, ngày 12 tháng 05 năm 2024 | 03:50 AM - Giới thiệu | Ý nghĩa logo
Tài liệu

 

 TÔNG HUẤN EVANGELII GAUDIUM – NIỀM VUI CỦA TIN MỪNG (3)

TÔNG HUẤN 

EVANGELII GAUDIUM – NIỀM VUI CỦA TIN MỪNG



CHƯƠNG BA

VIỆC CÔNG BỐ TIN MỪNG



110. Sau khi đã xét đến một số thách đố của thực tại hiện nay, giờ đây tôi muốn nhắc lại nhiệm vụ mà chúng ta phải gánh vác trong mọi lúc và ở mọi nơi, bởi vì “không thể có việc truyền giáo thật sự nếu không có việc công bố rõ ràng rằng Chúa Giêsu là Chúa”, và nếu không “dành ưu tiên cho việc rao giảng Đức Chúa Giêsu Kitô trong mọi hoạt động truyền giáo”. [77] Khi nhìn nhận những quan tâm của các Giám Mục Á châu, Đức Gioan Phaolô II đã xác quyết rằng, nếu Hội Thánh “có nhiệm vụ phải hoàn thành mục tiêu được quan phòng, thì việc rao giảng Tin Mừng, như việc giảng dạy hân hoan, kiên nhẫn và tiệm tiến về Cái Chết và sự Sống Lại cứu độ của Đức Chúa Giêsu Kitô phải là ưu tiên tuyệt đối của các hiền huynh.” [78] Điều này cũng áp dụng cho tất cả mọi người.

I. Toàn thể dân Thiên Chúa loan báo Tin Mừng

111. Loan báo Tin Mừng là nhiệm vụ của Hội Thánh. Nhưng chủ thể của việc loan báo Tin Mừng này còn hơn là một cơ cấu có hệ thống và phẩm trật, bởi vì trên hết nó là một dân đang đi trên một cuộc hành trình hướng về Thiên Chúa. Dân này chắc chắn là một mầu nhiệm bắt nguồn từ Thiên Chúa Ba Ngôi, nhưng có đặc tính lịch sử cụ thể của nó trong dân hành hương và truyền giáo, luôn luôn vượt trên bất kỳ cách diễn tả nào về cơ chế cho dù cần thiết. Tôi đề nghị ngừng lại một chút ở cách hiểu biết về Hội Thánh nảy, là điều có nền tảng tối hậu trong sáng kiến tự do và nhưng không của Thiên Chúa.

Một dân cho tất cả mọi người

112. Ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban cho chúng ta là công trình của lòng thương xót của Ngài. Không có hành động nào của con người, dù có tốt thế nào đi nữa, có thể làm cho chúng ta xứng đáng với một hồng ân cả thể như vậy. Thiên Chúa, trong ân sủng thuần khiết, lôi kéo chúng ta đến kết hợp với Ngài. [79] Ngài gửi Chúa Thánh Thần đến trong tâm hồn chúng ta để làm cho chúng ta thành con cái Ngài, để biến đổi chúng ta và cho phép chúng ta đáp lại tình yêu của Ngài bằng đời sống của mình. Hội Thánh được Đức Chúa Giêsu Kitô sai đi như một bí tích cứu độ được Thiên Chúa ban ban. [80] Qua các hoạt động truyền giáo của mình, Hội Thánh hợp tác như một công cụ của ân sủng ấy của Thiên Chúa, là ân sủng hoạt động không ngừng vượt qua bất sự giám sát nào. Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI diễn tả nó cách hoàn hảo khi mở đầu những suy nghĩ của Thượng Hội Đồng Giám Mục: “Điều quan trọng là luôn luôn biết rằng Lời Đầu Tiên, sáng kiến thật, hoạt động thật, đến từ Thiên Chúa, và chỉ bằng cách tự tháp nhập vào sáng kiến này của Thiên Chúa, chỉ bằng cách cầu khẩn sáng kiến này của Thiên Chúa, mà chúng ta cũng sẽ trở thành - với Người và trong Người – những người rao giảng Tin Mừng”. [81] Nguyên tắc ưu việt của ân sủng phải là một ngọn hải đăng liên tục soi sáng những suy tư về truyền giáo của chúng ta. 

113. Ơn cứu rỗi này, mà Thiên Chúa thực hiện và Hội Thánh hân hoan công bố có mục đích dành cho tất cả mọi người, [82] và Thiên Chúa đã làm cho phát sinh một cách thế để kết hợp chính Ngài với mỗi con người ở mọi thời đại. Ngài đã chọn triệu tập họ lại như một dân chứ không phải chỉ như những cá nhân cô lập. [83] Không ai có thể tự cứu mình cách cá nhân hay bằng sức riêng của mình. Thiên Chúa lôi kéo chúng ta bằng cách dùng mạng lưới liên hệ phức tạp giữa người với người có liên quan đến đời sống của một cộng đồng nhân loại. Dân này mà Thiên Chúa đã chọn và gọi là Hội Thánh. Chúa Giêsu đã không bảo các Tông Đồ tạo thành một nhóm riêng biệt, một nhóm ưu tú. Chúa Giêsu đã nói: “Các con hãy đi và làm cho muôn dân thành môn đệ” (Mt 28:19). Thánh Phaolô quả quyết rằng dân Thiên Chúa trong Hội Thánh “Không còn là người Do Thái hay Hy Lạp… vì tất cả anh em chỉ là một trong Ðức Kitô” (Gal 3:28). Tôi muốn nói với những người cảm thấy xa cách Thiên Chúa và Hội Thánh, những người sợ hãi và thờ ơ rằng: Thiên Chúa cũng gọi anh chị em thành một phần tử của dân Ngài và Ngài làm điều ấy với sự tôn trọng và tình yêu cao cả!

