Thứ bảy, ngày 27 tháng 04 năm 2024 | 08:02 AM - Giới thiệu | Ý nghĩa logo
Thông tin

MỤC VỤ LÃNH ĐẠO

TIN CẬY MẾN

 

LM. NguyỄn Văn Hinh (D.Min)

 

 

 

Lý do

Tội nguyên tổ là tội của lãnh đạo: Tội qui vu trưởng. Lãnh đạo làm nên hậu và hệ quả khác biệt. Khủng hoảng đức tin là khủng hoảng lãnh đạo: “Đánh chủ chăn, đàn chiên sẽ tan tác”. Đó là kế hoạch thâm sâu của Satan. Môi trường bị suy thoái làm mất thăng bàng cuộc sống, khiến con người bị khủng hoảng và làm suy thoái người lãnh đạo, khiến họ rơi vào tình trạng mất bình an nội tâm và muốn xin từ chức.

Lời cảnh báo của Dức Hồng y Ratzinger, 1969: Giáo hội trở về với số Zero. Tương lai giáo hội cần một Đứcc tin trong sáng, đổi mới, một ngôi nhà hy vọng”.

Dẫn nhập

Chủ đề tĩnh tâm mùa vọng cho giáo triều Rôma: 2022: Tin Cậy Mến[1]. Ba Nhân đức đối thần trong hành trình Kitô hữu của chúng ta[2]. Tôi xin chia sẻ: “Mục vụ Lãnh đạo - Tin Cậy Mến”.

