÝ TƯỞNG VÀ THỰC TIỄN

  TRỰC TUYẾN BÀI 18: NĂM THÁNH THÁNH CẢ GIUSE LÃNH ĐẠO VÀ NIỀM TIN

  TRỰC TUYẾN BÀI 17: MỪNG XUÂN TÂN SỬU 2021 - LÒNG BIẾT ƠN TIN VUI ĐẠO ĐỨC VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 17: MỪNG XUÂN TÂN SỬU 2021 - LÒNG BIẾT ƠN TIN VUI ĐẠO ĐỨC VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 16: ĐỀ TÀI ĐIỂM TỰA

  TRỰC TUYẾN BÀI 14: VĂN HÓA KHÔNG NHẬN SAI NHƯNG SỬA SAI

  TRỰC TUYẾN BÀI 13: VUN TRỒNG NỀN VĂN HÓA “TÂM LINH – KHOA HỌC”

  TRỰC TUYẾN BÀI 12: NĂM MỚI 2021 XÂY DỰNG NỀN VĂN MINH TÂM LINH & KHOA HỌC

  TRỰC TUYẾN BÀI 11: GIÁNG SINH 2020 - LÀM NGƯỜi - GIÊSU

  TRỰC TUYẾN BÀI 10: PHÍA ĐẰNG SAU TÂM LINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 9: ĐỂ CÓ CHÚA THÁNH THẦN

  TRỰC TUYẾN BÀI 8: LOAN BÁO TIN MỪNG

  TRỰC TUYẾN BÀI 7: PHÒNG ĐÀO LUYỆN TÂM LINH CỦA TÍN HỮU DÂN CHÚA

  TRỰC TUYẾN BÀI 6: ĐÀO LUYỆN TÍN HỮU DÂN CHÚA

  TRỰC TUYẾN BÀI 5: TẦM NHÌN THIÊN NIÊN KỶ MỚI

  TRỰC TUYẾN BÀI 4: ĐÀO LUYỆN TÂM LINH BẮT ĐẦU TỪ THÁNH THỂ HAY THÁNH KINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 3: PHƯƠNG THỨC CẦU NGUYỆN CẢM NGHIỆM- SỐNG THÁNH GIỮA ĐỜI

  TRỰC TUYẾN: BÀI 2: GIẢI THÍCH ĐÀO LUYỆN TÂM LINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 1: ĐÀO LUYỆN TÂM LINH