114. Là Hội Thánh có nghĩa là dân Thiên Chúa, phù hợp với kế hoạch yêu thương cao cả của Chúa Cha. Điều ấy có nghĩa là làm men của Thiên Chúa giữa nhân loại. Điều ấy có nghĩa là loan báo và mang ơn cứu độ của Thiên Chúa vào thế giới của chúng ta, là thế giới thường bị lạc đường, cần những đáp trả khuyến khích, đem lại cho nó can đảm, cho nó hy vọng và sinh lực mới trong cuộc hành trình. Hội Thánh phải là nơi của lòng thương xót được ban cách nhưng không, ở đó mọi người có thể cảm thấy được đón tiếp, yêu thương, tha thứ và khuyến khích để sống một đời sống tốt đẹp của Tin Mừng.

Một dân có nhiều gương mặt

115. Dân Thiên Chúa này được nhập thể trong các dân tộc trên thế gian, mỗi phần tử của nó có một nền văn hóa riêng. Khái niệm về văn hóa là một công cụ có giá trị để hiểu những cách diễn tả khác nhau của đời sống Kitô hữu hiện diện trong Dân Thiên Chúa. Nó liên quan đến lối sống của một xã hội nhất định, bằng cách đặc biệt mà các thành viên của nó liên hệ với nhau, với các tạo vật khác và với Thiên Chúa. Hiểu theo cách này, văn hóa bao gồm toàn thể cuộc đời của một người. [84] Mỗi quốc gia, trong lịch sử phát triển của nó, phát triển nền văn hóa riêng của mình với quyền tự chủ hợp pháp. [85] Điều này quy chiếu về xã hội, nơi họ sống một cách cụ thể trong sự liên hệ của họ với thực tại. Con người luôn luôn được đặt trong một nền văn hóa: “bản tính và văn hóa liên kết hết sức chặt chẽ với nhau”. [87] Ân sủng đòi hỏi văn hóa, và hồng ân của Thiên Chúa được nhập thể trong văn hóa của những người lãnh nhận nó.

116. Trong hai ngàn năm qua của Kitô giáo, nhiều người đã nhận được ơn đức tin, họ đã làm cho đức tin này phát triển mạnh mẽ trong đời sống hàng ngày của họ và truyền đạt nó theo những thể thức văn hóa riêng của họ. Khi một cộng đồng đón nhận lời công bố ơn cứu độ, Chúa Thánh Thần làm cho nền văn hóa của nó thêm phong phú bằng sức mạnh biến đổi của Tin Mừng. Do đó, như chúng ta có thể nhìn thấy trong lịch sử Hội Thánh, Kitô giáo không có một mô hình văn hóa duy nhất, nhưng trái lại, “vẫn hoàn toàn chân thật với chính mình, với lòng trung thành không lay chuyển trong việc công bố Tin Mừng và truyền thống của Hội Thánh, cũng mang lấy khuôn mặt của nhiều nền văn hóa và vô số dân tộc trong đó nó được đón và bén rễ”. [88] Trong các dân tộc khác nhau đã kinh nghiệm hồng ân của Thiên Chúa theo văn hóa của mình, Hội Thánh diễn tả Công Giáo tính đích thực của mình và cho thấy “vẻ đẹp của khuôn mặt đa dạng này”. [89] Trong những cách bày tỏ Kitô giáo của một dân đã được Phúc Âm hóa, Chúa Thánh Thần tô điểm Hội Thánh, để lộ ra những khía cạnh mới của Mặc Khải của nó và ban cho nó một gương mặt mới. Qua việc hội nhập văn hóa, Hội Thánh “giới thiệu các dân tộc, cùng với nền văn hóa của họ, vào cộng đồng của mình”, [90] bởi vì “các giá trị và các hình thức tích cực” mà mỗi nền văn hóa cung cấp “sẽ làm phong phú hơn nữa cách thức mà Tin Mừng được rao giảng, được hiểu và được sống”. [91] Bằng cách này, “Hội Thánh đón nhận những giá trị của các nền văn hóa khác nhau, và trở thành ‘sponsa ornata monilibus suis’, ‘nàng dâu trang điểm bằng đồ trang sức của mình’ (Is 61:10)”. [92]

117. Nếu hiểu rõ, sự đa dạng về văn hóa không đe dọa sự hiệp nhất của Hội Thánh. Chính Chúa Thánh Thần, Đấng được Chúa Cha và Chúa Con sai đến, là Đấng biến đổi tâm hồn chúng ta và làm cho chúng ta có thể bước vào sự hiệp thông hoàn hảo của Thiên Chúa Ba Ngôi, nơi mà tất cả tìm thấy sự hiệp nhất của mình. Ngài xây dựng sự hiệp thông và hòa hợp của Dân Thiên Chúa. Chính Chúa Thánh Thần là sự hòa hợp, chính Ngài mối dây liên kết yêu thương giữa Chúa Cha và Chúa Con. [93] Chính Ngài là Đấng gây ra một sự phong phú đa dạng khác nhau của các hồng ân, đồng thời xây dựng một sự hiệp nhất không bao giờ đồng nhất nhưng hòa hợp đa dạng là điều có sức hấp dẫn. Việc loan báo Tin Mừng vui vẻ nhìn nhận nhiều sự phong phú mà Chúa Thánh Thần làm phát sinh trong Hội Thánh. Thật là bất công đối với luận lý của việc Nhập Thể khi nghĩ đến một Kitô giáo đơn văn hóa (chỉ có một nền văn hóa) và đơn điệu. Trong khi đúng là có một số nền văn hóa liên hệ chặt chẽ với việc rao giảng Tin Mừng và sự phát triển của tư tưởng Kitô giáo, nhưng sứ điệp được mặc khải không đồng hóa với bất kỳ nền văn hóa nào trong các nền văn hóa ấy và có một nội dung siêu văn hóa. Vì vậy, trong việc Phúc Âm hóa các nền văn hóa mới hoặc các nền văn hóa chưa chấp nhận lời rao giảng của Kitô giáo, chúng ta không cần phải áp đặt một hình thức văn hóa đặc thù, cho dù nó có đẹp đẽ và cổ kính thế nào đi nữa, cùng với đề nghị về Tin Mừng. Sứ điệp mà chúng ta công bố luôn luôn có một ít vỏ bọc văn hóa, nhưng đôi khi trong Hội Thánh, chúng ta rơi vào tình trạng thần thánh hóa nền văn hóa riêng của mình một cách vô ích, và với điều này chúng ta tỏ lộ lòng cuồng tín hơn là lòng nhiệt thành truyền giáo chân chính.

