Thứ hai, ngày 29 tháng 04 năm 2024 | 03:31 PM - Giới thiệu | Ý nghĩa logo
Tài liệu
TIỂU SỬ và TÁC PHẨM của TRIẾT GIA KIM ĐỊNH 1
- Đọc Tiểu sử và tác phẩm Kim Định:
http://www.trieuxuan.info/?pg=tgdetail&id=2039
- Đọc tác phẩm: Nguồn gốc Văn hóa Việt Nam của Kim Định
http://www.vietnamvanhien.net/nguongocvanhoavietnam.pdf
--------------
TIỂU SỬ và TÁC PHẨM
của TRIẾT GIA KIM ĐỊNH
Giáo sư Kim Định tên thật là Lương Kim Định, là triết
gia, linh mục Công giáo. Sinh ngày 15/6/1915 tại địa phận
Bùi Chu, làng Trung Thành, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam
Định.
Ông là con trai út trong gia đình, thân phụ mất từ khi ông mới
một tháng tuổi. Nhờ công dưỡng dục và nhìn xa trông rộng của
người mẹ hiền, ngay từ thưở còn nhỏ, ông được gửi vào chủng
viện Bùi Chu. Tại chủng viện Bùi Chu, ông được hưởng một nền
giáo dục toàn diện, về đạo đức cũng như về học vấn. Với bản tính
ham tìm tòi học hỏi, ngoài những môn học khác và ngôn ngữ La
Tinh, ông đã tự học thêm chữ Nho và Pháp văn. Sau những năm
tháng say mê và miệt mài học tập, ông được bề trên phân công
giảng dạy tiếng La Tinh tại Tiểu chủng viện Ninh Cường, Bùi
Chu từ năm 1937 đến năm 1939.
Từ năm 1939 đến năm 1943, ông học thần học tại Đại chủng
viện Quần Phương, Bùi Chu và triết học tại Giáo hoàng Học
viện Saint Albert le Grand, Paris. Năm 1943, sau khi tốt nghiệp
triết học, ông được thụ phong linh mục và giảng dạy triết học tại
Đại chủng viện Quần Phương, Bùi Chu đến năm 1946. Năm
1947, ông sang Pháp 10 năm để nghiên cứu về triết học, xã hội
học và văn minh Pháp tại Institute Catholic de Paris. Trong
quãng thời gian này, ông còn theo học về Nho giáo tại Institute
des Hautes Études Chinoise (Viện Cao học Hán học).
Trong thời gian ở Paris, nhiều bạn bè người Pháp đã đặt ra
những câu hỏi cho ông: “Việt Nam có triết lí không?”,“Các anh có
nghĩ đến việc thiết lập một nền Thần học Việt Nam chăng?”… Vào
thời điểm này, một số linh mục người Pháp cũng đưa ra vấn đề
tìm hiểu và giải nghĩa Kinh Thánh theo tinh thần của của triết
học Á Đông. Đại diện cho xu hướng này là linh mục Folliet
thuộc dòng Oratorie. Sau này, trong bài Để tiến tới một nền Thần
TIỂU SỬ và TÁC PHẨM của TRIẾT GIA KIM ĐỊNH 2
học Việt (Dân Chúa, 12/1982), ông đã kể lại lời phát biểu của linh
mục Folliet viết trong cuốn Monsieur Pouget như sau: “Hiện nay
người Âu Tây chưa hiểu đúng Kinh Thánh. Sách Thánh xuất
phát từ Á Đông, phải do người Á Đông giải nghĩa thì mới mong
đúng tinh thần của sách”.
Trong bầu không khí tinh thần này, ông đã âm thầm nuôi
dưỡng một hoài bão lớn là thu thập tất cả tinh hoa của Đông -
Tây, hòng xây đắp một nền Triết lí Việt Nam và một nền Thần
học Việt Nam. Sau một thời gian tìm tòi và nghiên cứu, ông
nhận ra rằng: muốn giải quyết vấn đề Thần học Á Đông thì
trước tiên phải tìm cho ra cái tinh thần Á Đông rồi mới mong
giải thích Kinh Thánh theo tinh thần Á Đông, và xa hơn nữa là
thiết lập một nền Thần học Việt Nam. Vì lí do này, ông đã quay về
nghiên cứu tư tưởng Phương Đông: đầu tiên là triết học Ấn Độ,
triết học Phật giáo và cuối cùng là Nho giáo. Riêng về Nho giáo,
ông đã nghiên cứu thấu đáo về Hán Nho, cho đến Nguyên Nho
(Nho giáo Nguyên thủy) và cuối cùng là Việt Nho (Nho của người Lạc Việt).
Nhờ có thời gian rộng rãi, nhờ vào nguồn tư liệu phong phú và
quý báu từ Thư viện Quốc gia Paris, Văn khố sử liệu về Việt
Nam tại Mission Eutrangères de Paris và tư liệu có sẵn tại Viện
Cao học Hán học, ông đã lần mò và tìm ra được kho tàng chôn
dấu triết lí và nguồn gốc dân tộc Việt Nam.
Con đường tìm tòi, học hỏi, nghiên cứu và sáng tạo của
ông về triết lí Nho giáo, về văn hóa và triết lí Việt Nam được thai
nghén từ khi ông còn ở Paris, thực hiện khi về lại Việt Nam và
sau đó là kéo dài cho đến khi ông về cõi vĩnh hằng. Sinh thời ông
bảo rằng, khi còn ở Paris, học giới đã tặng cho ông danh hiệu là
Petit Confucius (ông Khổng Tử Nhỏ).