  TintucVatican

  Thánh Lễ Tuyên Thánh Jacinta và Francisco Marto

  Muối và ánh sáng

  Thế Giới Nhìn Từ Vatican

  Nghi thức đóng Cửa Thánh

  Xin Mẹ Thương

  Thế Giới Nhìn Từ Vatican

  Suy Niệm với Đức Thánh Cha Phanxicô

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__3

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__1

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__2

  Thường huấn HĐMVGX Ban Mê Thuật

  Quốc tế thiếu nhi 01-6-2014

  Thể dục Dưỡng Sinh

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  CƠM TRƯA TRUNG THU 2013

  Thi đấu thăng cấp sơ đẳng Vovinam

  Khai mạc kỳ thi thăng cấp Vovinam

  Vovinam

  Đào luyện tâm linh

  Nghệ thuật cân bằng

  Đào Luyện Tinh Thần

  Đào Luyện Thể Chất

Bài viết mới
BÀI GIẢNG ĐỨC THÁNH CHA - CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN NĂM B
BÀI GIẢNG ĐỨC THÁNH CHA - CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN NĂM B.
ỦY BAN GIÁO DÂN - THƯỜNG HUẤN THÁNG 07/2024: TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN - MUỐI VÀ ÁNH SÁNG CHO THẾ GIỚI avatar Ủy ban Giáo dân 01/07/2024 Giáo hội là Dân Thiên Chúa, nơi mỗi người tín hữu, dù là giáo sĩ hay giáo dân, đều đóng góp vai trò không thể thiếu trong sứ mạng loan báo Tin Mừng. Chủ đề “Tông đồ giáo dân: Muối và ánh sáng cho thế giới” tập trung vào việc khai triển và cổ võ vai trò của giáo dân trong việc trở thành muối ướp mặn đời và ánh sáng soi sáng trần gian. Ủy ban Giáo dân Hội đồng Giám mục Việt Nam THƯỜNG HUẤN THÁNG 07/2024: TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN: MUỐI VÀ ÁNH SÁNG CHO THẾ GIỚI BÀI 1: HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN DỰA TRÊN LỜI CHÚA - Phanxicô Xaviê Nguyễn Thái BÀI 2: SỐNG TIN MỪNG TRONG ĐỜI THƯỜNG – Lm. Antôn Hà Văn Minh BÀI 3: BIẾN ĐỔI THẾ GIỚI TỪ BÊN TRONG - Lm. Tôma Vũ Ngọc Tín, S.J. BÀI 4: LÒNG CAN ĐẢM VÀ SỰ KHÔN NGOAN KHI DẤN THÂN VÀO ĐỜI SỐNG TRẦN THẾ - Lm. Tôma Vũ Ngọc Tín, S.J. BÀI 1: HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN DỰA TRÊN LỜI CHÚA - Phanxicô Xaviê Nguyễn Thái “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. “Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá. Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành” (Mt 7, 21.24 – 27). Đọc đoạn Tin Mừng trên cho chúng ta thấy: sống Tin Mừng trong đời thường là một hành trình đức tin mà qua đó, người Kitô hữu áp dụng lời dạy của Chúa Giêsu vào cuộc sống hàng ngày. Yêu Chúa không chỉ là tham dự các thánh lễ, các giờ kinh, mà phải thi hành ý muốn của Chúa Cha qua việc lãnh nhận các bí tích thường xuyên và qua cách chúng ta tương tác với mọi người xung quanh, cách chúng ta hành xử với thử thách và cách thực hiện các quyết định. Dưới đây là một số suy tư của giáo dân và một số cách để sống Tin Mừng trong đời thường: 1. Suy niệm và cầu nguyện với Lời Chúa: chúng ta không thể kết hiệp mật thiết với Chúa mà không cầu nguyện với Ngài. Việc dành thời gian mỗi ngày để suy niệm và cầu nguyện với Lời Chúa giúp nuôi dưỡng tâm hồn chúng ta ngày càng trở nên thánh thiện hơn, yêu Chúa nhiều hơn và được Chúa hướng dẫn hành động. 2. Yêu thương tha nhân là yếu tố quan trọng khi ta sống theo Tin Mừng. Yêu thương mọi người xung quanh mình, cho dù họ là ai, tôn giáo nào, giàu hay nghèo. “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” ( Ga 15, 12 ). Điều này áp dụng qua việc giúp đỡ những người nghèo khó, an ủi những người đang gặp khó khăn, và chia sẻ cho cộng đồng đang cần đến tình thương của mình. 3. Hiền lành và khiêm nhường: là ứng xử một cách nhẹ nhàng, không gây ra xung đột, luôn lắng nghe và tôn trọng ý kiến của người khác, và tìm cách giải quyết mọi vấn đề một cách dịu dàng và an bình. Tuy nhiên, hiền lành và khiêm nhường không đồng nghĩa với sự yếu đuối, mà chính là một cách để thể hiện sự mạnh mẽ và tự tin của bản thân thông qua sự