ĐỨC GIÊSU THẤT BẠI TẠI NADARÉT
(Luca 4,21-30 – CN IV TN - C)
1.- Ngữ cảnh
Đoạn văn chúng ta đọc hôm nay nằm trong bối cảnh là “Hoạt động rao giảng của Đức Giêsu tại Galilê” (Lc 3,1–9,50), và thuộc về phân đoạn 4,16-30, “Đức Giêsu tại Nadarét”. Chúng ta có thể xác định cầu trúc của bản văn 4,16-30 như sau:
+ Mở: Đức Giêsu đến Nadarét (c. 16a); Người vào hội đường (c. 16b).
I. Đọc sách Isaia
a) Dẫn nhập (c. 16c)
b) Chuẩn bị đọc (c. 17)
c) Bản văn Isaia (cc. 18-19)
b’) Kết thúc việc đọc (c. 20ab)
a’) Kết luận (c. 20c)
- Chuyển tiếp: Mọi người trong hội đường chăm chú nhìn Người (c. 20d)
II.Các lời nói của Đức Giêsu
A- Can thiệp thứ nhất của Đức Giêsu
a) lời nói về hoàn tất (c. 21)
b) các hậu quả đầu tiên nơi các thính giả (c. 22)
B- Can thiệp thứ hai của Đức Giêsu
a) lời nói về thầy thuốc (c. 23)
b) lời nói về ngôn sứ (c. 24)
C- Can thiệp thứ ba của Đức Giêsu
a) dân Israel trước Êlia (cc. 25-26)
b) dân Israel trước Êlisa (c. 27)
+ Kết: Dân Nadarét đuổi Đức Giêsu khỏi hội đường (cc. 28-29)
Người rời Nadarét (c. 30)
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1) Phản ứng tích cực của cử tọa đối với các lời Đức Giêsu nói (4,21-22);
2) Đức Giêsu xác định chiều hướng của sứ vụ của Người (4,23-24);
3) Đức Giêsu chứng minh bằng các lối xử sự của các ngôn sứ (4,25-27);
4) Dân chúng loại trừ Đức Giêsu (4,28-30).
3.- Vài điểm chú giải
- Hôm nay (21): Trạng từ sêmeron hiếm khi được hiểu theo nghĩa tổng quát là “vào ngày hôm nay, nowadays”. Do vị trí nhấn mạnh ở đầu câu, trạng từ này đánh dấu một điểm quan trọng trong các nhìn lịch sử của tác giả Lc (x. 4,21; 5,26; 19,5.9; 23,43): những điểm này, những lời nói này của Đức Giêsu vẫn còn giá trị cho cuộc sống của người Kitô hữu hôm nay.
- đều tán thành (22): dịch sát là “đều làm chứng cho (emartyroun) cho điều này? / cho ngài?”. Đa số các nhà chú giải hiều là đại từ autô ở tặng cách (dative) nam-tính và có nghĩa là “cho Người”, tức là ca ngợi Người. Chúng tôi nghĩ rằng giáo sư Fitzmyer có lý khi cho rằng đại từ autô ở tặng cách (dative) trung-tính (neuter) và có nghĩa là “về điều này”.
- thán phục (22): Động từ thaumazein có thể diễn tả sự kinh ngạc (đi đôi với chỉ trích, nghi ngờ, phê phán; x. Lc 11,38) hoặc sự thán phục (đi đôi với sự thích thú bất ngờ; x. Lc 1,63; 2,18; 2,33; 7,9.8.25; 9,43;11,14; 20,26 …). Theo ngữ cảnh (đến sau “tán thành” và được nối với động từ bằng “và”), chỉ có thể chọn nghĩa “thán phục”.
- không phải là con ông Giuse đó sao? (22): Câu này có thể diễn tả sự khó chịu, bực bội, khinh bỉ hoặc một sự ngạc nhiên đầy thích thú, sự thán phục. Theo ngữ cảnh, có thể hiểu là sự thán phục.
- Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình (23): Đức Giêsu dùng câu tục ngữ này để diễn tả ra nguyện vọng thầm kín của người Do Thái: Vì họ đã nghe biết nhiều về hoạt động của Đức Giêsu tại Caphácnaum, họ ước muốn Người cũng làm như thế cho quê hương. Câu nói tiếp theo câu tục ngữ đã giải thích ý nghĩa của câu tục ngữ. Người dân Nadarét đang tính toán vụ lợi.