Năm 1957, ông về nước với tâm nguyện đem những chất
liệu đã thâu thái xây đắp một nền triết lí hoàn toàn Việt
Nam. Từ năm 1957 đến năm 1960 ông dạy triết học Đông tại Học
viện Lê Bảo Tịnh, Sài Gòn. Khi Học viện Lê Bảo Tịnh được sáp
nhập vào địa phận Sài Gòn thì ông bơ vơ không chỗ dựa, bởi sở
học của ông không cho phép ông đi làm linh mục ở một xứ đạo.
Trong giai đoạn này ông phải nhờ một số học trò cưu mang mình.
May mắn thay, cũng vào năm 1960, ông được Đại học Văn
Khoa Sài Gòn mời dạy triết học Đông Phương. Lúc đó triết Đông
chưa được chính thức thừa nhận ở bậc đại học, nên trong ba, bốn
TIỂU SỬ và TÁC PHẨM của TRIẾT GIA KIM ĐỊNH 3
năm đầu ông chỉ hưởng lương theo giờ dạy. Giai đoạn này, ông
vừa giảng dạy theo giáo trình hàn lâm về Nho giáo vừa cho xuất
bản những tác phẩm của mình.
Tại Đại học Văn khoa, dòng tư tưởng của ông đã gây ấn
tượng mạnh mẽ đối với sinh viên, sinh viên đã theo học ông rất
đông. Ông đã dùng ánh sáng mới lạ của những ngành triết học
và khoa học nhân văn hiện đại để soi rọi tận nẻo âm u của kho
tàng cổ học Việt Nam. Những nguồn ánh sáng của Triết học
Hiện sinh của Nietzsche, Jaspers và Heidegger, Phân tâm học
miền sâu của Carl Jung, Cơ cấu luận của Levis Strauss, Khảo
cổ học… đã được ông sử dụng thành những công cụ hữu hiệu
cho công cuộc khai sơn phá thạch này.
Nhận thấy công việc đánh giá lại triết thuyết của Khổng Tử
là một tình thế hết sức cấp bách nên năm 1965 ông đã cho xuất
bản tác phẩm Cửa Khổng (Nguyên Nho). Trong lời tựa của Cửa
Khổng, ông cho biết: “Nếu đúng theo dự tính của tác giả thì
chúng còn bị cất kín trong tủ dăm mười năm nữa để được suy
tư cho thành thục rồi mới nghĩ tới xuất bản. Bởi viết triết lý đòi
hỏi phải như thế. Hiếm vì số sách tham khảo về triết Đông còn
nghèo nàn và hiếm hoi thái quá nên tôi đành thể theo lời yêu
cầu khẩn khoản của một số sinh viên và bạn hữu cho xuất bản
với những khuyết điểm của chúng để góp tài liệu vào một bộ
môn mà chúng tôi có tham dự, một phần hướng dẫn sinh viên
trong việc nghiên cứu”.(1)
Cửa Khổng đã đưa ra những kiến giải mới mẻ và tiến bộ về
triết lí Nho giáo mà trước nay ở Việt Nam người ta chỉ gọi học
thuyết này là Nho học hoặc Khổng học. Ông cho rằng, triết lí là
một nỗ lực tinh thần để con người thoát khỏi tình trạng vong
thân và thâu hồi lại “quyền tự chủ của mình” trước các thế lực
thần quyền cũng như thế quyền ở bên ngoài. Triết lí Nho giáo đã
đạt được mục đích là giải quyết được những vấn đề căn bản
trên, vì vậy nó là một nền triết lí nhân bản tâm linh trung thực
nhất.
Thật là chí lí khi ông cho rằng: triết lí Nho giáo luôn luôn
xem trọng yếu tố con người và đạo làm người: “Sự thường
người ta không ý thức nổi tầm cao trọng của con người cho
nên chưa coi đạo nhân là cao trọng và xa vời đủ, bởi vậy
thường quay ra tìm hiểu về trời đất quỷ thần vốn chiếm chỗ
cao hơn trong óc của họ, vẫn được suy tôn là xa vời và thần
TIỂU SỬ và TÁC PHẨM của TRIẾT GIA KIM ĐỊNH 4
diệu hơn người nhiều, vì thế số phục vụ cho con người trọn
vẹn từ đầu đến cuối trở nên hiếm hoi so với số người phục vụ
cho thế lực khác…”(2).
Trước trào lưu phát triển mạnh mẽ và thành công của thế
giới phương Tây, nhiều trí thức thuộc thế hệ trước của Trung
Hoa vô cùng oán hận Khổng giáo, họ cho rằng sự thất bại của
đất nước Trung Hoa trong thời cận đại là do di sản của Khổng
Tử nên đã đổ tất cả tội lỗi lên đầu ông. Bằng những lập luận
vững chắc và hết sức thuyết phục của mình trong Cửa Khổng,
ông đã minh oan được cho Khổng Tử và Khổng giáo. Để minh
chứng điều này, ông dành nguyên một chương có nhan đề
“Những ấn tích Triết lý Khổng lưu lại trên đời sống hiện
đại của Tây Âu”. Trong chương này, ông cho biết các học giả
có uy tín tại Tây Âu từng nói về sự ảnh hưởng của học thuyết
Khổng Tử đối với công cuộc giáo dục và sự tiến bộ trong xã
hội của họ - bắt đầu từ thế kỉ XVIII.