Đức tin

Đức Kitô, nguồn gốc và sự viên mãn của đức tin

“Đấng khai mở và kiện toàn đức tin. “ (Dt 12:2). Vì thế, chúng ta hãy bắt đầu suy tư từ cánh cửa đầu tiên trong ba cánh cửa: đó là đức tin. Chúng ta đọc trong Sách Tông Đồ Công Vụ rằng Thiên Chúa “đã mở cánh cửa đức tin cho dân ngoại” (Cv 14:27). Thiên Chúa mở cánh cửa đức tin theo nghĩa Người ban khả năng tin bằng cách sai đến những người rao giảng Tin Mừng; con người mở cánh cửa đức tin bằng cách chấp nhận. Do đó, đức tin Kitô giáo không chỉ bao gồm việc tin vào Thiên Chúa; nó hệ tại ở việc tin vào Đấng mà Thiên Chúa đã sai đến. Trước khi làm phép lạ, Chúa Giêsu hỏi: “Anh có tin không?” và sau khi hoàn thành, Ngài khẳng định: “Đức tin của anh đã cứu anh”, Ngài không ám chỉ một niềm tin chung chung vào Thiên Chúa (điều này được coi là điều hiển nhiên ở mọi người Israel); nhưng đề cập đến niềm tin vào Người, vào sức mạnh thiêng liêng được ban cho Người.
Bây giờ đây, đức tin công chính hóa kẻ gian ác, đức tin sinh ra sự sống mới. Thư gửi tín hữu Rôma. Ngài nói, mọi sự bắt đầu từ đôi tai, từ việc nghe công bố Tin Mừng: “Đức tin đến từ việc lắng nghe”, fides ex auditu. Từ đôi tai, chuyển động đi đến trái tim, nơi quyết định cơ bản được đưa ra: corde creditur, “người ta tin bằng trái tim”. Từ trái tim, chuyển động quay trở lại miệng: “bằng miệng người ta tuyên xưng đức tin”.  Quá trình không kết thúc ở đó, mà – từ đôi tai, trái tim và cái miệng – nó chuyển sang đôi tay. Vâng, bởi vì như Thánh Tông Đồ nói “đức tin hành động nhờ tình yêu” (Gl 5:6). Thánh Giacôbê Tông đồ có thể cảm thấy yên tâm. Cũng có chỗ cho “việc làm”: tuy nhiên, không phải trước, mà là sau đức tin. Thánh Grêgôriô Cả nói: “Người ta không đạt đến đức tin bắt đầu từ các nhân đức, nhưng đạt đến các nhân đức bắt đầu từ đức tin”.
Lúc này, một câu hỏi rất thời sự được đặt ra. Nếu đức tin cứu rỗi là đức tin nơi Chúa Kitô, thì phải nghĩ sao về tất cả những người không có cơ hội tin nơi Ngài? Chúng ta đang sống trong một xã hội đa nguyên, kể cả về tôn giáo. Các nền thần học của chúng ta - Đông phương và Tây phương, Công Giáo cũng như Tin lành - đã phát triển trong một thế giới mà trên thực tế chỉ có Kitô giáo tồn tại. Tuy nhiên, sự tồn tại của các tôn giáo khác đã được biết đến, nhưng các tôn giáo ấy đã bị coi là sai ngay từ đầu, hoặc hoàn toàn không được xem xét. Ngoài cách hiểu khác nhau về Giáo Hội, tất cả các Kitô hữu đều chia sẻ một tiên đề truyền thống: “Không có ơn cứu độ bên ngoài Giáo Hội”. Ngày nay điều này không còn đúng nữa. Trong một thời gian, đã có một cuộc đối thoại giữa các tôn giáo, dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau và thừa nhận các giá trị hiện diện trong mỗi tôn giáo. Trong Giáo Hội Công Giáo, điểm khởi đầu là tuyên ngôn “Nostra aetate” của Công đồng Vatican II, và tất cả các Giáo Hội Kitô, đều chia sẻ một định hướng tương tự. Với sự công nhận này, có một xác tín đã bám rễ cho rằng ngay cả những người bên ngoài Giáo Hội cũng có thể được cứu. Theo quan điểm mới này, liệu còn có thể duy trì vai trò cho đến nay được gán cho niềm tin “rõ ràng” vào Chúa Kitô hay không? Trong trường hợp này, phải chăng châm ngôn cổ xưa: “ngoài Giáo Hội không có ơn cứu độ” cuối cùng, tồn tại được trong định đề “ngoài đức tin không có ơn cứu độ”? Trên thực tế, trong một số giới Kitô Hữu, điều sau là học thuyết thống trị và nó là điều thúc đẩy sự dấn thân truyền giáo. Tuy nhiên, theo cách này, sự cứu rỗi ngay từ đầu đã bị giới hạn cho một thiểu số rất nhỏ người dân. Điều này không thể khiến chúng ta hài lòng và nó có lỗi với Chúa Kitô, tước đoạt của Ngài một phần lớn nhân loại. Người ta không thể tin rằng Chúa Giêsu là Thiên Chúa, rồi giới hạn sự liên quan thực sự của Ngài vào một phần rất hẹp duy nhất của nó. Chúa Giêsu là “Đấng Cứu Độ Thế Gian” (Ga 4:42); Chúa Cha đã sai Chúa Con “để thế gian nhờ Người mà được cứu độ” (Ga 3:17): thế gian, không phải là một tập hợp ít người trên thế giới!
Chúng ta hãy thử tìm câu trả lời trong Kinh Thánh. Kinh Thánh khẳng định rằng ai chưa biết Đức Kitô, nhưng hành động theo lương tâm của mình (Rm 2:14-15) và làm điều thiện cho người thân cận (Mt 25:3 tt.) thì được Thiên Chúa chấp nhận. Trong sách Tông Đồ Công Vụ, chúng ta nghe từ miệng Thánh Phêrô tuyên bố long trọng này: “Quả thật, tôi thấy Thiên Chúa không thiên vị ai. Trái lại, trong mọi nước, ai kính sợ Ngài và hành động ngay thẳng đều được Ngài chấp nhận” (Cv 10:34-35).
Ngay cả những người theo các tôn giáo khác nói chung cũng tin rằng “Thiên Chúa hiện hữu và ban thưởng cho những ai tìm kiếm Ngài” (Dt 11: 6); do đó, họ nhận ra điều mà Kinh thánh coi là dữ liệu cơ bản và chung của mọi niềm tin. Tất nhiên, điều này áp dụng theo một cách rất đặc biệt đối với những anh em Do Thái tin vào cùng một Thiên Chúa của Ápraham, Isaác và Giacóp mà Kitô hữu chúng ta tin.
Tuy nhiên, lý do chính cho sự lạc quan của chúng ta không dựa trên điều thiện mà những người theo tôn giáo khác có thể làm được, nhưng dựa trên “ân sủng muôn hình muôn vẻ của Thiên Chúa” (1Pr 4:10). Đôi khi tôi cảm thấy cần phải dâng hy tế Thánh Lễ chính xác nhân danh tất cả những người được cứu nhờ Chúa Kitô, nhưng không biết điều đó và không thể tạ ơn Người. Phụng vụ cũng thúc giục chúng ta làm như vậy. Trong Kinh Nguyện Thánh Thể 4, ngoài lời cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng, Đức Giám Mục và tín hữu, một lời cầu nguyện được thêm vào “cho tất cả những ai thành tâm tìm kiếm Chúa”.
Thiên Chúa có nhiều cách để cứu rỗi hơn chúng ta có thể nghĩ đến. Ngài đã thiết lập các “kênh” ân sủng của mình, nhưng Ngài không tự ràng buộc mình với những kênh ấy. Một trong những phương tiện cứu rỗi “phi thường” này là đau khổ. Sau khi Đức Kitô đã mặc lấy và cứu chuộc, thì một cách nào đó, đau khổ cũng là một bí tích cứu độ phổ quát. Người đã xuống nước sông Giođan để thánh hóa nước trong mọi phép rửa, Người cũng xuống nước của khổ nạn và sự chết, biến chúng thành khí cụ cứu rỗi tiềm tàng. Một cách mầu nhiệm, mọi đau khổ – không chỉ đau khổ của các tín hữu –, theo một cách nào đó, hoàn thành “điều còn thiếu sót* trong những gian nan thử thách của Đức Kitô” (Cl 1:24) [Thánh Phaolô viết “Giờ đây, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh]. Giáo Hội cử hành lễ Các Thánh Anh Hài; các thánh này cũng không biết rằng họ đang chịu khổ vì Chúa Kitô!
Chúng ta tin rằng tất cả những ai được cứu rỗi đều là nhờ công nghiệp của Chúa Kitô: “Chẳng có sự cứu rỗi bởi đấng nào khác, cũng chẳng có danh nào khác dưới gầm trời ban cho loài người mà nhờ đó chúng ta được cứu.” (Công vụ 4:12). Tuy nhiên, khẳng định nhu cầu phổ quát của Chúa Kitô đối với ơn Cứu Độ là một chuyện, và khẳng định sự cần thiết phổ quát của đức tin nơi Chúa Kitô để được cứu rỗi lại là một chuyện khác.
Vậy có thừa không khi tiếp tục loan báo Tin Mừng cho mọi tạo vật? Còn cần hơn nữa! Cần phải thay đổi lý do truyền giáo, chứ không phải thay đổi việc truyền giáo. Chúng ta phải tiếp tục loan báo Chúa Kitô; không phải vì một lý do tiêu cực – là nếu không thì thế giới sẽ bị kết án – mà vì một lý do tích cực: vì ân sủng vô hạn mà Chúa Giêsu mang đến cho mỗi con người. Đối thoại liên tôn không đối lập với việc rao giảng Tin Mừng, nhưng nó xác định phong cách của việc rao giảng Tin Mừng. Cuộc đối thoại này – Thánh Gioan Phaolô II đã viết trong thông điệp “Sứ vụ của Đấng Cứu Chuộc” – “là một phần trong sứ mệnh rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội”.
Mệnh lệnh của Đức Kitô: “Hãy đi khắp thế gian, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16:15) và “Làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28:19) vẫn có giá trị vĩnh cửu, nhưng phải được hiểu trong bối cảnh lịch sử của nó. Đây là những từ ám chỉ thời điểm chúng được viết ra, khi “cả thế giới” và “mọi dân tộc” là cách nói rằng thông điệp của Chúa Giêsu không chỉ dành cho dân Do Thái mà còn cho phần còn lại của thế giới. Chúng luôn có giá trị đối với tất cả mọi người, nhưng đối với những người đã thuộc về một tôn giáo thì cần có sự tôn trọng, kiên nhẫn và yêu thương. Thánh Phanxicô thành Assisi đã hiểu điều này và đem ra thực hành. Ngài dự tính hai cách để đi tới “người Hồi Giáo và những kẻ ngoại đạo khác”. Ngài viết trong Bản luật của mình:
Tuy nhiên, những anh em đi giữa những người Hồi Giáo và những người ngoại đạo khác có thể cư xử theo hai cách về mặt tinh thần giữa họ. Một cách là không tranh cãi hay tranh chấp; nhưng hãy để những người ấy là “chủ thể của sinh vật con người vì lợi ích của Chúa,” nhưng anh em vẫn tuyên xưng mình là Kitô hữu. Cách khác là khi họ thấy điều đó đẹp lòng Thiên Chúa, thì anh em công bố Lời của Thiên Chúa, để những người ấy có thể tin vào Thiên Chúa Toàn Năng, Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần, Đấng Tạo Hóa của muôn vật, Chúa Cứu Thế và Cứu Chuộc của chúng ta, ngõ hầu họ có thể được chịu phép rửa tội và trở thành Kitô hữu.
Thách thức của khoa học
Với trái tim rộng mở này, bây giờ chúng ta hãy trở lại với niềm tin Kitô giáo của mình. Thử thách lớn lao mà đức tin phải đương đầu trong thời đại chúng ta không đến từ triết học như trong quá khứ, nhưng đến từ khoa học. Có một tin tức giật gân cách đây vài tháng. Một kính viễn vọng được phóng lên vũ trụ vào ngày 25 tháng 12 năm 2021 và ở vị trí cách trái đất một triệu rưỡi km, đã gửi những hình ảnh phi thường về vũ trụ vào ngày 12 tháng 7 năm nay khiến giới khoa học phải say mê.
“Kính viễn vọng mới – chúng ta đọc trên tin tức – đã mở ra một cửa sổ mới về vũ trụ, có thể đưa chúng ta quay ngược thời gian, cho đến ngay sau vụ nổ lớn ban đầu của thế giới. Đó là cái nhìn chi tiết nhất về vũ trụ sơ khai từng có được. Nó đại diện cho hương vị đầu tiên của một ngành thiên văn học mới và mang tính cách mạng sẽ tiết lộ vũ trụ mà chúng ta chưa từng thấy trước đây”.
Chúng ta sẽ thật ngu ngốc và vô ơn nếu không tham gia vào niềm tự hào chính đáng của nhân loại về điều này cũng đúng đối với bất kỳ khám phá khoa học nào khác. Như đã nói, nếu niềm tin được nảy sinh từ việc lắng nghe cũng như từ sự ngạc nhiên thì những khám phá khoa học này không nên làm giảm khả năng tin tưởng, mà phải làm tăng khả năng tin tưởng. Nếu sống ở thời nay, tác giả Thánh Vịnh sẽ còn nhiệt tình hát hơn nữa: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo kỳ công tay Người làm” (Tv 19:2) và Thánh Phanxicô Assisi: “Lạy Chúa, chúc tụng Chúa với muôn loài”.
Chúa muốn ban cho chúng ta một dấu hiệu hữu hình về sự vĩ đại vô tận của Ngài với sự bao la của vũ trụ và muốn ban cho chúng ta một dấu hiệu về “sự khó thấu hiểu” của Ngài với hạt vật chất nhỏ nhất mà vật lý học bảo đảm dù từng được biết đến vẫn có “sự không chắc chắn” của nó. Vũ trụ không tự tạo ra nó. Chất lượng của sự tồn tại là điều quyết định chứ không phải số lượng; và chất lượng của sự sáng tạo là… được tạo ra! Hàng tỷ thiên hà, cách xa hàng tỷ tỷ năm ánh sáng, không thay đổi chất lượng này.
Chúng ta đưa ra những suy tư về đức tin và khoa học này không phải để thuyết phục các nhà khoa học không có đức tin (không ai trong số họ ở đây để nghe hoặc đọc những lời này), mà là để củng cố chúng ta là những người tin vào đức tin của chúng ta và không bị quấy rầy bởi những tiếng nói trái ngược. Đó cũng là mục đích mà Thánh Luca nói với “Theophilô lừng lẫy” rằng ngài đã viết Tin Mừng của mình: “để anh em nhận ra sự chắc chắn của những lời anh em đã lãnh nhận” (Lc 1: 4).
Đối mặt với sự mở ra trước mắt chúng ta các chiều kích vô tận của vũ trụ, hành động đức tin lớn nhất đối với Kitô hữu chúng ta không phải là tin rằng tất cả những điều này được tạo ra bởi Thiên Chúa, mà là tin rằng “muôn vật được tạo dựng nhờ Chúa Kitô và cho Ngài. “(Cl 1:16), rằng “không có Người thì không có gì” (Ga 1:3). Kitô hữu có bằng chứng về Thiên Chúa thuyết phục hơn nhiều so với bằng chứng thu được từ vũ trụ: đó là con người và cuộc đời của Chúa Giêsu Kitô.
Các tín hữu không phải là đà điểu. Chúng ta không giấu đầu trong cát để không nhìn thấy. Chúng ta chia sẻ với mỗi người sự hoang mang trước muôn vàn bí ẩn và mâu thuẫn của vũ trụ: của tiến hóa tự nhiên, của lịch sử, của chính Kinh thánh… Tuy nhiên, chúng ta có thể vượt qua sự hoang mang đó bằng một điều chắc chắn mạnh mẽ hơn mọi điều không chắc chắn: đó là sự khả tín của con người Đức Kitô, của đời sống và lời nói của Người. Sự chắc chắn trọn vẹn và vui mừng không đến trước mà đến sau khi đã tin.
Người công chính sẽ sống nhờ niềm tin
Đức tin là tiêu chí duy nhất có khả năng khiến chúng ta liên hệ đúng đắn, không chỉ với khoa học, mà còn với lịch sử. Khi nói về đức tin công chính hóa, thánh Phaolô trích dẫn lời sấm nổi tiếng Khabarúc: “người công chính thì sẽ được sống, nhờ lòng thành tín của mình” (Ab 2:4). Thiên Chúa có ý gì qua lời tiên tri đó, vì chính Thiên Chúa đã thốt ra lời ấy?
Thông điệp mở đầu bằng lời than thở của nhà tiên tri, vì sự thất bại của công lý và vì Thiên Chúa từ trên cao dường như thản nhiên chứng kiến bạo lực và áp bức. Chúa trả lời rằng tất cả những điều này sắp kết thúc vì một tai họa mới sẽ sớm đến – người Chanđê – sẽ quét sạch mọi thứ và mọi người. Nhà tiên tri phản đối giải pháp này. Đây lại là câu trả lời của Chúa sao? Một sự áp bức thay thế cho một sự áp bức khác à?
Nhưng ngay tại đây, Thiên Chúa đang chờ đợi nhà tiên tri: “Này đây, ai không có tâm hồn ngay thẳng sẽ ngã gục, còn người công chính thì sẽ được sống nhờ lòng thành tín của mình” (Ab 2, 2-4). Nhà tiên tri được yêu cầu thực hiện bước nhảy vọt về đức tin. Thiên Chúa không giải quyết bí ẩn của lịch sử, nhưng yêu cầu chúng ta tin tưởng vào Ngài và công lý của Ngài, bất chấp mọi thứ. Giải pháp không nằm ở việc chấm dứt thử thách, mà nằm ở việc gia tăng đức tin.
Lịch sử là cuộc đấu tranh không ngừng giữa cái thiện và cái ác, kẻ ác chiến thắng và người chính nghĩa chịu đau khổ.