118. Các Giám Mục Châu Đại Dương đã yêu cầu Hội Thánh “khai triển một sự hiểu biết và trình bày chân lý của Đức Kitô khởi đầu từ truyền thống và văn hóa của vùng”, cùng kêu gọi “tất cả các nhà truyền giáo làm việc trong sự hòa hợp với các Kitô hữu bản xứ để đảm bảo rằng đức tin và đời sống của Hội Thánh được diễn tả bằng những hình thức hợp pháp phù hợp với từng nền văn hóa”. [94] Chúng ta không thể muốn mọi dân tộc của tất cả các châu lục, trong việc diễn tả đức tin Kitô giáo, phải bắt chước các thể thức được chấp nhận bởi các dân tộc Âu Châu ở một thời điểm trong lịch sử, bởi vì đức tin không thể bị đóng khung trong phạm vi hiểu biết và diễn tả của một nền văn hóa cụ thể. [95] Chúng ta không thể chối cãi được rằng một nền văn hóa không diễn tả hết nổi các mầu nhiệm cứu chuộc của Đức Kitô.

Tất cả chúng ta là những môn đệ truyền giáo

119. Đối với tất cả những người đã được rửa tội, từ người đầu đến người cuối, tác động của quyền năng thánh hóa của Chúa Thánh Thần thúc đẩy họ rao giảng Tin Mừng. Dân Thiên Chúa là thánh vì việc xức dầu này làm cho họ không thể sai lầm ““in credendo [trong đức tin]”. Điều này có nghĩa là khi toàn thể Dân Thiên Chúa tin là mình không sai, cho dù họ không tìm thấy ngôn từ để diễn tả đức tin của mình. Chúa Thánh Thần hướng dẫn họ trong chân lý và đưa họ đến ơn cứu độ. [96] Như một phần của mầu nhiệm yêu thương của Ngài dành cho nhân loại, Thiên Chúa phú cho các tín hữu như một tổng thể một cảm thức đức tin - sensus fidei - giúp họ phân biệt điều gì thực sự đến từ Thiên Chúa. Sự hiện diện của Chúa Thánh Thần ban cho các Kitô hữu một sự đồng chúng (connaturalité) với thực tại của Thiên Chúa và một sự khôn ngoan cho phép họ hiểu được những gì trong trực giác, mặc dù không có cách thích hợp để thể diễn tả chúng một cách chính xác.

120. Nhờ bí tích Rửa Tội mà họ đã lãnh nhận, mỗi phần tử của Dân Thiên Chúa trở thành một môn đệ truyền giáo (x. Mt 28:19). Mọi người đã được rửa tội, bất kể chức năng của họ trong Hội Thánh và trình độ giáo dục đức tin của họ, đều là một chủ thể tích cực của việc rao giảng Tin Mừng, và thật là thiếu sót khi nghĩ về một chương trình truyền giáo được thực hiện bởi các chuyên viên có khả năng trong khi phần còn lại của các tín hữu chỉ là những người tiếp nhận thụ động. Việc Tân Phúc Âm hóa liên quan đến vai trò tiên phong mới của từng người đã được rửa tội. Xác tín này được biến đổi thành một lời kêu gọi trực tiếp dành cho mọi Kitô hữu, bởi vì không ai được phép chối bỏ cam kết rao giảng Tin Mừng, vì chưng nếu đã thực sự cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa là Đấng cứu độ, thì người ta không cần nhiều thì giờ chuẩn bị để đi rao giảng, người ta không thể chờ đợi để học được nhiều bài giảng dạy, hoặc những hướng dẫn dài dòng. Mỗi Kitô hữu là một nhà truyền giáo theo mức mức độ mà người ấy đã gặp gỡ tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Chúa Giêsu Kitô; chúng ta không còn nói rằng chúng ta là “môn đệ” và “nhà truyền giáo”, nhưng chúng ta luôn luôn là “môn đệ - truyền giáo”. Nếu chúng ta không tin thì hãy nhìn vào các môn đệ đầu tiên, những vị ngay lập tức, sau khi đã nhận được cái nhìn của Chúa Giêsu, đã đầy vui mừng công bố, “Chúng tôi đã gặp Đấng Chịu Xức Dầu” (Ga 1:41). Người phụ nữ Samaria, sau khi vừa nói chuyện với Chúa Giêsu xong, lập tức trở thành một nhà truyền giáo, và nhiều người Samaria đã tin vào Chúa Giêsu “vì lời của người phụ nữ” (Ga 4:39). Thánh Phaolô cũng thế, sau khi gặp gỡ Đức Chúa Giêsu Kitô, ngài “lập tức rao giảng rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa” (Cv 9:20). Còn chúng ta, chúng ta chờ đợi gì?

121. Đương nhiên là tất cả chúng ta đều được mời gọi để lớn lên như những người rao giảng Tin Mừng. Đồng thời chúng ta cũng muốn được đào luyện tốt hơn để đào sâu hơn tình yêu của mình và biết rõ ràng hơn về việc làm nhân chứng cho Tin Mừng. Theo nghĩa này, tất cả chúng ta phải để cho người khác liên tục Phúc Âm hóa mình, nhưng điều này không có nghĩa là chúng ta phải bỏ sứ mệnh rao giảng Tin Mừng; nhưng tốt nhất là tìm cách truyền thông Chúa Giêsu ở bất cứ hoàn cảnh nào của mình. Trong mọi trường hợp, chúng ta được mời gọi để làm chứng cho những người khác một cách rõ ràng về tình yêu cứu độ của Chúa, là Đấng bất chấp sự bất toàn của chúng ta, đã ban cho chúng ta sự gần gũi của Người, Lời của Người, sức mạnh của Người, và ý nghĩa cho cuộc sống của chúng ta. Con tim anh chị em biết rằng đời sống sẽ rất khác nếu không có Người, vì vậy những gì mà anh chị em khám phá ra, những gì giúp anh chị em sống và ban cho anh chị em hy vọng, chính là những điều mà anh chị em cần phải truyền thông cho những người khác. Sự bất toàn của chúng ta không phải là một lý do để thoái thác; trái lại, việc truyền giáo là một kích thích liên tục để không chìm vào tình trạng tầm thường và để tiếp tục lớn lên. Việc làm nhân chứng cho đức tin mà mỗi Kitô hữu được mời gọi để thực hiện, ám chỉ một lời khẳng định, như Thánh Phaolô nói: “Không phải như là tôi đã đạt được điều đó, hay đã nên hoàn thiện; nhưng tôi đang cố gắng theo đuổi, để đạt cho kỳ được mục tiêu” (Phil 3:12-13).