Năm 1965, Nhân Bản ra đời nhằm đặt nền móng và khơi lại
lòng mến mộ cho “đạo làm người”. Đây là tác phẩm mở đầu cho
lộ trình tư tưởng của ông trên con đường sáng tạo ra nền Triết
lí An Vi. Cũng bắt đầu từ đây, ông âm thầm khai quật, hệ thống
hóa và liên tục công bố những công trình triết lí cũng như văn
hóa Việt Nam trong suốt giữa thập niên 1960 cho đến đầu năm
1975.
Nhân Bản tiếp tục đề cao địa vị và cứu cánh của con người
trong vũ trụ nhân linh, một ngôi vua trong ba ngôi vua “Thiên -
Địa - Nhân” (Tam Tài). Ông đưa ra khái niệm thiên khởi, địa khởi
và nhân khởi để đối chiếu, so sánh về vấn đề quan tâm của các
nền văn hóa khác nhau như Hi Lạp, Âu Tây và Viễn Đông. Ông
đi từ thần thoại Hi Lạp, đến triết học duy lí của Âu Tây, cho đến
nhân thoại của Viễn Đông để cuối cùng đưa ra kết luận rằng:
không có ở đâu mà con người được đề cao như ở Viễn Đông,
quê hương của nền triết lí nhân bản tâm linh. Ông đã mượn bài
thơ Vịnh Tam Tài của nhà Nho, nhà cách mạng Trần Cao Vân để
lập luận của mình thêm phần mạnh mẽ. Trước khi bàn về bài
Vịnh Tam Tài, ông đã đánh giá bài thơ như sau: “Quả là một bài
thơ triết lý có tầm xích mênh mông như vũ trụ. Cái tài tình của
bài thơ là tự đầu chí cuối Trời, Đất, Người luôn luôn cùng xuất
hiện “ba mặt một lời xoắn xuýt trong nhất thể u linh”(3)
TIỂU SỬ và TÁC PHẨM của TRIẾT GIA KIM ĐỊNH 5
Tại sao nền triết lí mà ông xiển dương được gọi là
An Vi? Ông cho biết: “Thuật ngữ an-vi không có trong triết
Đông, nhưng chúng ta có thể dùng tài-liệu như những câu: “thân
lao nhi tâm an, vi chi”身勞而心安爲之(Tuân Tử: thân xác nhọc mà
lòng an thì cứ làm) để đưa ra thuật ngữ an-vi, tương đương với an
hành. Vô vi sẽ là đối cực với hữu vi, cả hai còn ở trong bình diện
nhị nguyên, còn an vi sẽ chỉ tâm thức nhất-nguyên lưỡng-cực
vượt ra khỏi nhị-nguyên, không hữu cũng như vô, không chống
đối nhưng là thâu hóa. Nói an-vi là trong trường hợp đi với hữu
vi vô vi. Còn nói chung thì nó là đợt trung dung: “hữu nhược vô,
thực nhược hư” (LN. VIII. 6) 有若無實若虛 = “có mà như không,
thực mà như giả”. Đấy là một đợt phải tế vi lắm mới đạt được, vì
nó rất mong manh bé nhỏ vô ý một chút là ngả sang hữu hoặc
vô”.(4). Như vậy, An Vi chính là quân bình động đích giữa Hữu
Vi và Vô Vi.
Nối tiếp công việc chưa làm xong của Nhân Bản, năm 1967
ông cho xuất bản Chữ Thời. Chữ Thời là tác phẩm bàn về siêu
hình Kinh Dịch. Ông cho rằng: siêu hình Tây Phương là hoàn
toàn trừu tượng, siêu hình Viễn Đông tuy cũng trừu tượng
nhưng lại đâm rễ cụ thể xuống các thể chế như lịch pháp, thiên
văn… Đó là phương thức đem triết lý vào cấu trúc của xã
hội và cải hóa tâm tính con người. Lời giới thiệu sách của ông
tuy ngắn đã nói lên được cốt tủy của Chữ Thời, vì vậy tôi trích dẫn
lại hoàn toàn:
“Muốn hiểu biết thêm về con người, cần phải biết địa vị của
con người trong trời đất, trong vũ trụ, hay nói theo ngôn ngữ thời
mới là trong không thời gian”.
Nhận thấy cơ cấu thời-không cũ đang sụp đổ, tác giả đi gõ
cửa những nhà khoa học lớn như Einstein với thuyết tương đối
trình bày thời gian như chiều kích thứ tư của vạn vật… rồi đi gõ
cửa các triết gia hiện đại nhất là Heidegger tác giả cuốn “Hữu
thể và Thời gian”. Sau đó trở lại với Đông Phương khảo sát
quan niệm Chữ Thời trong Kinh Dịch, Kinh Thư. Chúng ta
sẽ được thích thú nhận ra sự gặp gỡ Tây Đông trên cấp bậc tối
thượng. Chúng ta sẽ hào hứng khi khám phá ra nền siêu hình
sâu thẳm tiềm ẩn trong Tam Tài, Ngũ Hành, Hồng Phạm, Thái
Thất… với nền triết lý của lịch pháp Đông Phương…đặt nền
móng cho huyền sử, cung ứng chìa khóa để mở kho tàng bí ẩn
TIỂU SỬ và TÁC PHẨM của TRIẾT GIA KIM ĐỊNH 6
của Văn hóa nước nhà hầu xây đắp một nền triết lý Việt Nam
mới hợp cho cảm quan của con người thời đại”.(5)
Đây là một cuốn sách mang tính hàn lâm và thuộc vào loại
khó đọc nhất trong toàn bộ tác phẩm của ông. Về sau, trong lời
bạt của tác phẩm Căn bản triết lý trong văn hóa Việt Nam, ông
bảo rằng: cuốn này là cuốn sách dễ nhất, ông hoàn thành trước
kì hạn để bù lại cho Chữ Thời - một cuốn sách khó nhất trong bộ
sách.