kiểm soát cảm xúc và nhận thức. 4. Sống công bằng và bác ái: cố gắng sống công bằng với mọi người, không phân biệt đối xử, không chỉ dựa trên sự thỏa thuận mà dựa trên giá trị cốt lõi là phẩm giá con người, và thực hiện các hành động bác ái, như viếng thăm người đau yếu, quyên góp cho từ thiện, chia sẻ Chúa cho anh em, tham gia phục vụ cộng đồng dân Chúa cũng như cộng đồng xã hội. 5. Kiên nhẫn tha thứ: sống theo Tin Mừng đòi hỏi lòng kiên nhẫn và sẵn lòng tha thứ, dù trong những hoàn cảnh khó khăn nhất. Tha thứ đến cùng, tha thứ không giới hạn cho những lỗi lầm của người khác. Lý do chính mà chúng ta làm là vì Chúa đã tha thứ cho mỗi người chúng ta. 6. Chia sẻ niềm vui: sống vui tươi, dịu dàng với mọi người qua lối sống khó nghèo, tìm kiếm sự hài lòng, phấn khởi trong những điều giản dị và ý nghĩa của cuộc sống. 7. Sống Tin Mừng trong đời thường là chúng ta làm chứng về một Đức Giêsu con Thiên Chúa đã xuống trần gian, chịu chết và sống lại cho chúng ta được sống và được sống lại. Chứng nhân không chỉ trong một giai đoạn của cuộc sống nhưng là một đời Kitô hữu được kết hiệp với Chúa, bằng nguồn sống của Chúa. Qua hành động và lời nói hàng ngày, qua cách sống và tương tác với tha nhân làm sao bày tỏ được tình yêu và lòng thương xót của Chúa. Những suy tư Sống Tin Mừng trong đời thường không chỉ là làm một số việc đạo mà là cách sống thánh thiện và yêu thương mọi người xung quanh. Mỗi người cần gìn giữ và phát triển niềm tin của mình để sống đúng lý tưởng và hạnh phúc theo tinh thần của Tin Mừng. Sống Tin Mừng trong đời thường không phải lúc nào cũng dễ dàng, mỗi người giáo dân có cách sống Tin Mừng trong cuộc sống của họ một cách khác nhau. Nhiều giáo dân chưa mở lòng nên không nhận được ơn Chúa. Họ sống khép kín, không tham gia vào giáo xứ hoặc nếu có cũng chỉ là hình thức. Có những người không biết về Tin Mừng hoặc có biết qua loa thì cũng chưa áp dụng Tin Mừng vào cuộc sống, có khi còn không dám cho người khác biết mình là người Công Giáo, không dám sống đức tin của mình. Những người giáo dân khác sống theo lời dạy của Chúa Giêsu và thực hành lòng nhân từ, yêu thương và tha thứ. Trong khi một số khác có thể gặp khó khăn trong việc áp dụng những giá trị đạo đức từ Tin Mừng vào cuộc sống hàng ngày. Tuy nhiên, quan trọng nhất là họ luôn cố gắng học hỏi và phát triển trong đức tin của mình để trở thành những người sống theo Tin Mừng mẫu mực. Được như thế là giáo dân cũng đang tham gia vào đời sống của Giáo Hội, dần dần góp phần xây dựng một Giáo Hội hiệp hành và một thế giới tốt đẹp hơn. Hồi Tâm 1/ Làm cách nào giúp mọi người Công Giáo, hay ít nhất là những người đi lễ mỗi tuần có thể học, suy niệm và cầu nguyện với Tin Mừng? Nếu đang làm việc trong Hội đồng mục vụ giáo xứ hay trong các Hội đoàn Công giáo tiến hành, bạn sẽ làm gì? 2/ Chứng nhân Tin Mừng trong đời thường là phương cách hữu hiệu giúp người khác dễ dàng sống theo gương, bạn có thể chia sẻ chứng nhân trong những buổi họp, hay những lúc riêng tư cho những người chung quanh không? 3/ Trong đời thường, bạn làm gì để bày tỏ lòng yêu mến Chúa qua tha nhân? BÀI 2: SỐNG TIN MỪNG TRONG ĐỜI THƯỜNG – Lm. Antôn Hà Văn Minh Qua Bí tích Rửa tội, người tín hữu được dự phần vào sứ vụ của Chúa Giêsu. Sứ vụ đó chính làm cho mọi người nhận biết ơn cứu độ của Thiên Chúa Cha tỏ bày cho nhân loại qua Đức Giêsu Kitô. Thi hành sứ vụ chính là sống Tin Mừng giữa lòng thế giới, cụ thể trong cuộc sống thường ngày của mỗi tín hữu. Công Đồng nói về cảnh sống trần thế của giáo dân bằng cách trình bày cảnh sống ấy, trước tiên, như là môi trường trong đó họ được Thiên Chúa mời gọi: “Đó là nơi Thiên Chúa gọi họ” (LG số 31). Và thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã giải nghĩa: “nơi” được trình bày bằng những hạn từ có tính cách năng động: giáo dân sống giữa trần gian, nghĩa là dấn thân vào