Chiến thắng bền vững của cái thiện trước cái ác không được tìm thấy trong chính lịch sử, mà vượt ra ngoài lịch sử. Chúng ta hãy bỏ lại đằng sau tất cả các hình thức của chủ nghĩa thiên niên kỷ. Tuy nhiên, Thiên Chúa có quyền tể trị và kiểm soát mọi sự kiện đến nỗi ngay cả sự kích động của kẻ ác cũng phục vụ cho những kế hoạch bí ẩn của Ngài. Quả thật, Thiên Chúa viết thẳng bằng những đường cong! Các tình huống có thể nằm ngoài tầm kiểm soát của con người, nhưng với Chúa thì không.
Thông điệp của Khabacúc đặc biệt thích hợp cho chúng ta ngày nay. Nhân loại đã trải qua trong những năm cuối của thế kỷ sự giải phóng khỏi quyền lực áp bức của các hệ thống toàn trị cộng sản. Nhưng chúng ta không có thời gian để thở phào nhẹ nhõm vì những bất công và bạo lực khác đã phát sinh trên thế giới. Có những người, khi “chiến tranh lạnh” kết thúc, đã ngây thơ tin rằng chiến thắng của nền dân chủ giờ đây sẽ dứt khoát khép lại chu kỳ của những biến động lớn và rằng lịch sử sẽ tiếp tục tiến trình của nó mà không có những cú sốc kinh hoàng. Chính xác là không có thêm “lịch sử” như thế. Luận điểm này đã sớm bị bác bỏ một cách đáng tiếc bởi các sự kiện, với sự xuất hiện của các chế độ độc tài khác và sự bùng nổ của các cuộc chiến tranh mới, bắt đầu từ cuộc chiến “Vùng Vịnh”, cho đến cuộc chiến bất hạnh năm nay ở Ukraine.
Trong hoàn cảnh này, câu hỏi chân thành của vị tiên tri cũng được khuấy động trong chúng ta: “Lạy Chúa, cho đến khi nào? Chúa có đôi mắt quá trong sáng đến nỗi Chúa không thể nhìn thấy điều ác sao! Tại sao có quá nhiều bạo lực, quá nhiều xác người trơ xương vì đói, quá nhiều sự tàn ác trên thế giới mà Chúa không can thiệp?” Câu trả lời của Chúa vẫn thế: ai không có tấm lòng ngay thẳng với Chúa thì dễ bi quan và vấp phạm, còn người công chính sẽ được sống nhờ lòng thành tín của mình và tìm được câu trả lời trong đức tin của mình. Anh ta sẽ hiểu điều Chúa Giêsu muốn nói khi, trước mặt Philatô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này”(Ga 18:36).
Nhưng chúng ta hãy ghi nhớ kỹ điều đó trong đầu và nếu cần, hãy thông báo với thế giới: Thiên Chúa công minh và thánh thiện; Ngài sẽ không cho phép cái ác có tiếng nói cuối cùng và những kẻ bất lương thoát tội. Sẽ có một sự phán xét ở phần kết của câu chuyện, “một cuốn sách viết sẽ được mở ra, trong đó chứa đựng mọi thứ và theo đó thế giới sẽ được phán xét”: Liber scriptus proferetur – in quo totum continetur – und mundus judicetur.
Một sự phán xét đầu tiên, không hoàn hảo nhưng nằm trong tầm tay của tất cả mọi người, các tín hữu và những người không tin, hiện đã có sẵn, hơn nữa có cả trong lịch sử. Những ân nhân của nhân loại đã làm việc vì lợi ích thực sự của đất nước họ và vì hòa bình thế giới được ghi nhớ với sự vinh danh và chúc lành từ thế hệ này sang thế hệ khác; tên của bạo chúa và những kẻ bất lương tiếp tục qua nhiều thế kỷ đi kèm với sự ô nhục và bị trù dập. Chúa Giêsu đã mãi mãi đảo ngược vai trò. “Người chiến thắng vì là nạn nhân”, do đó, Thánh Augustinô định nghĩa Chúa Kitô: Victor quia victima. Dưới ánh sáng của sự vĩnh cửu – và cả của lịch sử – không phải những kẻ hành quyết mới là những người chiến thắng thực sự, mà là những nạn nhân của họ.
Điều mà Giáo Hội có thể làm, để không chứng kiến một cách thụ động lịch sử, là đứng về phía chống lại những kẻ áp bức và kiêu ngạo và luôn đặt mình, “đúng lúc cũng như toàn thời gian”, về phía người nghèo, người yếu thế, những nạn nhân, những người gánh chịu mọi bất hạnh và mọi cuộc chiến.
Những gì Giáo Hội có thể làm cũng là loại bỏ một trong những yếu tố luôn gây ra xung đột là sự cạnh tranh giữa các tôn giáo, những “cuộc chiến tôn giáo” khét tiếng. Một lực đẩy đạo đức có thể đến từ sự hiểu biết và sự hợp tác trung thành giữa các tôn giáo lớn đã ghi dấu ấn trong lịch sử chứ không phải tiến trình mới mà chúng ta mong đợi một cách vô ích từ các cường quốc chính trị. Theo nghĩa này, cần phải thấy được sự hữu ích của các sáng kiến cho một cuộc đối thoại mang tính xây dựng giữa các tôn giáo do thánh Gioan Phaolô II khởi xướng và được Đức Giáo Hoàng đương nhiệm thúc đẩy ngày nay.
Đức tin là vũ khí của Giáo Hội. Giáo Hội, giống như người công chính của Khabacúc, cũng “sống nhờ đức tin của mình”. Trong tiếng Ý, từ “đức tin” có nghĩa thứ hai, đó là chiếc nhẫn cưới mà vợ chồng trao nhau trong ngày cưới. Đức tin, nhân đức đối thần, là chiếc nhẫn cưới của Hiền Thê Chúa Kitô! Rôma từ lâu đã không còn là caput mundi, thủ đô của thế giới, nhưng nó phải là caput fidei, thủ đô của đức tin. Không chỉ có niềm tin đúng đắn, tức là chính thống, mà còn có cường độ tin tưởng.
Điều mà các tín hữu nắm bắt ngay lập tức nơi một linh mục và một mục tử là liệu họ có “tin vào điều đó” hay không, họ có tin vào những gì mình nói và những gì mình cử hành hay không. Ngày nay có rất nhiều việc sử dụng truyền dẫn không dây hay WiFi, như chúng ta nói trong tiếng Anh. Đức tin cũng được truyền đạt tốt hơn theo cách này: không ràng buộc, không nhiều lời nói và tranh luận, nhưng thông qua một luồng ân sủng được thiết lập giữa hai người.
Hành động đức tin lớn nhất mà Giáo Hội có thể làm – sau khi đã cầu nguyện và làm mọi điều có thể để tránh hoặc chấm dứt xung đột – là tuân phụcThiên Chúa với một hành động hoàn toàn tin tưởng và từ bỏ trong thanh thản, đồng thời lặp lại cùng với Thánh Tông đồ: “Tôi biết tôi tin vào ai!”: Scio cui credidi (2 Tim 1:12). Thiên Chúa không bao giờ rút lui để làm cho những ai lao vào vòng tay của Người sẽ rơi vào hư không.
Vì thế, chúng ta hãy đi gặp Chúa Kitô, Đấng đang đến, với một hành vi đức tin cũng như với một lời hứa của Thiên Chúa và do đó là một lời tiên tri: “Thế giới ở trong tay Thiên Chúa và khi lạm dụng tự do của mình, con người đã chạm đến đáy, Người sẽ can thiệp để cứu con người”. Vâng, Người sẽ can thiệp! Đây là lý do tại sao Người đến thế giới hai nghìn hai mươi hai năm trước[3]
Henri de Lubac đã viết: “Thế giới phải biết rằng sự mặc khải về Tình yêu Thiên Chúa làm đảo lộn mọi thứ mà người ta đã quan niệm về thần thánh”. Cho đến ngày nay, chúng ta vẫn chưa hoàn thành, và sẽ không bao giờ hoàn thành, việc rút ra tất cả những hậu quả từ cuộc cách mạng truyền giáo về Thiên Chúa là tình yêu. Thánh Irênê dạy chúng ta rằng Chúa Thánh Thần liên tục làm tươi mới kho tàng mạc khải, cùng với chiếc bình chứa đựng kho tàng đó, là truyền thống của Giáo hội. Với sự giúp đỡ của Ngài, chúng ta hãy cố gắng hiểu đâu là hệ quả cần được khám phá và nhất là phải sống nhân đức bác ái thần học.
Có nhiều luận thuyết về bổn phận và mức độ tình yêu dành cho Thiên Chúa, nói cách khác, về “Thiên Chúa để chúng ta yêu” (De diligendo Deo); Tôi không biết luận thuyết nào đề cập đến “Thiên Chúa yêu thương chúng ta”! Bản thân Kinh thánh là một chuyên luận về Thiên Chúa, Đấng yêu thương chúng ta; nhưng, bất chấp điều này, hầu như luôn luôn, khi chúng ta nói về “tình yêu Thiên Chúa”, Chúa là đối tượng chứ không phải là chủ ngữ của câu.
Đúng là Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi, là “điều răn đầu tiên và lớn nhất”. Đây chắc chắn là điều đầu tiên trong thứ tự của các điều răn; nhưng thứ tự của các điều răn không phải là thứ tự đầu tiên, thứ tự trên hết mọi thứ! Trước trật tự của các điều răn, có trật tự của ân sủng, nghĩa là tình yêu nhưng không của Thiên Chúa. Bản thân các điều răn được thành lập trên ân sủng; bổn phận yêu mến Thiên Chúa dựa trên việc được Thiên Chúa yêu thương: “Chúng ta yêu vì Người đã yêu chúng ta trước”, thánh sử Gioan vừa nhắc nhở chúng ta. Đây là nét mới lạ của đức tin Kitô giáo đối với bất kỳ nền đạo đức nào dựa trên “bổn phận” hoặc “mệnh lệnh tuyệt đối”. Chúng ta đừng bao giờ đánh mất điều này.
Chúng ta đã tin vào tình yêu của Thiên Chúa
Do đó, mở cánh cửa tình yêu cho Chúa Kitô có một ý nghĩa rất cụ thể: đó là đón nhận tình yêu của Thiên Chúa, và tin tưởng vào tình yêu đó. “Chúng ta đã biết và tin vào tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta”, Thánh Gioan viết trong cùng một bối cảnh (1 Ga 4:16). Giáng Sinh là biểu hiện - theo nghĩa đen của sự hiển linh – của lòng tốt và tình yêu Thiên Chúa dành cho thế giới. Thánh Phaolô viết “Ân sủng của Thiên Chúa đã xuất hiện (epephane), cứu rỗi tất cả mọi người”; và trong thư gởi Timôthêô, ngài nhắc lại một lần nữa: “lòng nhân hậu và tình yêu quảng đại của Thiên Chúa, vị cứu tinh của chúng ta đã xuất hiện” (Tit 2, 11; 3, 4).