Tuy vậy, tác phẩm này cưu mang một sức mạnh tâm linh to
lớn, nó đã làm thay đổi nhận thức của nhiều độc giả. Ông từng
cho biết, nhiều người nhờ đọc Chữ Thời vài lần mà tự nhiên
cảm thấy an nhiên, thanh thoát và những biến cố ở đời hay cả
vấn đề sinh tử cũng khôg còn nặng nề đối với họ như trước đây.
Năm 1969 ông cho xuất bản Những Dị Biệt Giữa Hai Nền
Triết Lý Đông Tây. Với ông, tác phẩm này ghi lại kỉ niệm về một
chặng đường mà ông đã đi qua mảnh đất Vô Vi của Ấn Độ. Mục
đích của Những Dị Biệt Giữa Hai Nền Triết Lý Đông Tây là
đánh động tâm thức người đọc để họ nhìn nhận lại giá trị
tinh thần của Đông Phương.
Ở đây, ông đã đưa ra những nét đặc trưng của hai nền triết
lý Đông - Tây, phân biệt rõ ràng giữa minh triết, triết lí, triết
học và cho rằng: triết học là cấp bậc thấp nhất về triết. Ông đã
chứng minh một cách thuyết phục rằng: Đông Phương thiên
về minh triết và triết lí, còn Tây Phương thì thiên về triết
học. Ông đã đề cao sứ mệnh của Triết Đông trước sự đổ vỡ
của nền triết học cổ điển Tây Phương, và cho rằng một triết
gia Tây Phương ngày nay mà không biết gì đến triết Ấn Độ và
Trung Hoa - ít ra về lập trường chung, thì bị coi là thuộc vào
thời kì trước khi Colombo tìm ra Châu Mỹ!
Ông đã nêu cao địa vị của triết lí và văn hóa của Ấn Độ trong
tư tưởng Tây Phương hiện đại. Từ cuối thế kỉ XVIII đến cuối thế
kỉ XIX, những tác phẩm kinh điển của Ấn Độ được lần lượt dịch
sang tiếng Anh, tiếng Pháp. Những dịch phẩm này đã được giới
trí thức, học giả, văn sĩ của Tây Phương đón nhận một cách
nồng nhiệt, và nó đã ghi lại dấu ấn trên tâm thức của con người
đương đại.
Tuy là linh mục Thiên Chúa giáo nhưng ông đã đề cao Tâm
Đạo và cho đó là chìa khóa để mở kho tàng truyền thống. Ông
TIỂU SỬ và TÁC PHẨM của TRIẾT GIA KIM ĐỊNH 7
cũng là người đã say mê truyền thống tâm linh của Đông
Phương, đoạn trích dẫn dưới đây sẽ cho thấy điều này:
“Bỏ Triết học Âu Châu bước vào Triết lý Đông Phương, độc
giả thường bị kích động do một bầu không khí mới mẻ gây ra do
chữ Vô. Chữ Vô thường được nhắm như một lý tưởng, khác
hẳn với triết học Thái Tây nhắm hữu vi. Vô vi của Lão Trang đã
trở thành nhãn hiệu của đạo học. Dấn thân vào đời đến như
Khổng mà còn tiếc xót cái “vô vi chi trị” và “Dư dục vô ngôn”
coi như một lý tưởng cao hơn hữu vi, và Khổng Tử đã tu luyện
cho đạt tới tứ vô (Tử tuyệt tứ: “vô ý, vô tất, vô cố, vô ngã”). Bước
vào Phật giáo lại càng rõ ràng: ở đây vô ngã được đẩy xa đến
nghĩa bản thể, nghĩa là phủ nhận cái tự ngã. Và Phật Đại thặng
còn đi xa hơn, không những thoát chấp ngã như Tiểu thặng, mà
còn thoát luôn cả chấp Pháp nữa. Hàng trăm quyển “Minh triết
siêu việt” (Prajna Paramita) đều xây trên chữ vô, bản “bát nhã tâm
kinh” tóm lại cái tinh túy của bộ sách khổng lồ kia vào chừng
hai trăm chữ thì trong số đó đã có tới ba chục chữ rồi. Cho nên
người ta nói quyển kinh “Bát nhã” vắn nhất, chỉ có một vần
(ekaksari) đó là vần A (VÔ). Thật là một kiểu tóm tài tình: Vì luận
đề nòng cốt vẫn chỉ xoay quanh chữ VÔ (A).
Thế nghĩa là cái phần đặc sắc và quý nhất của Triết Đông
lại là cái học lấy VÔ làm hồn sống. Vô cực đặt trên thái cực.