tất cả cũng như từng công việc và bổn phận của trần thế, giữa những cảnh sống thường ngày trong gia đình và ngoài xã hội, tất cả những điều đó như dệt thành cuộc sống của họ. Đó là những con người có một đời sống bình thường trong trần gian, học hỏi, làm việc, thiết lập những tương quan bạn bè, xã hội, nghề nghiệp, văn hóa”[1]. Sống Tin Mừng là gì? Trích dẫn Lời Chúa: “Chính anh em là muối cho đời… là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,13–14), Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã trình bày: “Lời mời gọi của Chúa Giêsu chính là sứ mạng của người tín hữu sống trong thế giới này. Người Kitô hữu không coi thế gian là địa ngục, là nơi giam cầm của những nỗi thống khổ, cũng như không coi thế gian là hạnh phúc vĩnh cửu cho cuộc đời mình, nhưng là nơi để Thiên Chúa tỏ lộ tình yêu của Ngài qua sự cộng tác của con người, và là nơi để con người được thực thi ơn gọi và sứ mạng Kitô hữu của mình trong một tình yêu dấn thân và thánh hóa thế giới: Tham dự vào lãnh vực trần thế, là phận vụ phát xuất từ bản tính nội tại và sứ mạng của mình”[2]. Vì thế, sống Tin Mừng chính là huấn luyện bản thân nhuần thấm Tin Mừng để có thể thực thi ơn gọi của mình cách trọn hảo. Thiên Chúa muốn người tín hữu trở thành muối, thành ánh sáng cho thế giới bằng chính đời sống Tin Mừng của mình, hay nói cách khác người tín hữu dấn thân phục vụ để trần gian nhận biết tình yêu của Ngài dành cho nhân loại, một tình yêu trọng đại đã được thánh Gioan diễn tả: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời” (Ga 3, 16). Nhưng để có thể sống Tin Mừng, dấn thân phục vụ cho Tin Mừng, đòi hỏi người tín hữu phải là người thấm đẫm Tin Mừng. Chỉ là men Tin Mừng khi người hữu phải đầy “chất” Tin Mừng. Vì thế, sống Tin Mừng trước tiên phải kết hợp mật thiết với Đức Kitô, vì Ngài chính là Tin Mừng. Vì thế, cuộc gặp gỡ với Tin Mừng là nền tảng cho việc sống Tin Mừng. Điều đó được thực hiện trước tiên chính là cuộc gặp gỡ Lời qua Kinh Thánh. Công đồng Vatican II trong hiến chế Mạc khải đã minh định: Chúa Cha muốn gặp gỡ con cái mình và ngỏ lời với họ qua Sách Thánh. Như vậy, tiếp cận với Lời Chúa, đọc Thánh Kinh là đi vào một cuộc gặp gỡ, tham gia một cuộc đối thoại với Thiên Chúa[3]. Quả thật việc đọc Thánh Kinh là cách thế tuyệt hảo để có được cuộc đối thoại với Thiên Chúa, vì “chúng ta ngỏ lời với Ngài khi cầu nguyện, và chúng ta nghe Ngài nói lúc chúng ta đọc các sấm ngôn thần linh”[4]. Trong Tông Thư “Khởi Đầu Ngàn Thứ Ba”, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II viết: “Lời Chúa phải trở nên một sự gặp gỡ ban sự sống, theo truyền thống xa xưa và luôn vững chắc về việc đọc Sách Thánh, cho phép rút ra từ bản văn Thánh Kinh Lời Hằng Sống, là lời chất vấn, hướng dẫn và hình thành cuộc sống chúng ta” (số 39)[5]. Người tín hữu chỉ có thể là men Tin Mừng, khi đời sống được đặt trên nền tảng Lời Chúa, không thường xuyên cầu nguyện với Lời Chúa không thể nào hoán cải cuộc đời để có thể làm cho đời mình trở thành men Tin Mừng. Dựa vào hoạt động của Giáo Hội tiên khởi được tường thuật trong sách Tông đồ công vụ, Đức Thánh cha Phanxicô nói: “Chúng ta khám phá động cơ mạnh mẽ của việc loan báo Tin Mừng chính là những buổi quy tụ cầu nguyện, nơi những người tham gia cảm nghiệm cách sống động sự hiện diện của Chúa Giêsu và được Chúa Thánh Thần đánh động. ...Lời cầu nguyện truyền lan ánh sáng và sự hăng hái: ân sủng của Chúa Thánh Thần làm nảy sinh trong lòng họ sự nhiệt thành”[6]. Dĩ nhiên việc tiếp cận Lời Chúa phải gắn chặt với Thánh Thể. Đức Thánh cha Phanxicô đã nói mạnh mẽ: Chỉ trong sự tôn sùng Thánh Thể, chỉ trước mặt Chúa, hương vị và sự say mê truyền giáo mới có thể được phục hồi. Lòng tôn sùng Thánh Thể là động lực giúp cho chúng ta vượt thắng những phong ba bão táp của cuộc đời, đặc biệt đó là nguồn khích lệ cho những người hết lòng chia