Sức mạnh rao giảng Tin Mừng của những việc đạo đức phổ thông

122. Tương tự, chúng ta có thể nghĩ rằng các dân tộc khác nhau, mà giữa họ Tin Mừng đã được hội nhập, là những chủ thể tập thể chủ động hoặc những tác nhân của việc Phúc Âm hóa. Điều này xảy ra bởi vì mỗi dân tộc là tác giả của nền văn hóa riêng của mình và là vai chính của lịch sử của nó. Văn hóa là một điều gì năng động mà một dân tộc tái tạo liên tục, và mỗi thế hệ truyền lại cho thế hệ sau một tổ hợp những thái độ và cách hành sử phức tạp liên quan đến những hoàn cảnh khác nhau, mà người ta phải tái công thức hóa để giải quyết những thách đố riêng của họ. Là con người có nghĩa là “vừa là con cái vừa là cha mẹ của nền văn hóa mà trong đó mình chìm vào”. [97] Khi một dân đã được Tin Mừng hội nhập, thì trong tiến trình truyền thụ văn hóa nó cũng truyền thụ đức tin theo những cách thức luôn luôn mới mẻ; vì lý do ấy tầm quan trọng của việc Phúc Âm hóa được hiểu như hội nhập văn hóa. Mỗi phần của Dân Chúa, qua việc biến hồng ân của Thiên Chúa thành chính đời sống của họ theo sự thiên khiếu riêng, làm chứng cho đức tin nhận được và phong phú hóa nó bằng những cách diễn tả mới và hùng hồn. Người ta có thể nói rằng “dân ấy liên tục Phúc Âm hóa chính mình”. [98] Ở đó tầm quan trọng đặc biệt là của những việc đạo đức phổ thông, sự diễn tả đích thực của hoạt động truyền giáo bộc phát của Dân Thiên Chúa. Nó bắt nguồn từ một thực tại đang phát triển thường trực, mà ở đó Chúa Thánh Thần là tác nhân chính. [99]

123. Trong việc đạo đức phổ thông người ta có thể hiểu được cách thức mà đức tin nhận được nhập thể trong một nền văn hóa và tiếp tục thông truyền thế nào. Có một thời bị nhìn với sự nghi ngờ, việc đạo đức phổ thông đã được lại đánh giá cao trong những thập niên sau Công Đồng. Chính Đức Phaolô VI trong Tông Huấn Evangelii Nuntiandi của ngài đã cung cấp một động lực quyết định theo nghĩa này. Ngài giải thích rằng việc đạo đức phổ thông “tỏ lộ một sự khao khát Thiên Chúa mà chỉ những người đơn thành và nghèo khổ mới có thể biết” [100] và nó “làm cho con người có khả năng quảng đại và hy sinh thậm chí đến độ anh hùng, khi nói đến việc bày tỏ đức tin.” [101] Gần chúng ta hơn, Đức Bênêđictô XVI, khi nói về Châu Mỹ Latinh, đã vạch ra rằng đó là một “kho tàng quý báu của Hội Thánh Công Giáo” và rằng nó “là linh hồn của các dân tộc Mỹ Latinh”. [102]

124. Văn Kiện Aparecida mô tả sự phong phú mà Chúa Thánh Thần khai triển trong việc đạo đức phổ thông với sáng kiến tự do của Ngài. Ở lục địa thân yêu này, nơi mà nhiều Kitô hữu bày tỏ đức tin của mình qua việc đạo đức phổ thông, các Giám Mục cũng gọi nó là “linh đạo phổ thông” hay “Thuyết thần bí dân gian”. [103] Nó thật sự là “một linh đạo được nhập thể trong văn hóa của những người đơn thành.” [104] Nó không phải là không có nội dung, nhưng là phát hiện và diễn tả nội dung ấy qua các biểu tượng thay vì sử dụng công cụ lý luận, và trong một hành động đức tin nhấn mạnh hơn vào credere in Deum (tin vào Thiên Chúa) thay vì credere Deum (tin Thiên Chúa). [105] Đó là “một cách hợp pháp để sống đức tin, một cách để cảm thấy là phần tử của Hội Thánh, và là những nhà truyền giáo” [106] Nó mang theo nó ân sủng của việc là một nhà truyền giáo, đi ra khỏi mình và làm những người hành hương: “Cùng nhau bước đến đền thờ và tham gia vào các cách bày tỏ khác nhau của việc đạo đức phổ thông, trong khi cũng đem theo các con em hoặc mời những người khác, tự nó là một hành động loan báo Tin Mừng”. [107] Chúng ta đừng chế ngự cũng đừng tìm cách kiểm soát sức mạnh truyền giáo này!

125. Để hiểu thực tại này chúng cần phải tiếp cận nó với cái nhìn của Chúa Chiên Lành, là Đấng không tìm cách để phán xét, nhưng để yêu thương. Chỉ từ tình cảm tiên thiên được phát sinh từ tình yêu mà chúng ta có thể đánh giá cao đời sống thần học hiện diện trong việc đạo đức của các dân Kitô giáo, đặc biệt là những người nghèo. Tôi nghĩ đến đức tin vững vàng của những bà mẹ ở bên giường của một đứa con đang đau ốm trong tay nắm chặt một tràng hạt Mân Côi, mặc dù chỉ thuộc qua loa những câu Kinh Tin Kính; hay đến tất cả hy vọng trút xuống một ngọn nến được đốt trong một căn nhà khiêm tốn để cầu xin Đức Mẹ giúp đỡ, hoặc trong những cái nhìn yêu mến sâu thẳm hướng về Đức Kitô Chịu Đóng Đinh. Không có ai yêu dân thánh trung thành của Thiên Chúa mà nhìn những hành động này như đơn thuần chỉ là việc tìm kiếm Thiên Chúa của con người. Chúng là những biểu hiện của một cách sống thần học được sinh động hóa bởi Chúa Thánh Thần là Đấng đã tuôn đổ vào lòng chúng ta (x. Rm 5:5).

