Soeur Mary Josephine Trần Thị Thanh Lương,
Dòng nữ Đaminh Thánh Tâm
“Nhiều người thánh hiến nam nữ đã dâng hiến và còn tiếp tục dâng hiến cuộc sống mình để mà ôm ấp lấy những giấc mơ của những người bị loại trừ, như là dấu chỉ tội đỉnh của tình yêu và của sự nhất quán với lý tưởng của cuộc sống.[1] Các giấc mơ của những người bị loại trừ đối với chúng ta những con người thánh hiến nam, nữ, chính là một đòn giáng xuống sự an toàn và yên ổn của chúng ta. Chúng là một lời mời gọi hãy ra khỏi mình, hãy cúi xuống, hãy lột bỏ mình” (ĐHY. Franc Rodé).
Thời đại của thế kỷ XXI hôm nay là Kỷ nguyên được đánh dấu bởi hiện tượng Toàn Cầu Hóa, đây là một hiện tượng phức tạp chi phối mạnh mẽ, toàn diện cuộc sống con người trên bình diện cá nhân cũng như cộng đồng. Dù là người chống đối hay ủng hộ, tất cả đều nhận thức rõ ràng sự tồn tại và những ảnh hưởng tiêu cực lẫn tích cực của nó. Khởi đầu là hiện tượng toàn cầu hoá về kinh tế và tài chính, với sự phát triển mạnh mẽ, năng động đến mức bùng nổ của nền khoa học công nghệ thông tin, thế giới dường nhu bị thu nhỏ lại mọi thông tin trên thế giới đựơc tiếp cận nhanh chóng, chính xác, đa diện, đa chiều. Tưởng chừng như mọi biên giới quốc gia, mọi rào cản ngôn ngữ, mọi ngăn cách địa lý không còn nữa. Thế giới như bị san phẳng.[2]
Trước những thực tại của xã hội và thời đại, đời sống thánh hiến như là một chứng từ sống động về niềm tin cho công lý- hoà bình và những giá trị cao quý của Tin Mừng, trở nên dấu chỉ nước trời và khơi lên niềm hy vọng cho thế trần. “Ơn tận hiến của các tu sĩ hiện lên trong suy tư chung như là dấu chỉ đặc trưng và có tính cách ngôn sứ của giáo huấn xã hội công giáo: khi phó thác mình hoàn toàn cho việc phục vụ mầu nhiệm Đức Ái của Chúa Ki tô đối với con người và thế giới, các tu sĩ được hưởng trước và cho thấy trong đời sống của họ một số nét của nhân tính mới mà giáo huấn xã hội ao ước được thể hiện”.[3]
I. GIÁO HUẤN XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI CÔNG GIÁO VÀ SỰ DẤN THÂN KITÔ HỮU
Thiên Chúa đã tạo nên con người như một hữu thể xã hội; họ cần đến sự giúp đỡ tương quan liên đới với nhau để phát triển bản thân. Thực tại tự nhiên này đã được đảm nhận lấy trong chương trình cứu chuộc, như là điều được nói đến rõ ràng trong Cựu Ước cũng như Tân Ước (Lv 19,1-2.17-1; 8;Mt 22,15-22). Như vậy, Đức Giêsu đã mặc khải tình yêu của Chúa Cha và ơn gọi cao quý của con người xuyên qua những khía cạnh tầm thường nhất: Ngài sử dụng ngôn từ và các hình ảnh của đời sống thường nhật, thánh hóa các mối tương quan nhân loại, cách riêng là những tương quan trong gia đình, Ngài đã sống cuộc sống của người lao động, qui phục các luật của đất nước Ngài; đàng khác, lệnh truyền tột đỉnh của Ngài hay cách khác di chúc của Ngài để lại được tóm lại trong tình yêu thương lẫn nhau giữa các con người, một tình yêu ôm ấp lấy tất cả và thậm chí cả các kẻ thù (1Cr 3,16-23; Mt 5,38-48).