sẻ Tin Mừng, chính vì trong Bí tích Thánh Thể, “chúng ta gặp gỡ Đấng đã ban mọi sự cho chúng ta” và đến lượt mình, chúng ta trở nên có khả năng chia sẻ tình yêu đó với người khác[7]. Để có thể sống Tin Mừng hầu trở thành men của Tin Mừng, chúng ta cần phải liên kết chặt chẽ với Chúa Kitô qua Lời Chúa, Thánh Thể và cầu nguyện và sống tình huynh đê. Bốn yếu tố: Lời Chúa, tìm kiếm tình hiệp thông huynh đệ, Thánh Thể và cầu nguyện, theo Đức Thánh Cha Phanxicô, chính là tiêu chuẩn để phân định một sự việc. Bất cứ trường hợp nào thiếu những yếu tố này điều thiếu tính Giáo hội, không phải của Giáo hội, yếu tố quan trọng để chứng thực chúng ta thực sự là Men của Tin Mừng.[8] Sống Tin Mừng giữa đời thường Nhìn vào thực tế, trăn trở lớn của Giáo Hội Việt Nam là vấn đề Loan Báo Tin Mừng. Thật vậy, con số tín hữu Việt Nam đến nhà thờ dâng lễ mỗi Chúa Nhật có thể nói cho đến lúc này vẫn đáng tự hào, thế nhưng niềm tự hào này có thực sự là niềm vui đích thực không? Bởi nhìn vào cánh đồng truyền giáo mỗi địa phương vẫn còn ngổn ngang, vẫn còn có qua nhiều người chưa được tiếp cận với Tin Mừng, vẫn còn đó nhưng lương dân là hàng xóm của các gia đình Công giáo, nhưng họ chẳng nghe nói về Chúa Giêsu, không một lần tiếp cận được với Tin Mừng. Câu trả lời được tìm thầy nơi lối sống của người tín hữu Công giáo. Là men Tin Mừng, nhưng họ lại không thể hiện lối sống Tin Mừng ngay trong môi trường mình sinh sống. Họ tách rời đức tin và cuộc sống thường ngày, họ đóng khung lối sống Tin Mừng trong nhà thờ, họ không làm cho men Tin Mừng được dậy lên trong người môi trường mình sống. Cha mẹ vẫn đi dâng lễ ngày Chúa nhật, nhưng chưa một lần hướng dẫn con cái về đời sống đức tin. Người tín hữu vẫn thường xuyên gặp gỡ bạn bè là lương dân, nhưng chưa một lần họ nghe về Chúa Giêsu, nhiều khi còn tệ hơn, để làm vui lòng bạn bè lương dân, người Công Giáo sẵn sàng bỏ đi lễ Chúa nhật; ngoài phố chợ, những chủ cửa hàng Công Giáo vẫn ngần ngại thể hiện lối sống Tin Mừng để giữ đức công bình và đức yêu thương... Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhấn mạnh: “Người tín hữu không được mời gọi rời bỏ vị thế họ đang sống nơi trần gian. Thực vậy, Bí tích Thánh Tẩy không kéo họ ra khỏi trần gian, như thánh Phaolô đã nhấn mạnh: ‘Thưa anh em, khi được kêu gọi ở địa vị nào, mỗi người cứ ở địa vị đó trước mặt Thiên Chúa’ (1 Cr 7,24); trái lại, Ngài trao cho họ một ơn gọi có liên hệ đích thực với tình huống của họ trong trần gian: thực vậy, giáo dân được ‘Thiên Chúa kêu gọi để, dưới sự hướng dẫn của tinh thần phúc âm, như men từ bên trong, họ thánh hóa thế giới bằng việc thi hành những nhiệm vụ của mình; và như thế, với lòng tin cậy mến sáng ngời, nhất là với chứng tá đời sống, họ tỏ lộ Chúa Kitô cho kẻ khác’ (Tông huấn Người Tín hữu Giáo dân, số 15) Cha Mến kể câu chuyện: Chứng nhân trong đời thường như sau: Nhà giáo dục vĩ đại Booker T. Washington có viết như sau trong cuốn tự thuật mang tựa đề: “Từ ách nô lệ đi lên” của ông: “Càng lớn tôi càng tin chắc rằng, không một sự giáo dục nào có thể gặt hái được từ sách vở, hay từ những dụng cụ đắt tiền, mà có thể sánh ví được với những gì ta có thể gặt hái được, do tiếp xúc với các bậc vĩ nhân”. Cách đây ít lâu, một phụ nữ Ấn độ giáo đã trở lại Công giáo, sau một thời gian nghe rao giảng Lời Chúa. Bà chịu nhiều gièm pha, đay nghiến từ người chồng và bao người thân, do việc bà trở lại đạo. Có lần cha xứ hỏi bà: “Khi chồng con nổi giận và hành hạ con, thì con làm gì”? Bà đáp: “Thưa Cha, con cố gắng nấu ăn ngon hơn. Khi ông than trách, con lau chùi nhà sạch hơn. Khi ông ăn nói cộc cằn, con trả lời ôn tồn nhỏ nhẹ. Con cố gắng để chứng tỏ cho ông ta thấy: Khi con trở lại đạo Chúa, con phải là người vợ và người mẹ tốt hơn”. Một thời gian sau, chính ông chồng cũng xin trở lại đạo Công giáo, không phải vì lời giảng của cha xứ, cho bằng chính nhờ gương sáng sống đạo của bà vợ đạo đức của ông.