126. Trong việc đạo đức phổ thông, vì là kết quả của Tin Mừng được hội nhập văn hóa, người ta tìm thấy một sức mạnh tích cực của việc Phúc Âm hóa mà chúng ta không thể được đánh giá thấp: làm như thế là không nhận ra công việc của Chúa Thánh Thần. Thay vào đó, chúng ta được mời gọi để khuyến khích và củng cố nó ngõ hầu đào sâu tiến trình hội nhập văn hoá là một thực tại không bao giờ kết thúc. Những cách diễn tả của việc đạo đức phổ thông có nhiều điều để dạy cho chúng ta, và đối với những người có thể đọc chúng, chúng là một nguồn của thần học mà chúng ta phải chú ý đến, đặc biệt là khi chúng ta nghĩ về việc Tân Phúc Âm hóa.

Giữa người với người 

127. Giờ đây khi Hội Thánh muốn sống một sự đổi mới sâu xa về truyền giáo, có một hình thức rao giảng thuộc về tất cả chúng ta như một bổn phận hàng ngày. Đó là mang Tin Mừng đến cho những người mà chúng ta gặp, dù là những người lân cận hoặc những người lạ. Đó là việc rao giảng không chính thức có thể được thực hiện trong một cuộc trò chuyện và đó cũng là việc mà một nhà truyền giáo làm khi đến thăm một gia đình. Là một môn đệ có nghĩa là lúc nào cũng sẵn sàng để mang tình yêu của Chúa Giêsu đến cho người khác và điều này có thể xảy ra đột xuất, ở bất cứ đâu, trên đường phố, nơi quảng trường, trong lúc làm việc, trong một cuộc hành trình.

128. Trong việc giảng dạy này, là điều luôn luôn tôn trọng và lịch sự, giây phút đầu tiên hệ tại một cuộc đối thoại cá nhân, trong đó người kia diễn tả và chia sẻ niềm vui và hy vọng của họ với những quan tâm mà họ dành cho những người thân yêu của họ cùng rất nhiều điều mà người ấy mang nặng trong lòng. Chỉ sau cuộc đối thoại này, chúng ta mới có thể trình bày Lời Chúa cho họ, hoặc bằng cách đọc một đoạn Thánh Kinh hoặc dưới hình thức một tường thuật, nhưng luôn luôn nhắc lại sứ điệp căn bản: tình yêu của Thiên Chúa làm người, Đấng đã hiến mình cho chúng ta và hằng sống, ban cho chúng ta ơn cứu rỗi và tình bằng hữu của Người. Đây là lời công bố mà anh chị em chia sẻ với một thái độ khiêm tốn và như lời chứng của một người luôn biết học hỏi, với ý thức rằng sứ điệp này quá phong phú và quá thâm sâu đến nỗi nó luôn luôn vượt trên sự hiểu biết của mình. Đôi khi nó được diễn tả một cách trực tiếp hơn, đôi khi qua một chứng từ cá nhân, một câu chuyện, một cử chỉ, hay một hình thức mà Chúa Thánh Thần có thể linh hứng trong một hoàn cảnh cụ thể. Nếu thận trọng và đúng điều kiện, thì tốt nhất là cuộc gặp gỡ và truyền giáo huynh đệ này được kết thúc bằng một lời cầu nguyện ngắn, liên hệ đến những quan tâm mà người ấy đã nói ra. Như thế, người ấy sẽ cảm thấy rõ ràng hơn rằng mình được nghe và hiểu, rằng tình trạng của mình đã được đặt trong bàn tay Thiên Chúa, và nhận ra rằng Lời Chúa thực sự nói với cuộc đời của họ.

129. Đừng nghĩ rằng sứ điệp Tin Mừng phải luôn luôn được truyền bằng những công thức nhất định và những lời chính xác diễn tả một nội dung hoàn toàn không thay đổi. Nó được truyền lại dưới nhiều hình thức rất khác nhau đến nỗi không thể mô tả hoặc phân loại nổi, và trong đó dân Thiên Chúa, với nhiều cử chỉ và biểu hiệu của mình, là một chủ thể tập thể. Do đó, nếu Tin Mừng được nhập thể trong một nền văn hóa, nó không còn chỉ được truyền thụ qua việc loan báo từ người sang người khác. Điều này phải làm cho chúng ta nghĩ rằng, ở các nước mà Kitô giáo là thiểu số, cũng như để khuyến khích tất cả những người đã được rửa tội rao giảng Tin Mừng, các Hội Thánh địa phương cần tích cực thúc đẩy các hình thức hội nhập văn hóa, ít ra là lúc ban đầu. Cuối cùng, điều mà chúng ta phải nhắm đến là Tin Mừng, một khi được rao giảng bằng những loại rao giảng thích hợp với mỗi nền văn hóa, sẽ tạo ra một tổng hợp mới với nền văn hóa ấy. Mặc dù tiến trình này luôn chậm, đôi khi sợ hãi làm chúng ta quá tê liệt. Nếu chúng ta cho phép nghi ngờ và sợ hãi bóp nghẹt sự mạnh dạn của mình, thì điều có thể xảy ra là, thay vì sáng tạo, chúng ta chỉ đơn thuần nghỉ thoải mái mà không đạt được bất kỳ một tiến bộ nào, và nếu như thế, chúng ta sẽ không còn là những người tham gia vào tiến trình lịch sử với sự hợp tác của mình, nhưng chỉ đơn thuần là những khán giả của một tình trạng đình trệ cằn cỗi của Hội Thánh.