Kitô giáo không chỉ bao gồm việc tin vào Thiên Chúa; nó hệ tại ở việc tin vào Đấng mà Thiên Chúa đã sai đến. Trước khi làm phép lạ, Chúa Giêsu hỏi: “Anh có tin không?” và sau khi hoàn thành, Ngài khẳng định: “Đức tin của anh đã cứu anh”, Ngài không ám chỉ một niềm tin chung chung vào Thiên Chúa; nhưng đề cập đến niềm tin vào Người, vào sức mạnh thiêng liêng được ban cho Người. “Đức tin đến từ việc lắng nghe”. Từ đôi tai, chuyển động đi đến trái tim, nơi quyết định cơ bản được đưa ra,  “người ta tin bằng trái tim”. Từ trái tim, chuyển động quay trở lại miệng: “bằng miệng người ta tuyên xưng đức tin”. Quá trình không kết thúc ở đó, mà – từ đôi tai, trái tim và cái miệng – nó chuyển sang đôi tay. Vâng, bởi vì như Thánh Tông Đồ nói “đức tin hành động nhờ tình yêu” (Gl 5:6). Thánh Giacôbê Tông đồ có thể cảm thấy yên tâm. Cũng có chỗ cho “việc làm”: tuy nhiên, không phải trước, mà là sau đức tin. Thánh Grêgôriô Cả nói: “Người ta không đạt đến đức tin bắt đầu từ các nhân đức, nhưng đạt đến các nhân đức bắt đầu từ đức tin”[4].