Nhân sinh lý tưởng con người đặt ở VÔ: “Thánh nhân vô công,
vô kỷ, vô danh” “Xử dân vô tri vô dục” (LÃO). “Đại nhân vô tư, dĩ
đạo vi thể” (Nho: quẻ Kiền). Thánh Gandhi: “Tôi tự diệt cho đến số
không” (Je me réduis à zéro) là âm hưởng hiện thời lắp lại Ấn Độ
giáo xưa xây trên Neti, Neti: không phải là cái này, không phải
là cái kia. Bên SAT: hữu còn có Asat: Vô hữu, cũng như trong
phương pháp hành đạo lấy tĩnh lặng làm chủ”.(6)
Giáo sư Kim Định cho rằng nhờ khám phá ra con zéro (số
không) mà Ấn Độ đã đẩy toán học đi một bước thật xa, lập nên hệ
thống thập phân và phát minh ra đại số. Sau này con số zéro
truyền sang Âu Châu qua ngả Ả Rập. Lúc ấy, không ai ngờ được
ảnh hưởng của con zéro đối với khoa học. Ngày nay, để đáp lại
món quà khoa học kĩ thuật Âu Châu đã tặng cho nhân loại, Á
Châu sẽ lấy gì để đóng góp? Ông đề nghị, Á Châu nên tiếp
tục đóng góp con zéro một lần nữa, bởi vì về mặt tinh thần thì
sự đóng góp của nó sẽ còn cao quý hơn là đóng góp cho toán
TIỂU SỬ và TÁC PHẨM của TRIẾT GIA KIM ĐỊNH 8
học trước đây. Với ông, dịch phẩm Tibetan Yoga and Secret
Doctrines (Yoga Tây Tạng và Bí Pháp Thượng Thừa), chính là món quà
quý báu mà học giả người Anh W. Y. Evant Wents đã đem về
tặng cho Châu Âu. Ông nhấn mạnh: “Tất cả nhắc lại con zéro đã
nói trên kia, một con zéro tinh thần hay là tâm đạo mà tôi cho là
viên thuốc duy nhất có sức chữa được bệnh trạng nhân loại
hiện nay”.(7)
Tâm Tư được xuất bản năm 1970, là gạch nối giữa Nhân
Bản và Chữ Thời. Nhân Bản dẫn đến con người toàn diện. Chữ
Thời dẫn đến việc con người nhận ra cái tâm bao la như vũ trụ
của mình. Tâm Tư là khoa Siêu lý của Viễn Đông, gọi theo ngôn
ngữ Tây Phương là Siêu hình của Viễn Đông. Theo tôi, sở dĩ
ông không dùng từ siêu hình, bởi vì đã qua nhiều thế kỉ, nền triết
học Âu Tây đã hiểu sai và dùng sai từ siêu hình. Nhiều triết gia
hiện đại của họ cho rằng siêu hình trong triết học Tây Phương
bắt đầu từ Aristote trở về sau là thứ siêu hình không đích thực.
Tâm Tư là phương pháp suy tưởng bằng tâm; dùng ý
tưởng để nhận biết sự thật, dùng tình thâm để cảm
nghiệm được vẻ đẹp và nuôi dưỡng tâm hồn, dùng chí
khí để tu luyện hòng thể nghiệm được chiều kích vũ trụ
nơi mình và nhận ra được cái Toàn Thể.
Trong lời tựa, ông đã nói về Tâm Tư như sau: “Khoa an tư
hay tâm tư nhằm giúp vào việc nhận thức ra đáp ứng nhu yếu
có tính cách vũ trụ của con người đại ngã Tâm linh, sự nhận
thức đó cũng được gọi là Ý-thức-vũ-trụ hay là “Thiên địa chi
tâm”. Người thường mới chỉ có thiên địa chi ý, chi tưởng
nhưng chưa có thiên địa chi tâm. Để có được vũ trụ chi tâm
thì cần rút bớt nghị lực ra khỏi ý, khỏi tưởng, của tướng đặng
đầu tư vào việc hàm súc tinh luyện những mối tình vi tế cho tới
khi nào thể nghiệm được qua thân tâm rằng: mình cùng với vũ
trụ cùng rung theo một tiết nhịp, lúc ấy mới trúng là “thiên
địa chi tâm” và đó là chỗ hướng tới của kho tâm tư mà ta có
thể gọi là “phép dịch hóa Thân tâm trụ” (dialectique cosme-
psycho-somatique) được trình bày trong quyển này qua một hai lối
hành xử, dăm ba câu nói, một hai bài thơ”.(8)
Đích điểm của Tâm Tư là “triêu văn đạo”. Triêu văn đạo
là nghe Đạo trong ánh bình minh nguyên sơ, nghe được
TIỂU SỬ và TÁC PHẨM của TRIẾT GIA KIM ĐỊNH 9
diệu âm từ miền sâu thẳm, tĩnh lặng. Khi đã ngộ đạo: tâm
hồn con người an nhiên tự tại và rộng mở đến vô biên,
tình yêu tràn đầy và tuôn trào lai láng. Vũ trụ không còn là
cái gì xa cách, riêng rẽ mà đã trở thành một với mình.