[9] Sắp tới đây Đức Thánh cha Phanxicô sẽ phong thánh cho chân phước Carlo Arcutis, một vị thánh trẻ, được gọi vị thánh thuộc thế hệ Y. Thánh nhân có gì đặc biệt? Không có gì đặc biệt ngoài việc ngài sống Tin Mừng giữa đời thường. Đức hồng y Vallini trong bài giảng lễ phong chân phước đã nói về Carlo Arcutis như sau: Carlo có lòng yêu mến Thánh Thể và gắn bó với Thánh Thể cách đặc biệt. Chúa Giêsu là Bạn, là Thầy, là Đấng Cứu Độ và là sức mạnh cho cuộc sống của Acutis và là động lực của mọi việc cậu làm. Từ đó, Carlo mong muốn mãnh liệt đưa người khác đến với Chúa và cậu làm điều này trên hết bằng gương mẫu cuộc sống. Carlo dùng mọi cách, cả cách thức hiện đại, với tài năng về tin học Chúa ban, để gặp gỡ và loan truyền các giá trị Kitô giáo cho người khác[10]. BÀI 3: BIẾN ĐỔI THẾ GIỚI TỪ BÊN TRONG - Lm. Tôma Vũ Ngọc Tín, S.J. Đời sống Kitô hữu giữa lòng trần thế như những hạt muối tinh tế thấm vào lòng đời, lặng lẽ làm biến đổi thế giới, như men trong bột làm dậy lên cả khối bột. Hành trình hy vọng nhưng cũng đầy thách đố này đòi hỏi sự biến đổi sâu sắc từ bên trong tâm hồn và đời sống mỗi người tín hữu. Khi mỗi người thay đổi từ nội tâm, họ trở thành ánh sáng lan tỏa, chiếu rọi khắp nơi, góp phần biến đổi thế giới bằng chính đời sống đức tin của mình. Theo Sắc Lệnh về Tông Đồ Giáo Dân, linh đạo tông đồ giáo dân không chỉ là sống đức tin một cách cá vị, mà còn là tham gia tích cực vào sứ mạng của Giáo Hội. Giáo dân được mời gọi trở thành những tông đồ giữa đời, mang Tin Mừng đến mọi nơi (Apostolicam Actuositatem-AA, 4). Linh đạo này giúp mỗi người giáo dân nhận ra rằng, họ có một vai trò đặc biệt trong việc xây dựng Nước Trời nơi trần thế, không chỉ qua lời nói mà còn qua hành động cụ thể trong cuộc sống thường ngày: “Bản chất riêng biệt của người giáo dân là sống giữa đời và làm việc đời nên chính họ được Thiên Chúa mời gọi để một khi tràn đầy tinh thần Kitô giáo, họ làm việc tông đồ giữa đời như men trong bột” (AA 2). Sống linh đạo tông đồ giáo dân như thế, trước hết người giáo dân gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu qua Lời Chúa và Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể là tâm điểm đời sống người tín hữu, nuôi dưỡng mỗi người trong hành trình Kitô hữu giữa đời, giúp mỗi người kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu và dấn thân phục vụ sứ mạng của Người: “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu, đó không chỉ là lời mời gọi, mà còn là một yêu cầu thiết yếu, để mỗi Kitô hữu có thể sống đức tin và thực thi sứ mạng của mình. Tham dự Thánh lễ, cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa,… là những phương thế giúp giáo dân nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của mình. Cầu nguyện giúp người giáo dân sống tình thân mật thiết với Chúa, trong khi suy niệm Lời Chúa giúp họ hiểu rõ hơn về ý nghĩa và sứ mạng của mình như được Chúa mời gọi. Kết hiệp với Chúa Giêsu qua Thánh Thể và Lời Chúa là những phương thế sống động để mỗi người trở nên men trong bột, biến đổi thế giới từ bên trong. Từ đời sống gắn kết với Chúa Giêsu, người giáo dân sống đức tin của mình qua những hành động cụ thể trong gia đình, nơi làm việc, và cộng đồng. Điều này có thể bao gồm việc tham gia vào các hoạt động xã hội, hỗ trợ người nghèo, bảo vệ môi trường, và tham gia vào các phong trào xã hội nhằm thúc đẩy công lý và hòa bình. Ý nghĩa của việc trở thành men trong bột là mỗi Kitô hữu đều có thể đóng góp một phần nhỏ nhưng quan trọng vào việc biến đổi thế giới xung quanh. Điều này đòi hỏi mỗi người phải sống đời sống đức tin một cách chân thật và nhiệt thành. Tình yêu và công lý là hai yếu tố không thể thiếu trong linh đạo giáo dân. Mỗi giáo dân được mời gọi sống yêu thương qua những hành động cụ thể, đồng thời nỗ lực thực thi