Đức cậy : Hy vọng

Phúc ấm. “Trong nhà cha ta có nhiều chỗ …Thầy đi để dọn chỗ cho các con. Thầy ở dâu thì các con cũng ờ đó với Thày”[5]. Công đồng Vat. II: Hiến chế “Vui mừng và hy vọng”. Chúa Thánh Thần và Giáo hội, qua các nghị quyết, thổi vào thế giới và con người nguồn hy vọng sức sống mới.  Đức Hồng Y Cantalamessa ví Giáo hội như chiếc neo: Niềm hy vọng vĩnh hằng và như cánh buồm, ra đi, tiến lên. Văn hóa: “Sống hạnh phúc? Thứ nhất, sống tốt: Sống có vất chất, đáp ứmh nhu cầu cá nhân. Thứ hai, sống đạo đức: thiện ích chung. Sống hạnh phúc tốt có lợi ích gì? Sống hạnh phúc đời đời thì tốt hơn, tươi đẹp hơn nhiều. Đáp trả màu nhiệm đau khổ, vì cuộc sống mai hậu sau cái chết[6].  Cúa Giêsu giúp trả lời, bằng chính cuộc sống lại của Người. Ngài so sánh : “Đức Tin, Cậy, Mến” là ba chị em.  Hai chị lớn đứng hai bên cạh, dắt em Cậy ở giữa. Thực ra, em Cậy, Hy vọng kéo hai chị lớn. Chính đức Cậy, niềm Hy vọng lôi kéo mọi thứ. Hy vọng là cuộc sống. Có thể đánh mất tất cả, nhưng không để mất niềm cậy trông hy vọng. Có, còn hy vọng là có, còn tất cả. Gương Thánh Gióp và Abraham trong cựu ước chứng minh chân lý hy vọng.

Đức mến

Tân Ước:
Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng là chính Người đã yêu thương chúng ta và sai Con của Người đến đền tội cho chúng ta. Chúng ta yêu mến vì Người đã yêu thương chúng ta trước (1Ga 4:12.19). Thánh Ambrôsiô bình luận. “Cánh cửa của chúng ta là đức tin… Nếu bạn muốn nâng cánh cửa đức tin của mình lên, thì vua vinh quang sẽ đến với bạn”. Thánh Gioan Phaolô II đã biến những lời trong Thánh Vịnh thành bản tuyên ngôn cho triều đại giáo hoàng của mình. “Hãy mở rộng những cánh cửa cho Chúa Kitô!” Ba cánh cửa lớn: “Đức tin, đức cậy và đức mến”. Đây đều là những cánh cửa đặc biệt, mở bằng hai chìa khóa, một chiếc nằm trong tay con người, chiếc còn lại nằm trong tay Chúa. Con người không thể mở chúng nếu không có sự giúp đỡ của Chúa và Chúa không muốn mở những cánh cửa ấy nếu không có sự hợp tác của con người.

 

Điều quan trọng nhất cần làm trong Lễ Giáng Sinh là đón nhận, đầy ngạc nhiên, hồng ân vô biên của tình yêu Thiên Chúa. Khi bạn nhận được một món quà, thật không tế nhị chút nào khi ngay lập tức đáp lại bằng một tay khác món quà hồi đáp của bạn, có lẽ đã được chuẩn bị trước. Người ta chắc chắn sẽ có ấn tượng bạn muốn trả cho xong, cho hết nợ ngay lập tức. Đầu tiên, cần phải tôn vinh món quà nhận được và người tặng nó, với sự ngạc nhiên và lòng biết ơn. Sau đó - gần như xấu hổ và khiêm tốn - người ta có thể mở món quà của mình, như thể nó chẳng là gì so với những gì mình đã nhận được. Món quà của chúng ta dành cho Chúa, trên thực tế, chẳng khác gì là hư không! “Hành động yêu thương” truyền thống, ít nhất là trong lời nguyện riêng tư và cá nhân, không nên bắt đầu bằng những từ như: “Chúa ơi, con hết lòng yêu mến Chúa”, nhưng phải là “Chúa ơi, con hết lòng tin rằng Chúa quá yêu con”.
Điều chúng ta phải làm trước hết trong lễ Giáng Sinh là tin vào tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Chuyện này xem ra là một điều dễ dàng. Nhưng trái lại, đó là một trong những điều khó khăn nhất trên trần đời. Con người có xu hướng chủ động hơn là thụ động, làm hơn là để ai đó làm thay. Trong vô thức, chúng ta không muốn trở thành con nợ, mà là chủ nợ. Vâng, chúng ta muốn tình yêu của Thiên Chúa, nhưng như một phần thưởng, hơn là một món quà. Tuy nhiên, theo cách này, một sự thay đổi và đảo ngược được thực hiện một cách vô lý: trước hết, trên hết mọi thứ, thay cho món quà là bổn phận, thay cho ân sủng là lề luật, thay cho đức tin là việc làm.
“Chúng ta đã tin vào tình yêu!”: Đây là tiếng kêu mà chúng ta phải dồn hết sức lực để gào lên. Tôi gọi đó là “niềm tin hoài nghi”: đó là niềm tin không thể hiểu tại sao điều này lại có thể là sự thật, mặc dù chúng ta tin vào điều đó. Thiên Chúa – Đấng Vĩnh Cửu, Đấng Hiện Hữu, Đấng Tất Cả – yêu thương tôi và quan tâm đến tôi, trong khi tôi chỉ là một chút hư không lạc loài trong sự bao la của vũ trụ và của lịch sử! Tất cả những gì chúng ta có thể làm là nói cùng với nhà thơ: “Và thật ngọt ngào khi đắm tàu trong một vùng biển như vậy”.
Bạn phải trở thành một đứa trẻ để tin vào tình yêu. Trẻ em tin vào tình yêu, nhưng không dựa trên lý trí, nhưng theo bản năng, theo bản tính tự nhiên. Chúng được sinh ra tràn đầy niềm tin vào tình yêu thương của cha mẹ. Chúng xin cha mẹ những thứ chúng cần, thậm chí có thể bằng cách giậm chân khóc lóc, nhưng giả định không nói ra ở đây là chúng không phải là người đã làm ra hay có được những thứ ấy; nhưng đúng hơn chúng là những đứa trẻ và một ngày nào đó chúng sẽ là người thừa kế mọi thứ. Trên hết, chính vì lý do này mà Chúa Giêsu thường khuyên chúng ta nên trở nên như trẻ nhỏ để vào Nước Trời.
Thật không dễ dàng để trở thành một đứa trẻ một lần nữa. Sự từng trải, những cay đắng, những thất vọng của cuộc đời khiến chúng ta thận trọng, cảnh giác, đôi khi yếm thế. Tất cả chúng ta đều hơi giống Nicôđêmô. Chúng ta nghĩ “Làm thế nào một người có thể được tái sinh khi đã già?” (Ga 3: 4). Làm sao chúng ta có thể tái sinh, có thể phấn khởi, bỡ ngỡ trong ngày lễ Giáng Sinh như trẻ thơ? Nhưng Chúa Giêsu đã trả lời như thế nào cho Nicôđêmô? Thưa: Ngài phán “Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí” (Ga 3:5).
Được tái sinh không phải là kết quả của nỗ lực và tham vọng, hay sự phấn chấn của tâm hồn con người; đó là công việc của Chúa Thánh Thần. Ở đây Chúa Giêsu không chỉ nói về phép rửa; ít nhất không chỉ là phép rửa bằng nước. Đó là vấn đề tái sinh và phép rửa “trong Thần Khí”, hay “từ trên cao” (Ga 3:3), có thể được lặp lại nhiều lần trong suốt cuộc đời của một người. Đây là điều mà các tông đồ và môn đệ đã trải nghiệm trong Lễ Hiện Xuống và chúng ta cũng nên ước ao để biết được ở một mức độ nào đó về “Lễ Hiện Xuống mới” mà Thánh Giáo Hoàng Gioan 23 đã xin Chúa cho toàn thể Giáo Hội khi công bố Công Đồng.