Nếu chúng ta muốn nhận định khia cạnh nền tảng của mối liên hệ hỗ tương giữa thực tại xã hội và thực tại Kitô hữu, thì cần thiết phải bắt đầu với yếu tính của thực tại Kitô hữu. Như chúng ta quá biết, đời sống Kitô hữu không hệ tại nhiều ở giáo thuyết hay lý thuyết, mà nó chính là một đời sống trong Đức Kitô, tức là việc đi theo, việc đồng nhất và việc chuyển biến trong Đức Giêsu. Theo nghĩa đó, sự dấn thân xã hội của người Kitô hữu là một cái gì đó vượt lên trên sự hiểu biết về một chuỗi những nguyên tắc, những phán đoán và những chỉ dẫn; nó trên hết phải là một quyết định đồng nhất mình với Đức Giêsu – tức đi tìm sự thánh thiện – xuyên qua sự thực hành trung thành các bổn phận xã hội.[4] Mọi đời sống Kitô hữu phải lưu tâm đến những mối liên hệ xã hội, bởi lẽ chính Đức Kitô đã đảm nhận và cứu chuộc chúng và như vậy, chính bản thân con người cũng có thể – và phải – xuyên qua các mối liên hệ này đồng nhất mình với Đức Giêsu. Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII khi tổng kết lại một xác tín bền vững và liên tục của Huấn Quyền, đã dạy rằng “giáo huấn xã hội chính là một phần toàn diện của quan niệm Kitô hữu về cuộc sống”,[5] bao lâu giáo huấn này không là gì khác hơn là nêu rõ các hậu quả xã hội của sự dấn thân Kitô hữu và việc áp dụng các giá trị Kitô hữu vào lãnh vực xã hội.
Do đó việc tham dự của mọi Kitô hữu vào trong sự tiến bộ thiêng liêng và vật chất của toàn thể xã hội chính là một phần toàn diện của ơn gọi mà Thiên Chúa đã gọi mỗi người nam nữ hãy đạt tới sự hoàn thành bản thân của mình, tức là thánh hóa mình: Hiến chế Ánh Sáng Muôn Dân rút ra các hậu quả của thực tại này: “Do đó các tín hữu phải học hỏi ý nghĩa sâu xa nhất và giá trị của toàn thể tạo thành, và làm sao liên kết tạo thành với việc ca ngợi Thiên Chúa. Họ phải giúp đỡ lẫn nhau để sống đời sống thánh thiện hơn, ngay cả trong các bổn phận hằng ngày của họ. Bằng cách này thế giới được thấm nhuần tinh thần của Đức Kitô và hoàn thành một cách hữu hiệu hơn mục tiêu của nó trong công lý, bác ái và hòa bình”.[6]Cùng trên đường nét này, Hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng cảnh báo: “Mỗi người hãy coi như là một sự bó buộc thánh thiêng là phải coi các nhu cầu cầu xã hội như là trong số các bổn phận chính yếu của con người hiện đại, và lưu tâm đến chúng”.[7] Trên thực tế các bó buộc này chính là một trách nhiệm chuyên biệt mà vì chúng, chúng ta sẽ phải chịu phán xét trong ngày sau hết (Mt 25:31-16): “không có cuộc sống Kitô hữu nào hiện hữu cả (thậm chí không có một cuộc sống nhân bản nào nữa là đàng khác), nếu ta thờ ơ đối với những nhu cầu, các luật lệ và cơ chế xã hội và do đấy thờ ơ với chính Thiên Chúa nữa, và đặt ơn cứu độ đời đời của chúng ta trong sự nguy hiểm”.[8]
Thêm vào đó, điều ngược: một xã hội lành mạnh đòi hỏi một nhân vị - nhân phẩm đúng đắn về phía những nhân tố hình thành ra nó: tức là những con người và những nhóm xã hội. Chúng ta không có thể đánh lừa chính mình được: không thể nào đạt tới được công bình và bác ái xã hội, ở bên trên và vượt ra bên ngoài cái con người đạt được trong sự công bình và trong đức bác ái cá nhân.[9] Thái độ luân lý của cộng đồng lệ thuộc vào sự hoán cải cá vị, vào sức mạnh của lời cầu nguyện, vào ân sủng của các bí tích, vào lòng can đảm hay sức mạnh tinh thần của các nhân đức, vào các yếu tố cấu thành nên tinh thần đó.[10] Theo nghĩa này, giáo huấn của Hội Thánh luôn luôn kêu gọi cần có một ý thức chính trị đúng đắn và hữu hiệu song song với với một lối sống luân lý cốt yếu;[11] ý chí chính trị mà thôi có thể sản sinh ra một số những thay đổi nào đó, nhưng kinh nghiệm cho thấy rằng nó chỉ có tính cách tạm bợ và thường những sự bất công do nó tạo nên thường là nhiều hơn những cái đúng đắn; còn quyết định luân lý mà không có sự thay đổi cơ cấu thì sẽ hoàn toàn không sinh hoa kết quả bởi lẽ nó không là một thực tại chân chính: sẽ không có sự hoán cải nội tâm đích thực một khi không phát sinh ra được những chuyển biến tốt hơn về mặt xã hội.[12]
Tất cả những gì đã nói có giá trị cho tất cả các Kitô hũu, thì cũng có giá trị cho tất cả mọi người; nhưng chúng ta có thể tự hỏi: “Phải chăng những trách nhiệm này áp dụng trong một mức độ đồng đều cho tất cả các Kitô hữu?”. Câu trả lời chắc chắn là không, giống y như chuyện không có một mức độ y hệt nhau cho tất cả các Kitô hữu trong việc đồng nhất mình với Đức Kitô. Cuộc sống của ngôi Lời nhập thể có một sự duy nhất sâu xa; nhưng đối với cùng một chuyện đó theo một quan điểm nhất định nào đó, chúng ta có thể phân biệt ra ba lãnh vực:
- 1/. Mức căng thẳng của nó để hướng tới phía bên kia tự biểu lộ ra trong việc tìm kiếm không ngừng một sự liên kết thâm sâu với Chúa Cha, và trong các giáo huấn về sự sống đời đời (Mt 14-15; Lc 6:12);
- 2/. Sự dấn thân của Ngài để tuân giữ các bổn phận hay các bó buộc trần thế mà chúng ta đã đan cử ra ở trên;
- 3/. Sứ vụ của Ngài là chuyển giao ơn sủng của Thiên Chúa cho con người và dẫn họ tới Chúa Cha.