- không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương (24): Khi dịch tính từ dektos bằng “được chấp nhận”, Bản Dịch CGKPV đã coi dektos có ý nghĩa tương tự như atimos trong Mc 6,4 và Mt 13,57, mà thật ra đây cũng là cách dịch của các Bản dịch nổi tiếng thế giới là BJ, TOB và NAB, và là ý kiến của một giáo sư chuyên về truyền thống Luca, J.A. Fitzmyer (x. The Gospel according to Luke I-IX, The Anchor Bible, Doubleday NY 1970, 537). Tuy nhiên, lúc ấy ta thấy là phản ứng mạnh của Đức Giêsu như thế không phù hợp với thái độ của cử tọa. Hơn nữa, các lời Đức Giêsu nói lại không thống nhất: người ta xin Người làm phép lạ (điều này giả thiết là người ta có tin, dù chút ít), Người lại than trách là bị tiếp đón tệ bạc (c. 24). Đã thế, các ví dụ Người nêu ra ở cc. 25-27 lại không phù hợp với hoàn cảnh: không phải là các ngôn sứ bị tiếp đón tệ bạc (như Người), nhưng lại là các ngôn sứ mới từ chối làm những phép lạ để giúp đỡ người đồng hương. Như vậy, phải kết luận là bản văn Lc thiếu mạch lạc?
Vấn đề là các học giả đã hiểu bản văn Lc theo hướng của các bản văn song song Mc và Mt, thế mà bản văn Lc lại khác: thay vì dùng từ atimos (“bị khinh bỉ”), tác giả dùng dektos. Dektos là một tính từ phái sinh từ động từ dechomai (“đón nhận, đón tiếp, chấp nhận”) và thường có nghĩa bị động (passive); trong trường hợp này, dektos tương đương với atimos. Tuy nhiên, tính từ này cũng có một nghĩa chủ động (active) (x. M. Zerwick, Biblical Greek, Rome 1963, số 142), “đón nhận, ân cần, thuận thảo, thuận lợi”. Và trong thực tế, cách đó năm câu, từ dektos có ý nghĩa chủ động (“Năm hồng ân = năm thuận lợi; năm đón nhận”). Nếu như thế, câu nói của Đức Giêsu hẳn sẽ có nghĩa là: không một ngôn sứ nào dành ưu tiên / thiên vị cho / với quê hương; và hiểu cụm từ “không một ngôn sứ nào” là một cụm từ nói “ngoa”, chứ không theo nghĩa chữ và nghĩa xấu (= một ngôn sứ luôn luôn tỏ ra bất thuận lợi với quê hương mình), bởi vì trong thực tế Mt 13,58 và Mc 6,5 cho thấy là Đức Giêsu cũng có làm một vài phép lạ tại Nadarét. Cuối cùng, câu nói của Đức Giêsu có ý nghĩa là: Một ngôn sứ không tỏ ra thuận thảo với quê hương mình hơn là với người ngoại quốc; tất cả là vấn đề đức tin và tình trạng tâm hồn sẵn sàng. Hiểu như thế, bản văn rất mạch lạc.
Có người bẻ lại: bản văn nói “en tê patridi”: patri, “quê hương”; giới từ en, “tại, trong”; vậy en tê patridi có nghĩa là “tại quê hương”, mà như thế, nghĩa bị động của dektos được biện minh. Thật ra, trong hy-ngữ phổ thông [koinê] (hy-ngữ Tân Ước là hy-ngữ này), en không chỉ có nghĩa nơi chốn, mà còn có nghĩa thời gian, dụng cụ, nguyên nhân, v.v. Trong nhiều cách sử dụng ấy, en thường được dùng với các động từ nói về tình cảm để diễn tả “điều mà tâm tình hướng về” (W. Bauer, A Greek-English Lexicon of the New Testament and Other Early Christian Literature, The University of Chicago Press, Chicago 1957, tr 160: III,3b).
- nhưng quả thật, tôi nói cho các ông hay (25): De, “nhưng”, tiêu từ ở đầu c. 25 này rất quan trọng, diễn tả một ý đối lập.
- hạn hán ba năm sáu tháng (25): 1 V 18,1 nói rằng có mưa “vào năm thứ ba”. Ở đây, tác giả Lc kế thừa một truyền thống khác, có được nhắc đến trong Gc 5,17. Theo truyền thống này, thời gian hạn hán kéo dài bằng thời gian khốn quẫn trong văn chương khải huyền (thời gian này được rút ra từ thời gian cuộc bách hại dưới triều Antiôkhô IV Êpiphanê: Đn 7,25; 12,7; x. Kh 11,2; 12,6.14. Tác giả Lc không quan tâm đến ý nghĩa khải huyền. Trời hạn hán”: dịch sát là “trời bị đóng [cửa] lại”: thái bị động thay tên Thiên Chúa.
- không được sai đến (26): Đây là thái bị động thay tên Thiên Chúa. Xem cả c. 27, “được sạch”.
- bà góa thành Sarépta (26): xem 1 V 17,9 (LXX).
- ông Naaman (27): xem 2 V 5,1-19.
- thành này được xây trên cao (29): Nadarét hiện đại được xây trên một triền đồi, xung quanh có các đồi khác vây bọc. Nhưng ta không thể xác định được nơi nào đã xảy ra s
Các tin khác