Điều cốt yếu của Lễ Hiện Xuống được hàm chứa trong những lời này ở câu 4 của chương thứ hai sách Tông Đồ Công Vụ “Mọi người đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần”. Câu ngắn gọn mà chúng ta đã nghe hàng ngàn lần này có nghĩa là gì? “Tất cả đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần”: được thôi: nhưng Chúa Thánh Thần là gì? Thần học nói đó là tình yêu mà Chúa Cha yêu Chúa Con và Chúa Con yêu Chúa Cha. Chúng ta nói một cách thoải mái hơn: đó là sự sống, sự ngọt ngào, lửa, niềm hạnh phúc tuôn chảy trong Ba Ngôi, bởi vì tình yêu là tất cả những điều này cùng nhau và ở một mức độ vô hạn.
Vì vậy, nói rằng “mọi người đều tràn đầy Chúa Thánh Thần”, cũng giống như nói rằng tất cả mọi người đều tràn đầy tình yêu của Thiên Chúa. Họ đã có một kinh nghiệm tuyệt vời về việc được Thiên Chúa yêu thương. Qua cái chết, Đức Kitô đã phá đổ bức tường ngăn cách tội lỗi và giờ đây tình yêu của Thiên Chúa cuối cùng có thể tuôn đổ trên các tông đồ và các môn đệ, nhận chìm họ trong đại dương bình an và hạnh phúc. Khi nói rằng “tình yêu của Thiên Chúa đã tuôn đổ vào lòng chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần, Đấng đã được ban cho chúng ta” (Rm 5:5), Thánh Phaolô chỉ mô tả – dưới hình thức tổng hợp hơn là tường thuật – biến cố Lễ Ngũ Tuần, được hiện thực hóa, cho mỗi người, trong lễ rửa tội.
Tình yêu của Thiên Chúa có một khía cạnh khách quan mà chúng ta gọi là ân sủng thánh hóa, hay đức ái được thấm nhuần, nhưng nó cũng bao hàm một yếu tố chủ quan, một tác động hiện sinh, bởi vì nó ở chính bản chất của tình yêu. Chúng ta có khuynh hướng nghĩ tình yêu Chúa Thiên Chúa là một cái gì đó thuần túy khách quan, hay bản thể học, mà người có liên quan không nhận thức được. Không phải như thế. Món quà “trái tim mới” không xảy ra dưới sự gây mê hoàn toàn, giống như những ca cấy ghép tim bình thường! Chúng ta thấy điều đó từ sự thay đổi đột ngột xảy ra nơi các Tông đồ. Không còn sợ hãi, ganh đua, e dè; những người đàn ông mới, sẵn sàng vươn tới và hiến mạng sống của các ngài cho Chúa Kitô.
“Đức mến gây dựng”
Cuộc thảo luận về nhân đức đối thần là đức mến chắc chắn không kết thúc ở điểm này. Đó sẽ là một bài phát biểu dở dang, giống như một protosis, tức là một mệnh đề điều kiện, không được tiếp nối bởi một apodosis, hay một mệnh đề hệ quả. Mệnh đề điều kiện là: “Nếu Chúa yêu chúng ta nhiều lắm…”; thì apodosis, hay mệnh đề hệ quả, phải là: “chúng ta cũng phải yêu mến Ngài và yêu thương nhau”. Nhưng chúng ta có quá nhiều cơ hội để nói về việc thi hành bác ái đến nỗi chúng ta có thể bỏ qua một bên “nghĩa vụ” để chỉ đề cập đến vấn đề “quà tặng”. Do đó, tôi sẽ chỉ giới hạn bản thân mình trong một vài nhận xét ngắn gọn về những tác động xã hội và giáo hội của nhân đức bác ái thần học.
Người ta nói đức ái gây dựng: “Kiến thức thì kiêu căng, nhưng đức mến thì gây dựng” (1 Cr 8:1). Trước hết, nó xây dựng tòa nhà của Thiên Chúa là Giáo hội. “Sống theo sự thật và trong tình bác ái, chúng ta sẽ lớn lên về mọi phương diện, vươn tới Đức Kitô vì Người là Đầu. Chính Người làm cho các bộ phận ăn khớp với nhau và toàn thân được kết cấu chặt chẽ, nhờ mọi thứ gân mạch nuôi dưỡng và mỗi chi thể hoạt động theo chức năng của mình. Như thế Người làm cho toàn thân lớn lên và được xây dựng trong tình bác ái.” (Eph 4:15-16).
Bác ái là điều tạo nên thực tại vô hình của Giáo hội, societas sanctorum, hay sự hiệp thông của các thánh, như cách gọi của Thánh Augustinô. Đó là thực tại của bí tích (res Sacramenti), là ý nghĩa của dấu chỉ Giáo hội hữu hình. Thánh Phaolô nói: “Đức ái vẫn còn” (1Cr 13,13). Nó là cái duy nhất còn sót lại. Một khi Kinh thánh, đức tin, hy vọng, các đoàn sủng, các thừa tác vụ và mọi thứ khác chấm dứt, thì đức ái vẫn còn. Mọi thứ sẽ biến mất, như khi giàn giáo được sử dụng để xây dựng được tháo dỡ và tòa nhà xuất hiện trong tất cả vẻ huy hoàng của nó.
Trong một thời gian nhất định, vào thời cổ đại, toàn bộ thực tại của Giáo hội được chỉ định bằng thuật ngữ bác ái đơn giản, agape. Điều này lập tức gợi nhớ đến câu nói nổi tiếng của Thánh Inhaxiô thành Antiôkia: “Giáo hội Rôma là giáo hội chủ tọa đức bác ái (agape)”. Câu này thường được sử dụng khi đề cập đến chức năng ưu việt của Rôma và Đức Giáo Hoàng. Nhưng nó khẳng định không chỉ thực tế về tính ưu việt trong chữ “chủ tọa”, mà còn cả bản chất của nó, hoặc cách thức thực hiện nó “trong tình bác ái”. Đây là điều Giáo hội Rôma đã làm trong những thời điểm tốt đẹp nhất của mình và chắc chắn có ý định làm ngày nay, khi chọn – như trong hiến chế mới Praedicate Evangelium – đối thoại huynh đệ, tính đồng nghị và phục vụ như một phương pháp cai quản.
Tuy nhiên, bác ái không chỉ xây dựng xã hội thiêng liêng là Giáo hội, mà còn cả xã hội dân sự. Trong tác phẩm Thành phố của Chúa, Thánh Augustinô giải thích rằng có hai thành phố cùng tồn tại trong lịch sử: đó là thành phố của Satan, tượng trưng bởi Babylon, và thành phố của Chúa, tượng trưng bởi Giêrusalem. Điều phân biệt hai thực tại là tình yêu khác nhau mà chúng bị lay động. Động cơ thứ nhất là tình yêu vị kỷ dành cho bản thân bị đẩy đến mức khinh thường Thiên Chúa (amor sui usque ad contemptum Dei), động cơ thứ hai là tình yêu Thiên Chúa bị đẩy đến mức khinh miệt chính mình (amor Dei usque ad contemptum sui).
Sự đối lập, trong trường hợp này, là giữa tình yêu Thiên Chúa và tình yêu chính mình. Tuy nhiên, trong một tác phẩm khác, Thánh Augustinô đã sửa chữa một phần sự tương phản này, hoặc ít nhất là cân bằng nó. Sự tương phản thực sự đặc trưng cho hai thành phố không phải là giữa tình yêu Chúa và tình yêu chính mình. Hai tình yêu này, nếu được hiểu một cách chính xác, có thể – và thực sự, phải – tồn tại cùng nhau. Sự tương phản thực sự là giữa nội tại của lòng yêu mến bản thân và tình yêu thiện ích chung hay tình yêu xã hội, mà ngài gọi là amor socialis. Thánh nhân phân biệt lòng yêu mến bản thân với tình yêu duy ngã chỉ nghĩ đến riêng mình, mà ngài gọi là amor privatus. Chính tình yêu riêng mình – tức là tính ích kỷ – đã tạo nên thành phố của Satan, là Babylon, và chính tình yêu xã hội đã tạo nên thành phố của Thiên Chúa, nơi sự hài hòa và hòa bình ngự trị.
Bác ái xã hội được sinh ra trên mảnh đất được Tin Mừng vun tưới, và thật kỳ lạ là trong thời hiện đại, cuộc chinh phục này đã được sử dụng như một lý lẽ để ném vào mặt Kitô giáo. Trong những thế kỷ đầu và trong suốt thời Trung cổ, bố thí là phương tiện tuyệt vời nhất để hành động trong lĩnh vực xã hội và giúp đỡ người nghèo. Đó là một giá trị Kinh thánh và luôn giữ được sự liên quan của nó. Tuy nhiên, nó không còn có thể được đề xuất như một cách thông thường để thực hành tình yêu xã hội, hay tình yêu thiện ích chung, bởi vì nó không bảo vệ phẩm giá của người nghèo và giữ họ trong tình trạng lệ thuộc.