Đặc sủng để phục vụ sự hiệp thông truyền giáo

130. Chúa Thánh Thần cũng phong phú hóa toàn thể Hội Thánh rao giảng Tin Mừng với những đặc sủng khác nhau. Những đặc sủng này là những hồng ân để canh tân và xây dựng Hội Thánh. [108] Chúng không phải là một tài sản bị khóa chặt và được trao cho một nhóm nhỏ để bảo vệ; trái lại, chúng là quà tặng của Chúa Thánh Thần được tháp nhập vào thân thể của Hội Thánh, được thu hút về trung tâm là Đức Kitô, từ đó chuyển thành động lực của việc Phúc Âm hóa. Một dấu chỉ rõ ràng về tính xác thực của một đặc sủng là bản chất Hội Thánh của nó, khả năng tháp nhập một cách nhịp nhàng vào đời sống dân thánh của Thiên Chúa vì lợi ích của mọi người. Một tính mới mẻ thật sự được tác động bởi Chúa Thánh Thần mà không cần che khuất các hình thức linh đạo và hồng ân khác để mình được chứng tỏ. Một đặc sủng càng hướng về trọng tâm của Tin Mừng thì việc thực thi nó sẽ càng có tính Hội Thánh. Chính trong sự hiệp thông, dù thật khó khăn, mà một đặc sủng được chứng tỏ là chân chính và sinh hoa quả nhiệm mầu. Nếu Hội Thánh sống thách đố này, nó có thể là một khuôn mẫu cho hòa bình trên thế giới.

131. Sự khác nhau giữa dân chúng và cộng đồng đôi khi có vẻ phiền toái, nhưng Chúa Thánh Thần, Đấng tạo nên sự đa dạng này, có thể rút ra từ tất cả mọi sự một điều gì tốt và biến nó thành động năng truyền giáo có sức hấp dẫn. Sự đa dạng luôn luôn phải được điều hòa bởi sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần; chỉ có Ngài mới có thể gây ra sự đa dạng, đa số, vô số và đồng thời thực hiện được sự hiệp nhất. Ngược lại, khi chúng ta tìm sự đa dạng, chúng ta khóa mình trong chủ thuyết đặc thủ và chủ thuyết độc quyền của mình, cho nên chúng ta chỉ gây ra chia rẽ. Tương tự, khi chúng ta muốn xây dựng sự hiệp nhất với những kế hoạch nhân loại của mình, chúng ta chỉ áp đặt trên người khác tính thống nhất và sự phê chuẩn của mình. Điều này không giúp gì được việc truyền giáo của Hội Thánh.

Văn hóa, tư tưởng và giáo dục

132. Rao giảng cho nền văn hóa cũng có nghĩa là rao giảng cho những nghành văn hóa chuyên nghiệp, khoa học và học thuật. Đây là cuộc gặp gỡ giữa đức tin, lý trí và khoa học, nhằm mục đích phát triển những luận chứng mới về sự đáng tin cậy và hộ giáo ban đầu [109] giúp tạo ra các quy tắc cho một Tin Mừng được lắng nghe bởi tất cả mọi người. Khi một số loại lý lẽ và khoa học được chấp nhận trong việc công bố sứ điệp, các loại này cùng trở thành công cụ truyền giáo; như nước biến thành rượu. Bất cứ điều gì, một khi được xử dụng, không chỉ được cứu chuộc, mà còn trở thành một công cụ của Chúa Thánh Thần để soi sáng và đổi mới thế giới.

133. Việc người rao giảng Tin Mừng bận tâm đến việc gặp mọi người thì chưa đủ, ngay cả khi Tin Mừng được công bố cho các nền văn hóa như một tổng thể, thần học - không chỉ thần học mục vụ - trong cuộc đối thoại với các khoa học khác và kinh nghiệm của con người, rất quan trọng để suy nghĩ về việc làm thế nào để truyền đạt đề nghị của Tin Mừng cho những bối cảnh văn hóa và các nhóm người nhận khác nhau. [110] Hội Thánh, tham gia vào việc Phúc Âm hóa, đánh giá cao và khuyến khích đặc sủng của các nhà thần học và các nỗ lực của họ trong việc nghiên cứu thần học, cổ võ việc đối thoại với thế giới văn hóa và khoa học. Tôi kêu gọi các nhà thần học, thi hành tác vụ này như một phần của sứ mệnh cứu độ của Hội Thánh. Tuy nhiên, trong khi làm như thế, họ luôn phải nhớ rằng Hội Thánh và thần học hiện hữu để truyền giáo, chứ không chỉ hài lòng với một thần học bàn giấy.

134. Các trường đại học là một môi trường đặc biệt để suy nghĩ về phát triển về dấn thân này cho việc loan báo Tin Mừng bằng một cách tiếp cận liên ngành và dung hợp. Các trường Công Giáo, luôn luôn cố gắng kết hợp công tác giáo dục với việc công bố Tin Mừng cách rõ ràng, là một đóng góp rất có giá trị cho việc Phúc Âm hóa nền văn hóa, ngay cả trong các quốc gia và thành phố nơi mà một tình hình bất lợi thúc đẩy chúng ta sử dụng óc sáng tạo để tìm ra những cách thức phù hợp. [111]

II. Bài giảng

135. Giờ đây chúng ta hãy xét đến việc giảng dạy trong phụng vụ, là điều đòi hỏi các mục tử phải cẩn thận xem xét. Tôi sẽ đặc biệt chú ý, thậm chí một cách hơi tỉ mỉ, đến bài giảng và việc chuẩn bị nó, bởi vì có rất nhiều người than phiền vì tác vụ quan trọng này và chúng ta không thể bịt tai lại. Bài giảng là tiêu chuẩn để đánh giá sự gần gũi và khả năng truyền thông của một mục tử với dân mình. Thực ra, chúng ta biết rằng các tín hữu rất coi trọng bài giảng; và họ cũng như chính những thừa tác viên có chức thánh, cả người nghe lẫn người giảng, thường bị thiệt thòi (vì những bài giảng thiếu chất lượng). Thật đáng buồn khi điều này xảy ra. Bài giảng có thể thực sự là một kinh nghiệm mãnh liệt và hạnh phúc về Chúa Thánh Thần, một cuộc gặp gỡ an ủi với Lời Chúa, một nguồn mạch không ngừng của việc canh tân và tăng trưởng.