Để chuẩn bị cho sự ra đời Việt Lý Tố Nguyên, ông cho xuất
bản Căn bản triết lý trong văn hóa Việt Nam. Tác phẩm này
là bước đầu cho hành trình trở về nguồn của ông. Ở Căn bản
triết lý trong văn hóa Việt Nam, ông đã tìm ra được bóng dáng
hồn nước qua lễ gia tiên, qua tiếng vọng của Văn Tổ và
Văn Miếu và cũng nêu lên được sự khác biệt cơ bản giữa văn
hóa Việt Nam và văn hóa Trung Hoa. Phương pháp huyền
sử cũng bắt đầu manh nha tại đây. Đoạn viết sau sẽ cho chúng
ta thấy ông đã bắt đầu đề cập đến nguồn gốc văn hóa và dân
tộc Việt Nam: “Nếu ta đưa mắt tinh thần nhìn về quãng thời
gian cách đây chừng 4000 năm mà nhìn đoàn người Lạc Việt di
cư từ Hồ Động Đình, hay bờ sông Dương Tử để tiến xuống
phía nam, thì chúng ta chắc thấy trong quang gánh của những
tổ tiên xa xăm đã có quyển Kinh Dịch ít ra ở trạng thái phôi
thai. Lúc đó chữ Nho cũng còn đang trong giai đoạn hình
thành: có lẽ mới bỏ chặng thắt nút (kết thằng) để đi sang hình
chữ con quăng mà ta thấy dùng ở đời nhà Chu gọi là chữ khoa
đẩu, sau đến đời Tấn Hán mới thay thế bằng chữ Lệ như ta
thấy hiện nay”(9)
Việt Lý Tố Nguyên ra đời năm 1970, đánh dấu một giai đoạn
sáng tạo vô cùng rực rỡ của ông. Tác phẩm này là tiếng sấm báo
động cho một cơn mưa lạ, vì thế nó đã thu hút được sự chú ý
của nhiều trí thức và sinh viên thời bấy giờ. Bằng ánh sáng của
cổ sử, của khảo cổ học và trực giác siêu việt của một bậc hiền
triết, ông đưa ra những kiến giải rất thuyết phục về nguồn gốc
của dân tộc Việt Nam. Bên cạnh việc tìm về nguồn gốc của dân
tộc, ông công bố rằng: dân tộc Việt Nam đã có một nền minh
triết sâu sắc và một nền văn hóa rực rỡ, khác hẳn với triết lí và
văn hóa của Trung Hoa. Ngoài ra, Việt Lý Tố Nguyên còn là
cuốn sách thuộc loại “triết lí lịch sử” xuất hiện đầu tiên tại
Việt Nam.
TIỂU SỬ và TÁC PHẨM của TRIẾT GIA KIM ĐỊNH 10
Trước khi Việt Lý Tố Nguyên được xuất bản,trong lời bạt
của Những dị biệt của hai nền triết lý Đông Tây, ông đã giới
thiệu về nó như sau:
“Đây là quyển sách then chốt cho tất cả các quyển khác
trong bộ đã ra và sẽ ra, nó quan trọng ngang với Chữ Thời về
đàng sâu nhưng đi lối huyền sử nên dễ đọc hơn Chữ Thời rất
nhiều, vì nó vận dụng rất nhiều huyền thoại của Viễn Đông để
soi dọi vào nguồn gốc nước ta về các phương diện: văn minh,
văn hóa, dân tộc, thể chế, sử ký, địa dư, phong tục, tập quán,
lễ giáo v.v… Nó sẽ trả lời cho những vấn đề chưa ai tìm được ra
câu đáp như: dân tộc tính là gì? Đâu là những đặc tính của
dân tộc Việt Nam? Nền văn hóa Việt Nam có những gì
phát huy…? Những vấn đề này thiếu phần đóng góp của triết
lý sẽ không gặp được câu trả lời thỏa đáng, chẳng hạn: Tại sao
ca dao lại có địa vị quan trọng trong văn chương Việt?
Hoặc Việt tộc đã đóng góp những gì cho nền văn hóa
Viễn Đông? Ý nghĩa các danh hiệu nước ta (Xích Quỉ, Văn
Lang, Giao Chỉ…) ý nghĩa tết mồng 5 tháng 5…? Việt Lý Tố
Nguyên sẽ dẫn độc giả vào những miền xa lạ mà cho tới nay
chưa có học giả nào đặt chân đến, tuy vậy rất thiết cận đến
tiền đồ tổ quốc chúng ta”. (10)
Đến khi xuất bản Việt Lý Tố Nguyên, ông còn giới thiệu
thêm về tác phẩm này một lần nữa:
“Đây là công trình của một cuộc khảo cổ khác thường,
không dừng lại ở khảo cổ, ở bác học nhưng phóng tầm mắt ra
bên ngoài, bên trên, bên dưới khảo cổ, lịch sử, bác học để cố
tìm ra những nét căn bản chạy ngầm xuyên qua lịch sử nước
nhà, những tính chất có ngay từ đầu và sẽ còn lại mãi mãi với
dân tộc, nên gọi là Tốtheo nghĩa “bản lại cố hữu”.
Độc giả sẽ nhận ra lối khảo cổ như trên chiếu rất nhiều tia
sáng kỳ lạ vào con đường chúng ta phải đi để đến đợt văn minh
chân thực. Như thế sự quay về để học lại nguồn gốc nước nhà
với mọi khía cạnh văn minh, văn hóa, định chế, sử địa, văn
chương… không còn là một việc khảo cổ suông trong thư viện
nữa nhưng chính là giúp vào việc kiến quốc, tìm ra và củng cố
tinh thần dân tộc, đặt nền tảng vững chắc nhất cho nền quốc
học mai ngày vậy”.(11)
TIỂU SỬ và TÁC PHẨM của TRIẾT GIA KIM ĐỊNH 11
Thiết tưởng, những lời giới thiệu của ông về đứa con tinh
thần yêu quý nhất của mình ở trên đã nói rất rõ về nội dung
của của nó. Phải chăng đây là tác phẩm tâm đắc nhất của
ông?