Các chính trị gia và các nhà kinh tế phải khởi xướng các quá trình cấu trúc nhằm giảm bớt khoảng cách tai tiếng giữa một thiểu số người rất giàu và vô số người bị tước quyền thừa kế trên trái đất. Phương tiện thông thường đối với Kitô hữu là tạo ra những điều kiện trong lòng con người để điều này xảy ra. Đối với những người tham gia vào lĩnh vực xã hội, vấn đề là thúc đẩy điều được gọi là “học thuyết xã hội của Giáo hội”. Chẳng hạn, đối với các doanh nhân Kitô giáo, điều đó có nghĩa là tạo ra công ăn việc làm, như Đức Thánh Cha đã nhắc lại trong cuộc gặp gỡ ở Assisi vào tháng 9 năm ngoái, dành cho các nhà kinh tế trẻ, những người được truyền cảm hứng từ giáo huấn xã hội của ngài.
Chỉ có tình yêu mới có thể cứu chúng ta
Trước khi kết thúc, tôi muốn đề cập đến một tác dụng ích lợi khác của nhân đức bác ái đối với xã hội mà chúng ta đang sống. Một tiên đề thần học nổi tiếng nói rằng ân sủng giả định trước bản tính con người, ân sủng không phá hủy bản tính con người, nhưng hoàn thiện nó. Áp dụng cho nhân đức đối thần thứ ba, điều này có nghĩa là bác ái giả thiết khả năng và khuynh hướng tự nhiên của con người là yêu và được yêu. Khả năng này có thể cứu chúng ta ngày nay khỏi một xu hướng đang diễn ra, nếu không được sửa chữa, sẽ dẫn đến một “sự phi nhân hóa” thực sự.
Tôi đã tham gia một cuộc tranh luận công khai ở London cách đây vài năm. Người điều hành đặt ra một loạt câu hỏi cho một số nhà thần học, trong đó có một giáo sư thần học từ Đại học Yale của Mỹ, một giám mục và nhà thần học Anh giáo và tôi. Câu hỏi quan trọng là như sau. Sau khi thay thế khả năng hoạt động của con người bằng robot, kỹ thuật này hiện đang trên đà thay thế khả năng trí tuệ của con người bằng trí tuệ nhân tạo. Như thế, con người còn lại cái gì là của riêng mình và cái gì chỉ dành riêng cho mình? Liệu có còn lý do để xem xét người máy một cách riêng biệt trong vũ trụ? Phải chăng người máy vẫn không thể thiếu, hay không hoàn toàn có hại cho tự nhiên?
Khi đến lượt tôi trả lời, với vốn tiếng Anh kém và hỏng của mình, tôi đã thêm một phản xạ đơn giản. Tôi nói, chúng ta đang làm việc trên một chiếc máy tính biết suy nghĩ: nhưng liệu chúng ta có thể tưởng tượng một chiếc máy tính biết yêu thương, xúc động trước nỗi đau của chúng ta và hân hoan trước niềm vui của chúng ta không? Chúng ta có thể quan niệm về một trí tuệ nhân tạo: nhưng liệu chúng ta có thể quan niệm về một tình yêu nhân tạo không? Có lẽ chính ở đây chúng ta phải đặt để cái cụ thể của con người và thuộc tính bất khả tương nhượng của con người. Đối với một người tin vào Kinh Thánh, có một lý do giải thích sự kiện này: đó là chúng ta được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, và “Thiên Chúa là tình yêu”! (1 Ga 4, 8).
Bất chấp tất cả những sai lầm và hành vi sai trái của chúng ta, con người chúng ta không – và sẽ không bao giờ – là một điều phiền toái đối với trái đất! Khi kết thúc những suy tư triết học của mình về sự nguy hiểm của công nghệ đối với con người hiện đại, Martin Heidegger, gần như đầu hàng, đã thốt lên: “Chỉ có Chúa mới cứu được chúng ta!” Chúng ta có thể diễn giải rằng: chỉ có tình yêu mới cứu được chúng ta! Tuy nhiên, đó chắc chắn là tình yêu của Chúa chứ không phải tình yêu của chúng ta.[7]!

Kết luận

Tin, Cậy, Mến: ba nhân đức là một thể thống nhất, qui về Một mối. Tin, tất yếu cần có sự thử thách, tuyệt vọng mà vẫn cậy trông: Thánh Gióp và Abraham. Tục ngữ: “Lửa thử vàng, gian nan thử nhân đức tin. Đức tin được phiên dịch qua đức ái. Đức tin không có việc làm là đức tin chết”.

Bây giờ chúng ta hãy hướng suy nghĩ của mình đến Lễ Giáng Sinh sắp đến với chúng ta. Với sự xuất hiện của Chúa Kitô, dòng sông vĩ đại của lịch sử đã đến chỗ tận cùng và bắt đầu lại ở cấp độ cao hơn. “Cái cũ qua đi, cái mới sinh ra” (2Cr 5,17). “Khoảng trống” lớn ngăn cách Thiên Chúa với con người, Đấng Tạo Hóa với tạo vật đã được lấp đầy. Không phải vô ích mà từ đó trở đi, lịch sử nhân loại được chia thành “trước Chúa Kitô” và “sau Chúa Kitô”.
Có những hình ảnh Giáng Sinh ngây ngô nhưng lại mang ý nghĩa sâu sắc. Trong đó, chúng ta thấy Chúa Giêsu Hài Đồng, đi chân trần, tuyết phủ quanh chân và cầm chiếc đèn lồng trên tay, vào ban đêm, sau khi gõ cửa, Ngài đang đợi trước một cánh cửa. Những người ngoại đạo tưởng tượng tình yêu như một đứa trẻ mà họ đặt tên là Eros. Đó là một đại diện mang tính biểu tượng, một thần tượng. Chúng ta biết rằng tình yêu đã thực sự trở thành một đứa trẻ; rằng bây giờ tình yêu là một thực tế, một sự kiện, thực sự là một con người. “Tình yêu của Chúa Cha đã hóa thành nhục thể”, vì thế một tác giả ở thế kỷ thứ hai đã diễn giải câu của Phúc Âm Thánh Gioan 1:14. Tình yêu thực sự trở thành một hài nhi: hài nhi Giêsu. “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3:21). Chúng ta hãy mở cửa trái tim cho Hài Nhi đang gõ cửa. Tôi nghĩ rằng, điều đẹp đẽ nhất mà chúng ta có thể làm vào Lễ Giáng Sinh không phải là dâng một cái gì đó cho Thiên Chúa, nhưng là đón nhận với sự kinh ngạc ân sủng là Con Ngài mà Thiên Chúa Cha ban cho thế giới. Truyền thuyết kể rằng trong số những mục đồng đến gặp Chúa Hài Đồng vào đêm Giáng Sinh, có một cậu bé chăn cừu nghèo đến nỗi không có gì để dâng Đức Mẹ, cậu xấu hổ đứng sang một bên. Mọi người tranh nhau tặng Đức Maria món quà của họ. Đức Mẹ không thể đón nhận tất cả, vì phải bồng Chúa Hài Đồng trên tay. Nhìn thấy cậu bé chăn cừu bên cạnh với hai bàn tay trắng, cô liền ẵm Hài Nhi và đặt Hài nhi vào vòng tay cậu bé chăn cừu nghèo. Không có gì trong tay lại đem đến may mắn cho anh ấy. Hãy biến may mắn này thành của chúng ta nữa nhé.

Khẩn trương tập trung ý thức ve chức năng lãnh đại: Củng cố Tin cậy mến.

Vai trò Phu nữ lãnh đạo: “Cảm thức Đức tin”.