136. Chúng ta hãy phục hồi lòng tin tưởng của mình trong việc giảng dạy, dựa trên xác tín rằng Chính Thiên Chúa, Đấng muốn đi đến với con người qua các nhà thuyết giảng và rằng Ngài sẽ bày tỏ quyền năng của Ngài qua các lời của loài người. Thánh Phaolô nói một cách mạnh mẽ về sự cần thiết phải rao giảng, vì Chúa muốn đến với những người khác bằng lời của chúng ta (x. Rm 10:14-17). Với Lời Người, Chúa đã chinh phục được quả tim của dân chúng. Họ đã đến tù khắp nơi để nghe Người (x. Mc 1:45). Họ đã kinh ngạc “uống” giáo huấn của Người (x. Mc 6:2). Họ cảm thấy Người nói với uy quyền (x. Mc 1:27). Bằng lời của mình, các Tông Đồ, là những người mà Đức Kitô đã thiết lập “để ở với Người và được sai đi rao giảng” (Mc 3:14), đã kéo mọi dân tộc vào Hội Thánh (x. Mc 16:15,20).

Bối cảnh phụng vụ

137. Giờ đây chúng ta cần phải nhớ rằng “việc công bố Lời Chúa trong phụng vụ, đặc biệt là trong bối cảnh của cộng đồng Thánh Thể, phải như một cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và dân Ngài hơn là một thời điểm để suy niệm và dạy giáo lý, một cuộc đối thoại mà trong đó những kỳ công cứu độ được công bố và những đòi hỏi của Giao Ước được liên tục lặp lại”. [112] Bài giảng có một giá trị đặc biệt vì phát sinh từ bối cảnh Thánh Thể, là điều làm cho nó vượt trên mọi hình thức dạy giáo lý bởi vì nó là một cuộc đối thoại tuyệt vời nhất giữa Thiên Chúa và dân Ngài, trước khi hiệp thông Bí Tích. Bài giảng một lần nữa tiếp tục cuộc đối thoại đã được mở ra giữa Chúa và dân Ngài. Nhà thuyết giảng phải biết trọng tâm của cộng đồng của mình để nhận ra lòng ao ước Thiên Chúa sống động và mãnh liệt ở đâu, và thậm chí một cuộc đối thoại thoại yêu thương như vậy đã bị bóp nghẹt hoặc không thể sinh hoa kết quả ở chỗ nào.

138. Bài giảng không thể là một hình thức giải trí, như được trình bày trên các phương tiện truyền thông, nhưng phải đem lại sự nhiệt thành và ý nghĩa cho buổi lễ. Nó là một loại đặc biệt, vì nó là giảng dạy trong khuôn khổ của một cuộc cử hành phụng vụ; do đó cần phải ngắn gọn và tránh làm cho nó có vẻ như một bài diễn văn hoặc một bài thuyết trình. Một nhà thuyết giảng có thể giữ được sự chú ý của quần chúng trong một giờ, như thế lời của ông trở nên quan trọng hơn việc cử hành đức tin. Nếu bài giảng kéo dài quá lâu, nó sẽ ảnh hưởng đến hai đặc tính của việc cử hành phụng vụ: sự hòa hợp giữa các phần của phụng vụ và nhịp điệu của phụng vụ. Khi giảng dạy được thực hiện trong bối cảnh phụng vụ, nó hợp thành một phần của Lễ Vật dâng lên Chúa Cha, và như trung gian của ân sủng mà Đức Kitô đổ ra trong buổi Cử Hành. Cùng bối cảnh này đòi hỏi bài giảng phải hướng dẫn cộng đồng, và ngay cả nhà thuyết giảng, đến sự hiệp thông với Đức Kitô trong Bí Tích Thánh Thể, là Đấng biến đổi cuộc sống. Điều này đòi hỏi lời của nhà thuyết giảng không được chiếm quá nhiều không gian, để Chúa có thể tỏa sáng nhiều hơn nhà thuyết giảng.

Một cuộc nói chuyện của một người mẹ

139. Chúng tôi đã nói rằng Dân Thiên Chúa, qua sự tác động liên tục của Chúa Thánh Thần ở trong họ, không ngừng Phúc Âm hóa chính mình. Xác tín này có ý nói gì với nhà thuyết giảng? Nó nhắc nhở chúng ta rằng Hội Thánh là mẹ và giảng cho dân như một người mẹ nói chuyện với con mình, biết rằng đứa con tin rằng tất cả những gì mẹ dạy là vì muốn điểu tốt cho mình vì nó biết rằng mẹ yêu thương mình. Hơn nữa, một người mẹ tốt có thể nhận ra tất cả những gì Thiên Chúa đã gieo trồng trong con mình, lắng nghe những quan tâm của nó và học hỏi từ nó. Tinh thần yêu thương ngự trị trong một gia đình hướng dẫn cả mẹ lẫn con trong cuộc đối thoại của họ, ở đó người ta dạy và học, sửa chữa và đề cao những điều tốt. Điều tương tự cũng xảy ra trong bài giảng. Cùng một Chúa Thánh Thần, Đấng linh hứng các sách Tin Mừng và hoạt động trong dân Thiên Chúa, cũng linh hứng chúng ta để lắng nghe đức tin của dân và giảng thế nào trong mỗi Thánh Thể. Do đó, bài giảng Kitô giáo tìm thấy ở trung tâm của nền văn hóa của dân chúng một nguồn nước hằng sống, là điều giúp cho nhà thuyết giảng biết phải nói gì và tìm cách thích hợp để nói. Cũng như tất cả chúng ta đều thích được người khác nói với mình bằng tiếng mẹ đẻ của mình, vì vậy trong đức tin, ch&ua

Các tin khác

VIDEO

  Bài 2: HIỆP HÀNH: Hiệp Thông - Tham Gia - Sứ Vụ | Thường huấn linh mục GP Ban Mê Thuột 2023

  Bài 1: Tầm Nhìn Hoàn Vũ | Thường huấn linh mục GP Ban Mê Thuột 2023

  ĐỨC TIN | Tròn Đầy & Trong Sáng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh

  Mục Vụ Văn Hóa: DANH - LỢI - NGHĨA | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh

  Cử Hành Phụng Vụ | Gặp Gỡ Chúa Kitô - Loan Báo Tin Mừng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn văn Hinh