Cũng vào năm 1970, ông cho ra đời tác phẩm Dịch Kinh Linh
Thể. Theo nhận định chủ quan của người viết, cuốn sách này
tuy khá mỏng nhưng ẩn tàng một sức mạnh dị thường, bởi nó đã
kiến giải được phần thâm sâu và đặc sắc nhất của Kinh Dịch.
Dịch Kinh Linh Thể còn là một tác phẩm về Kinh Dịch lạ lùng
nhất từ trước đến nay của người Việt. Ông không lan man chú
giải hết 64 quẻ Dịch và những phần khác trong bộ kinh như
những học giả khác mà chỉ dùng vài câu trong phần Hệ Từ và
duy nhất một quẻ Kiền để dẫn dắt người đọc đi thẳng vào phần
cốt tủy của Kinh Dịch.
Khi nói về Kinh Dịch, ông đưa ra một đề quyết động trời, có
thể làm sửng sốt người đọc và gây tranh cãi ở tầm cỡ quốc tế.
Với ngôn từ của một Ki Tô hữu, ông đã dám khẳng định rằng:
“Người Việt có hai tội tổ tông truyền:
- Một: quyển Kinh Dịch là của người Việt.
- Hai: một số người đọc thì lại đọc theo lối Tàu, lối
Tây mà không biết đọc theo lối Việt Nho!
Quyển này nhằm rửa sạch hai tội đó”. (12)
Trước khi đọc cuốn Dịch Kinh Linh Thể, tôi đã đọc các
sách dịch và chú giải về Kinh Dịch của: Phan Bội Châu,
Ngô Tất Tố, Nguyễn Duy Tinh. Khi đọc các vị này, tôi nhận thấy
Kinh Dịch cũng bình thường như bao sách khác, và nếu như
vậy thì Kinh Dịch nào có gì đặc sắc mà người ta lại ca ngợi.
Nhưng khi đọc ông, tôi mới ngộ ra được cái tinh hoa của Kinh
Dịch. Ông đề nghị đọc Dịch một cách rất sáng tạo, đọc theo lối
Kỷ Dịch  đọc Dịch ở nơi thâm sâu của lòng mình. Khi đọc
Kinh Dịch, thực hành và tu luyện theo cách này, con người sẽ
đạt đến cảnh giới nội thánh ngoại vương của thánh nhân và
có thể an bang tế thế.
Để tiếp nối cuốn “Nhân Bản”, ông cho xuất bản “Lạc Thư
Minh Triết” vào năm 1971. Theo tôi, đây là hai tác phẩm rất
then chốt, có thể nói là rất quan trọng, bởi vì nó bàn về tính
TIỂU SỬ và TÁC PHẨM của TRIẾT GIA KIM ĐỊNH 12
mệnh và cứu cánh của con người - đích điểm mà Đời
người chúng ta cần phải đạt đến.
Trong Lạc Thư Minh Triết, ông khuyến khích một đời sống
tự lập, tự cường về mặt tinh thần, ca ngợi và xưng tụng sự cô
đơn. Trong sự xa vắng tiếng ồn ào của thế tục và rộn rã của
trần gian, con người cô đơn mới dễ dàng tìm lại cội nguồn
chân thực của mình, cội nguồn đó chính là Thần - Thần
tính Nội tại. Cô đơn còn là cơ hội để sáng tạo và xây dựng
nên sức mạnh tinh thần, là ngọn đuốc soi đường cho
nhân loại. Ông cho rằng: trong lịch sử loài người chưa có công
trình vĩ đại nào mà không được thai nghén trong cô đơn,
cũng như không có đại nhân chân thực nếu không được
nuôi dưỡng trong cô đơn.
Dù không được ông nói rõ ra nhưng tôi nghĩ rằng: tác phẩm
này đã manh nha một nền Thần học Việt. Lạc Thư Minh Triết
có đôi chỗ bàn về những vấn đề siêu hình của Đông Phương
mà các cuốn trên chưa từng đề cập. Theo ông, cơn khủng
hoảng của giáo hội Thiên Chúa giáo hiện nay là do
nền Thần học Tây Phương gây ra. Ông cho rằng:
“Muốn thoát khỏi khủng hoảng thì cần trở về nguồn
để tìm ra ý nghĩa chân thực của Thánh Kinh khi mới vừa
xuất phát, nghĩa là khi còn trong bầu không khí Đông
phương”(13).
Thay vì chọn Thần học Thiên Chúa giáo để giải quyết
vấn đề khủng hoảng tư tưởng và sự biến động của thời
đại, ông lại chọn nền Minh Triết của Lạc Việt (Lạc Thư Minh
Triết), nơi mà ông cho là sản sinh ra một nền triết lí nhân sinh
tốt đẹp nhất và có thể làm lối thoát cho sự bế tắc tư tưởng
của con người Việt Nam hiện đại. Từ một cái nhìn thấu
triệt, ông tự mình thoát khỏi tư duy truyền thống của triết
học kinh viện và Thần học Thiên Chúa giáo. Lạc Thư
Minh Triết chắc hẳn đã làm cho bề trên của ông không hài
lòng, bởi vì tư duy của ông là tư duy vượt thoát, một tư
duy không nô lệ cho bất kì thế lực thần quyền nào. Tuy là
linh mục nhưng sách của ông không được phần đông Ki Tô
TIỂU SỬ và TÁC PHẨM của TRIẾT GIA KIM ĐỊNH 13
hữu đón nhận một cách nồng nhiệt. Có thể nói rằng, Lạc Thư
Minh Triết là bức thông điệp của một linh mục Thiên Chúa
giáo đã giác ngộ được giá trị thâm sâu của văn hóa
Đông Phương, gửi đến cộng đồng Ki Tô hữu của mình.