Truyền thông TGP/SG, tháng Giêng 2023

Lm.Nguyễn Văn Hinh (D,Min)

Tĩnh tâm Mùa Vọng 2022 cùng Giáo triều Rôma - Bài thứ 3: Cửa Đức Mến



[1]
Hồng y Cantalamessa, dựa trên truyền thống cổ xưa – thời giáo phụ và thời trung cổ – về các nhân đức thần học, tôi sẽ cố gắng đào sâu– càng nhiều càng tốt trong ba bài suy niệm ngắn – một đường lối hiện đại và hiện sinh, nghĩa là, đáp lại những thách thức, những sự phong phú và, đôi khi, những điều thay thế được đề xuất ngày nay đối với các đức tính thần học của Kitô giáo.

[2] Đức Hồng Y Raniero Cantalamessa, 04/Dec/2022,tĩnh tâmMùa Vọng 2022, Giáo triều Rôma.

[3] Cantalamessa,Gate of faith,tĩnh tâm Mùa Vọng 2022, Giáo triều Rôma.

[4] Đức Hồng Y Raniero Cantalamessa, 16 tháng 12,2022, tĩnh tâm Mùa Vọng 2022, Giáo triều Rôma.

[5] Ga 14, 1-6

[6] Đức Hồng Y Cantalamessa,tĩnh tâm Mùa Vọng 2022, Giáo triều Rôma.

[7] Cantalamessa, The Gate Of Charity, tĩnh tâm Mùa Vọng 2022, Giáo triều Rôma.

 

 

 

Các tin khác

VIDEO

  Bài 2: HIỆP HÀNH: Hiệp Thông - Tham Gia - Sứ Vụ | Thường huấn linh mục GP Ban Mê Thuột 2023

  Bài 1: Tầm Nhìn Hoàn Vũ | Thường huấn linh mục GP Ban Mê Thuột 2023

  ĐỨC TIN | Tròn Đầy & Trong Sáng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh

  Mục Vụ Văn Hóa: DANH - LỢI - NGHĨA | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh

  Cử Hành Phụng Vụ | Gặp Gỡ Chúa Kitô - Loan Báo Tin Mừng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn văn Hinh

  Thần Học Mục Vụ & Công đồng Vatican II: Con người - Giáo hội - Môi trường

  Hiệp Hành Hội Ý Dựng lại Mùa Xuân | Người Giáo dân Thiên niên kỷ mới

  Bài 4: Văn Hóa Tổ Chức - Đời Sống Cá Nhân

  Hiệp Hành Kín Đáo và Minh Bạch

  Văn Hóa Tổ Chức - Tổ Chức Cộng Đồng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh (Phần 3)

  Tìm hiểu về văn hóa (Phần 2) - Lm Gioan Kim Nguyễn Văn Hinh

  Tìm hiểu về văn hóa (Phần 1) - Lm Gioan Kim Nguyễn Văn Hinh

  TRỰC TUYẾN BÀI 29: MỤC VỤ THÁNH THIỆN THUẬN THEO

  TRỰC TUYẾN BÀI 28 : MỤC VỤ TÍCH HỢP VĂN HÓA ĐÔNG TÂY

  TRỰC TUYẾN BÀI 27 : MỤC VỤ LỜI CHÚA NGÀY NAY

  TRỰC TUYẾN BÀI : TÌM HIỂU VỀ VĂN HÓA VÀ BẢN SẮC VĂN HÓA VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 26: MỤC VỤ ĐẠO ĐỨC KINH TẾ DỊCH VỤ

  TRỰC TUYẾN BÀI 25: MỤC VỤ TUẦN THÁNH UY VÀ ĐỨC

  TRỰC TUYẾN BÀI 24: MỤC VỤ GIA TÀI CỦA MẸ

  TRỰC TUYẾN BÀI 23: MỤC VỤ BỔ VÀ TẢ

  mvgd20162016

  TRỰC TUYẾN BÀI 21: MỤC VỤ LUẬT CÂN BẰNG

  TRỰC TUYẾN BÀI 20: TRUY TÌM MÃNH LỰC

  TRỰC TUYẾN BÀI 19: THẾ GIỚI HÔM NAY CẦN NHỮNG NGƯỜI CHA NHÂN HẬU LÝ TƯỞNG VÀ THỰC TIỄN

  TRỰC TUYẾN BÀI 18: NĂM THÁNH THÁNH CẢ GIUSE LÃNH ĐẠO VÀ NIỀM TIN

  TRỰC TUYẾN BÀI 17: MỪNG XUÂN TÂN SỬU 2021 - LÒNG BIẾT ƠN TIN VUI ĐẠO ĐỨC VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 17: MỪNG XUÂN TÂN SỬU 2021 - LÒNG BIẾT ƠN TIN VUI ĐẠO ĐỨC VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 16: ĐỀ TÀI ĐIỂM TỰA

  TRỰC TUYẾN BÀI 14: VĂN HÓA KHÔNG NHẬN SAI NHƯNG SỬA SAI

  TRỰC TUYẾN BÀI 13: VUN TRỒNG NỀN VĂN HÓA “TÂM LINH – KHOA HỌC”

  TRỰC TUYẾN BÀI 12: NĂM MỚI 2021 XÂY DỰNG NỀN VĂN MINH TÂM LINH & KHOA HỌC

  TRỰC TUYẾN BÀI 11: GIÁNG SINH 2020 - LÀM NGƯỜi - GIÊSU

  TRỰC TUYẾN BÀI 10: PHÍA ĐẰNG SAU TÂM LINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 9: ĐỂ CÓ CHÚA THÁNH THẦN

  TRỰC TUYẾN BÀI 8: LOAN BÁO TIN MỪNG

  TRỰC TUYẾN BÀI 7: PHÒNG ĐÀO LUYỆN TÂM LINH CỦA TÍN HỮU DÂN CHÚA

  TRỰC TUYẾN BÀI 6: ĐÀO LUYỆN TÍN HỮU DÂN CHÚA

  TRỰC TUYẾN BÀI 5: TẦM NHÌN THIÊN NIÊN KỶ MỚI

  TRỰC TUYẾN BÀI 4: ĐÀO LUYỆN TÂM LINH BẮT ĐẦU TỪ THÁNH THỂ HAY THÁNH KINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 3: PHƯƠNG THỨC CẦU NGUYỆN CẢM NGHIỆM- SỐNG THÁNH GIỮA ĐỜI

  TRỰC TUYẾN: BÀI 2: GIẢI THÍCH ĐÀO LUYỆN TÂM LINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 1: ĐÀO LUYỆN TÂM LINH

  TintucVatican

  Thánh Lễ Tuyên Thánh Jacinta và Francisco Marto

  Muối và ánh sáng

  Thế Giới Nhìn Từ Vatican

  Nghi thức đóng Cửa Thánh

  Xin Mẹ Thương

  Thế Giới Nhìn Từ Vatican

  Suy Niệm với Đức Thánh Cha Phanxicô

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__3

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__1

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__2

  Thường huấn HĐMVGX Ban Mê Thuật

  Quốc tế thiếu nhi 01-6-2014

  Thể dục Dưỡng Sinh

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  CƠM TRƯA TRUNG THU 2013

  Thi đấu thăng cấp sơ đẳng Vovinam

  Khai mạc kỳ thi thăng cấp Vovinam

  Vovinam

  Đào luyện tâm linh

  Nghệ thuật cân bằng

  Đào Luyện Tinh Thần

  Đào Luyện Thể Chất

Bài viết mới
Mười hai lời khuyên của Đức Thánh Cha Phanxicô để trở thành người cừ khôi trong việc loan báo Tin Mừng
Mười hai lời khuyên của Đức Thánh Cha Phanxicô để trở thành người ...
Công bố tự truyện của Đức Thánh Cha Phanxicô
Công bố tự truyện của Đức Thánh Cha Phanxicô
Người dân Ai Len bỏ phiếu chống đề xuất sửa đổi định nghĩa về gia đình trong hiến pháp
Người dân Ai Len bỏ phiếu chống đề xuất sửa đổi định nghĩa ...
Mười một năm Giáo hoàng của Đức Thánh Cha Phanxicô
Mười một năm Giáo hoàng của Đức Thánh Cha Phanxicô