Cả ba lãnh vực này tạo thành sự sống của Hội Thánh – cánh chung, trần thế và tác vụ,[13]phải được cổ xúy bởi tất cả những người đang tìm kiếm để bản thân mình nên đồng nhất với Chúa Kitô. Trên thực tế, tất cả mọi tín đồ Kitô hữu đều có ít nhất là chức tư tế chung,[14] tất cả đều phải sống trong sự ý thức được rằng: “Không có thành trì vững bền cho chúng ta tại đây; chúng ta đang đi tìm kiếm một thành trì tương lai” (Dt 13:14); và người ta có thể sao nhãng các bổn phận dấn thân trần thế: với tất cả những gì đã nói tới, chúng ta có thể nói thêm bằng những lời lẽ của Vatican II rằng tất cả mọi Kitô hữu (không chỉ là hàng giáo dân) đều phải biết rằng: “Họ sai lầm khi biết được rằng chúng ta không có thành trì vững bền tại đây nhưng còn phải đi tìm kiếm thành trì tương lai, họ đã vội nghĩ rằng do đó họ có thể sao nhãng các trách nhiệm trần thế. Bởi lẽ họ quên rằng chính đức tin cho họ thấy được rằng họ càng có bổn phận hơn khi nào hết phải chu toàn đúng mức các bổn phận này, mỗi người thể theo ơn gọi của mình”.[15] Quả vậy, ơn kêu gọi Kitô hữu là một, nhưng đa diện “theo như chương trình của Thiên Chúa”.[16]
Sự duy nhất và sự đa diện của các ơn gọi trong Hội Thánh chứng tỏ rằng trong lãnh vực xã hội, tất cả mọi người, trong tư cách là những người bước theo Đức Giêsu, đều có những bổn phận phải hoàn thành; nhưng họ phải làm những bổn phận đó “thể theo ơn gọi của mỗi người”: “Người lãnh nhận giáo huấn xã hội thứ nhất chính là cộng đoàn Hội Thánh gồm tất cả mọi phần tử, bởi lẽ tất cả đều có các trách nhiệm xã hội mà mình phải đảm nhận. Lương tâm bị chất vấn bởi giáo huấn xã hội để mà phải nhìn nhận và hoàn thành các bổn phận của Công bình và Bác ái trong đời sống xã hội. Lời giáo huấn này chính là ánh sáng của chân lý luân lý khơi dậy những sự đáp trả thích đáng tùy theo ơn gọi và thừa tác vụ của mỗi Kitô hữu. Trong những nhiệm vụ của việc loan báo Tin Mừng, nghĩa là các nhiệm vụ giáo huấn, dạy giáo lý và đào tạo mà Giáo huấn xã hội công giáo khơi dậy, nhiệm vụ này đều được dành cho mỗi một người Kitô hữu, tùy theo các các khả năng chuyên môn, các đặc sủng, các chức vụ và sứ mệnh loan báo của riêng mỗi người”.[17] Hiển nhiên là cách thức cộng tác vào việc xây dựng, dạy dỗ và thực hành Giáo huấn xã hội công giáo, thì mỗi người đảm nhận một cách cá biệt, người giáo dân thì khác với người được thánh hiến, một nữ tu dòng Kín Carmel thì khác với một thành viên của Tu hội đời.[18]
Các tin khác