công lý và xây dựng hòa bình. Các hoạt động xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc thực hành tông đồ giáo dân. Tham gia vào các hoạt động này không chỉ giúp mỗi người thực thi sứ mạng truyền giáo, mà còn góp phần xây dựng một xã hội công bằng và yêu thương hơn. Sau cùng, qua đời sống đức tin và dấn thân tông đồ, mỗi người góp phần xây dựng và phát triển cộng đoàn giáo xứ. Qua việc tham gia tích cực vào đời sống giáo xứ, giáo dân không chỉ đóng góp vào sự phát triển của cộng đoàn mà còn tạo ra một môi trường yêu thương và hiệp nhất. Một cộng đoàn yêu thương sẽ là nền tảng vững chắc để mỗi giáo dân có thể thực thi sứ mạng truyền giáo của mình một cách hiệu quả. Tóm lại, hành trình Kitô hữu giữa lòng trần thế là trở thành muối và men, âm thầm, trung kiên, nhẫn nại thấm vào mọi ngóc ngách của cuộc sống, làm biến đổi thế giới từ nội tại. Sống đức tin trong đời thường, thể hiện qua những hành động cụ thể trong gia đình, nơi làm việc và cộng đồng, là cách mỗi Kitô hữu trở thành men trong bột, biến đổi thế giới bằng tình yêu và công lý. Kết hiệp với Chúa qua cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa, cùng tham gia vào các hoạt động xã hội, là nền tảng để mỗi giáo dân góp phần xây dựng một xã hội công bằng và yêu thương, biến đổi thế giới từ bên trong. Hồi tâm 1/ Nhìn lại kinh nghiệm sống đạo, tôi thấy mình trở nên ánh sáng và muối và men trong môi trường sống như thế nào? Tôi có thể làm gì để thẩm thấu và lan tỏa tinh thần Kitô giáo trong gia đình, nơi làm việc, và cộng đồng của mình? 2/ Tôi cảm nghiệm thế nào về ơn gọi và sứ mạng Kitô hữu khi cầu nguyện và suy niệm lời Chúa? Làm thế nào tôi có thể biến những cảm nghĩ thiêng liêng ấy thành hành động cụ thể để xây dựng Nước Trời ngay cuộc sống đời thường của tôi? 3/ Khi đối diện với những thách thức trong cuộc sống và xã hội, tôi trải nghiệm thế nào về tình yêu và công lý như men trong bột, làm dậy lên sự thay đổi tích cực? Tôi có sẵn sàng dấn thân hơn nữa để trở thành người tông đồ truyền giáo giữa đời, lan toả tình yêu và công lý trong môi trường sống thường ngày? BÀI 4: LÒNG CAN ĐẢM VÀ SỰ KHÔN NGOAN KHI DẤN THÂN VÀO ĐỜI SỐNG TRẦN THẾ - Lm. Tôma Vũ Ngọc Tín, S.J. Lòng can đảm và sự khôn ngoan là hai phẩm chất quan trọng mà mỗi Kitô hữu cần có để sống và làm chứng cho đức tin trong đời sống trần thế. Lòng can đảm giúp chúng ta vượt qua những thử thách và khó khăn, dám đứng lên bảo vệ sự thật và công lý. Sự khôn ngoan, hướng dẫn chúng ta hành động một cách sáng suốt, biết phân định phải trái, đúng sai và chọn lựa đường hướng đẹp lòng Chúa. Trong một thế giới đầy biến động và thách thức, lòng can đảm và sự khôn ngoan trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Đối với giáo dân, hai phẩm chất này không chỉ giúp họ sống đức tin một cách mạnh mẽ và vững vàng mà còn đóng góp tích cực vào việc xây dựng một xã hội công bằng và nhân ái hơn. Lòng can đảm là một chủ đề được nhắc đến nhiều trong Kinh Thánh: “Mạnh bạo lên, can đảm lên! Đó chẳng phải là lệnh Ta đã truyền cho ngươi sao? Đừng run khiếp, đừng sợ hãi, vì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, sẽ ở với ngươi bất cứ nơi nào ngươi đi tới” (Gs 1,9). Lời khích lệ này không chỉ dành cho Thủ lãnh Giôsuê mà còn dành cho tất cả chúng ta, những người đang sống và làm chứng cho đức tin. Lòng can đảm giúp chúng ta đứng vững trước những thử thách, bảo vệ niềm tin và dám sống theo những giá trị Tin Mừng trong một thế giới đầy cám dỗ, bạo loạn và bất công. Sự khôn ngoan cũng là một đức tính quan trọng được Kinh Thánh đề cao: “Nếu ai trong anh em thiếu đức khôn ngoan, thì hãy cầu xin Thiên Chúa, Người sẽ ban cho. Vì Thiên Chúa ban cho mọi người cách rộng rãi, không quở trách” (Gc 1,5). Sự khôn ngoan giúp chúng ta biết phân định đúng sai, tốt xấu, lựa chọn đường hướng đẹp lòng Chúa và hành động một cách sáng