  Thần Học Mục Vụ & Công đồng Vatican II: Con người - Giáo hội - Môi trường

  Hiệp Hành Hội Ý Dựng lại Mùa Xuân | Người Giáo dân Thiên niên kỷ mới

  Bài 4: Văn Hóa Tổ Chức - Đời Sống Cá Nhân

  Hiệp Hành Kín Đáo và Minh Bạch

  Văn Hóa Tổ Chức - Tổ Chức Cộng Đồng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh (Phần 3)

  Tìm hiểu về văn hóa (Phần 2) - Lm Gioan Kim Nguyễn Văn Hinh

  Tìm hiểu về văn hóa (Phần 1) - Lm Gioan Kim Nguyễn Văn Hinh

  TRỰC TUYẾN BÀI 29: MỤC VỤ THÁNH THIỆN THUẬN THEO

  TRỰC TUYẾN BÀI 28 : MỤC VỤ TÍCH HỢP VĂN HÓA ĐÔNG TÂY

  TRỰC TUYẾN BÀI 27 : MỤC VỤ LỜI CHÚA NGÀY NAY

  TRỰC TUYẾN BÀI : TÌM HIỂU VỀ VĂN HÓA VÀ BẢN SẮC VĂN HÓA VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 26: MỤC VỤ ĐẠO ĐỨC KINH TẾ DỊCH VỤ

  TRỰC TUYẾN BÀI 25: MỤC VỤ TUẦN THÁNH UY VÀ ĐỨC

  TRỰC TUYẾN BÀI 24: MỤC VỤ GIA TÀI CỦA MẸ

  TRỰC TUYẾN BÀI 23: MỤC VỤ BỔ VÀ TẢ

  mvgd20162016

  TRỰC TUYẾN BÀI 21: MỤC VỤ LUẬT CÂN BẰNG

  TRỰC TUYẾN BÀI 20: TRUY TÌM MÃNH LỰC

  TRỰC TUYẾN BÀI 19: THẾ GIỚI HÔM NAY CẦN NHỮNG NGƯỜI CHA NHÂN HẬU LÝ TƯỞNG VÀ THỰC TIỄN

  TRỰC TUYẾN BÀI 18: NĂM THÁNH THÁNH CẢ GIUSE LÃNH ĐẠO VÀ NIỀM TIN

  TRỰC TUYẾN BÀI 17: MỪNG XUÂN TÂN SỬU 2021 - LÒNG BIẾT ƠN TIN VUI ĐẠO ĐỨC VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 17: MỪNG XUÂN TÂN SỬU 2021 - LÒNG BIẾT ƠN TIN VUI ĐẠO ĐỨC VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 16: ĐỀ TÀI ĐIỂM TỰA

  TRỰC TUYẾN BÀI 14: VĂN HÓA KHÔNG NHẬN SAI NHƯNG SỬA SAI

  TRỰC TUYẾN BÀI 13: VUN TRỒNG NỀN VĂN HÓA “TÂM LINH – KHOA HỌC”

  TRỰC TUYẾN BÀI 12: NĂM MỚI 2021 XÂY DỰNG NỀN VĂN MINH TÂM LINH & KHOA HỌC

  TRỰC TUYẾN BÀI 11: GIÁNG SINH 2020 - LÀM NGƯỜi - GIÊSU

  TRỰC TUYẾN BÀI 10: PHÍA ĐẰNG SAU TÂM LINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 9: ĐỂ CÓ CHÚA THÁNH THẦN

  TRỰC TUYẾN BÀI 8: LOAN BÁO TIN MỪNG

  TRỰC TUYẾN BÀI 7: PHÒNG ĐÀO LUYỆN TÂM LINH CỦA TÍN HỮU DÂN CHÚA

  TRỰC TUYẾN BÀI 6: ĐÀO LUYỆN TÍN HỮU DÂN CHÚA

  TRỰC TUYẾN BÀI 5: TẦM NHÌN THIÊN NIÊN KỶ MỚI

  TRỰC TUYẾN BÀI 4: ĐÀO LUYỆN TÂM LINH BẮT ĐẦU TỪ THÁNH THỂ HAY THÁNH KINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 3: PHƯƠNG THỨC CẦU NGUYỆN CẢM NGHIỆM- SỐNG THÁNH GIỮA ĐỜI

  TRỰC TUYẾN: BÀI 2: GIẢI THÍCH ĐÀO LUYỆN TÂM LINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 1: ĐÀO LUYỆN TÂM LINH

  TintucVatican

  Thánh Lễ Tuyên Thánh Jacinta và Francisco Marto

  Muối và ánh sáng

  Thế Giới Nhìn Từ Vatican

  Nghi thức đóng Cửa Thánh

  Xin Mẹ Thương

  Thế Giới Nhìn Từ Vatican

  Suy Niệm với Đức Thánh Cha Phanxicô

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__3

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__1

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__2

  Thường huấn HĐMVGX Ban Mê Thuật

  Quốc tế thiếu nhi 01-6-2014

  Thể dục Dưỡng Sinh

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  CƠM TRƯA TRUNG THU 2013

  Thi đấu thăng cấp sơ đẳng Vovinam

  Khai mạc kỳ thi thăng cấp Vovinam

  Vovinam

  Đào luyện tâm linh

  Nghệ thuật cân bằng

  Đào Luyện Tinh Thần

  Đào Luyện Thể Chất

Bài viết mới
Mười hai lời khuyên của Đức Thánh Cha Phanxicô để trở thành người cừ khôi trong việc loan báo Tin Mừng
Mười hai lời khuyên của Đức Thánh Cha Phanxicô để trở thành người ...
Công bố tự truyện của Đức Thánh Cha Phanxicô
Công bố tự truyện của Đức Thánh Cha Phanxicô
Người dân Ai Len bỏ phiếu chống đề xuất sửa đổi định nghĩa về gia đình trong hiến pháp
Người dân Ai Len bỏ phiếu chống đề xuất sửa đổi định nghĩa ...
Mười một năm Giáo hoàng của Đức Thánh Cha Phanxicô
Mười một năm Giáo hoàng của Đức Thánh Cha Phanxicô