suốt trong mọi hoàn cảnh. Nó không chỉ là tri thức mà còn là khả năng ứng dụng tri thức đó vào cuộc sống một cách đúng đắn và hiệu quả tốt đẹp. Mỗi người vẫn thường đối diện với những thách đố và nghịch cảnh trong đời sống. Điều quan trọng là cách chúng ta đối diện và vượt qua chúng. Cuộc sống trần thế có muôn vàn cảnh huống mà ở đó, người giáo dân thể hiện lòng can đảm và sự khôn ngoan khi luôn tin cậy Chúa và đối diện khó khăn, chẳng hạn như việc bảo vệ sự thật và công lý trong môi trường làm việc, nơi có thể gặp phải những áp lực và cám dỗ. Lòng can đảm giúp chúng ta không lùi bước, trong khi sự khôn ngoan giúp chúng ta chọn lựa cách hành động phù hợp và hiệu quả. Đời sống đức tin không dừng ở việc tham dự các cử hành phục vụ mà còn sống theo những giá trị Kitô giáo trong đời sống thường ngày. Giáo dân có thể thể hiện lòng can đảm và sự khôn ngoan bằng cách làm gương sáng trong môi trường làm việc, trong gia đình, và trong cộng đồng. Những hành động cụ thể như giúp đỡ người khó khăn, bảo vệ môi trường, và tham gia vào các hoạt động từ thiện đều là những cách thể hiện đức tin một cách sống động và thực tế. Trong nhiều hoàn cảnh, lòng can đảm và sự khôn ngoan của người giáo dân có thể thể hiện trong vai trò lãnh đạo cộng đồng. Trong hoàn cảnh đó, lòng can đảm và sự khôn ngoan không chỉ giúp giáo dân đối mặt với những thách thức mà còn giúp họ hành động một cách sáng suốt và hiệu quả. Sau cùng, giáo dục con cái về lòng can đảm và sự khôn ngoan là một nhiệm vụ quan trọng của các bậc cha mẹ Công Giáo. Giáo dân có thể giúp con cái hiểu và thực hành hai phẩm chất này qua gương sáng trò chuyện thường ngày trước những vấn đề thực tế trong đời sống, giúp con cái phát triển lòng can đảm và sự khôn ngoan trong cuộc sống. Tóm lại, lòng can đảm và sự khôn ngoan là những phẩm chất không thể thiếu để mỗi Kitô hữu sống đức tin trong đời sống trần thế. Những phẩm chất này hằng giúp chúng ta vượt qua thử thách, bảo vệ sự thật và công lý, và hành động minh bạch, tư duy độc lập sáng suốt, mang lại ích lợi chính đáng cho bản thân và cộng đồng. Trong một thế giới đầy biến động, giáo dân cần lòng can đảm để kiên vững vượt qua những trở ngại và sự khôn ngoan để phân định và lựa chọn đúng đắn. Đó là hai phẩm chất giúp người giáo dân dấn thân sống đức tin giữa lòng trần thế, góp phần xây dựng đời sống xã hội thấm đượm Tin Mừng. Hồi tâm 1/ Trong những tình huống cụ thể nào, tôi thường cần đến lòng can đảm để bảo vệ sự thật và công lý? Tôi đã từng phản ứng ra sao và kết quả như thế nào? 2/ Làm thế nào tôi có thể áp dụng sự khôn ngoan để phân định đúng sai và đưa ra quyết định sáng suốt trong các hoạt động và công việc tại giáo xứ của mình? 3/ Nhớ lại một trải nghiệm khi lòng can đảm và sự khôn ngoan của người Công giáo đã tạo ra sự khác biệt tích cực trong cộng đồng xã hội? Tôi cảm nghĩ thế nào về sự dấn thân của người giáo dân, với lòng can đảm và khôn ngoan, vào đời sống xã hội? ________ [1] Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Tông Huấn Người Tín Hữu Giáo dân (Christifideles Laici), số 15. [2] Nt. [3]X. Hiến chế Mạc Khải (Dei Verbum), số 21 [4] X Hiến chế Mạc Khải (Dei Verbum), số 25. [5] Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông thư Ngàn Năm Thứ Ba (Millennio Adveniente), số 39> [6] Đức Phanxicô, buổi tiếp kiến chung trực tuyến sáng thứ Tư 25/11/2020), nguồn Vatican News. [7] Nguồn: www.ncregister.com/commentaries/without-adoration-there-s-no-evangelization [8] Nguồn: www.vaticannews.va/vi/pope/news/2020-11/ [9] Nguồn: https://linhmucmen.com/news/kho-sach-quy/chung-nhan-giua-doi-thuong [10] Nguồn: https://www.vaticannews.va/vi/church/news/2020-10/le-phong-chan-phuoc-carlo-acutis.html
ỦY BAN GIÁO DÂN - THƯỜNG HUẤN THÁNG 07/2024: TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN - MUỐI ...
LINH ĐẠO DUNG NẠP
LINH ĐẠO DUNG NẠP