Lạc Thư Minh Triết đề nghị một lối sống thật minh triết
và hợp với đạo lí của người Việt. Ông bảo rằng, nên tìm đạo
ngay trong đời sống thường nhật, tìm cái phi thường
trong những cái thường thường. Nếu tìm cái phi thường
trong những cái phi thường thì sẽ không bao giờ tìm
được, mà trái lại còn khiến đời sống trở nên vô đạo. Cách
nói của ông giống như một thiền sư của nhà Phật: Tìm sự
giác ngộ trong việc gánh nước, bửa củi, nấu cơm…
Năm 1973, Loa Thành Đồ Thuyết ra đời. Khởi hứng từ kiến
trúc của thành Cổ Loa, ông đề nghị Loa pháp (phương pháp trôn
ốc), tức là phương pháp tu dưỡng đạo làm người, và càng ngày
càng tiến lên cao theo hình trôn ốc để trở thành hiền nhân,
thánh nhân. Theo ông, hiền nhân quân tử của Á Đông là
mẫu người rất quân bình mà nền triết lí An Vi cần phải hết
sức chú ý. Mẫu người này có được nhiều ý chí, lắm tình
cảm và một chuyên môn vững vàng. Họ là người có nhiều lý
tưởng nhưng rất thực tế, sẵn sàng dấn thân để xây dựng
tiền đồ của dân tộc và kết quả luôn thật hữu hiệu.
Trong Loa Thành Đồ Thuyết, một mặt ông lên án cách
sống của những người có chuyên môn cao nhưng sống vô
cảm, vô hồn, vô hướng, chỉ biết làm việc hùng hục như trâu
mộng để kiếm tiền. Với hạng người này, ngoài đời sống
sinh lí ra, không còn biết gì đến những mối tình cao cả của
con người, của tâm linh tiến hóa. Mặt khác, lên án một số
người đang chạy theo đủ loại thiên tài điên loạn trên thế
giới. Ông bảo: “Âu-Mỹ giàu vô kể, nên cũng có vô vàn khả
năng tiến triển trước mắt, chứ như Việt Nam, túng xác túng xơ
chỉ còn chút vốn liếng đạo làm người mà cũng vất bỏ thì còn
gì nữa mà xây Loa thuyết”(14). Thiển nghĩ, những ai có trách
nhiệm xây dựng chương trình giáo dục cho dân tộc cần phải
lưu tâm những điểm trên.
TIỂU SỬ và TÁC PHẨM của TRIẾT GIA KIM ĐỊNH 14
Từ nền tảng Triết lí An Vi, ông xây dựng chủ thuyết Việt
Nho. Chủ thuyết này có hai phần: Đạo Nho siêu việt và Đạo
Nho của người Lạc Việt.
- Đạo Nho siêu việt: Ông đã chú giải kinh điển Nho giáo theo
cách hoàn toàn sáng tạo và mới lạ, chưa từng thấy ở các nhà
Nho trước đây và những người thuộc trường phái Tân Nho
giáo ở Đài Loan. Ông đã dùng phương pháp: so sánh, đối chiếu
Nho giáo Nguyên thủy (đạo Nho khi chưa bị Hán Nho bóp méo, xuyên tạc)
với Phân Tâm học miền sâu, triết học hiện sinh của ba tác
giả đã kể trên, sau đó là cảm nghiệm và suy tưởng trong một
thời gian lâu dài để sáng tạo ra triết thuyết của mình. Ông
cho người đọc nhận thấy những giá trị Nhân bản Tâm linh
của kinh điển Nho giáo cũng rất thích hợp với trào lưu triết
học hiện đại. Những tác phẩm dành cho chủ đề này là: Những
Dị Biệt Của Hai Nền Triết lý Đông Tây, Cửa Khổng, Nhân
Bản, Chữ Thời, Tâm Tư…
- Đạo Nho của người Lạc Việt và Nguồn gốc văn hóa Việt
Nam: Ông dùng ánh sáng của phương pháp huyền sử để soi
rọi đêm trường âm u của văn hóa Việt Nam. Huyền sử là một
phương pháp khai quật văn hóa và truy nguyên nguồn
gốc dân tộc từ những biểu tượng, những huyền thoại và
truyền thuyết của dân tộc, mà ông là người đặt nền móng
và cũng là người dùng nó để xây dựng giả thuyết của mình.
Ông tuyên bố, Nho giáo là do người Việt cổ khai sinh nhưng
đã được người Trung Hoa hoàn tất và cũng bị họ làm cho
sa đọa, sứ mạng của Triết Đông là phải trả lại cho Nho giáo
sự chính truyền của chủ cũ. Ông đã sử dụng: khảo cổ học,
ngôn ngữ học, phân tâm học và cơ cấu luận để lí giải nguồn
gốc văn hóa và nguồn gốc dân tộc Việt. Những ý tưởng
táo bạo này sẽ được đón nhận nồng nhiệt và gây tranh cãi
trong tương lai mai hậu. Những tác phẩm dành cho chủ đề
này là:
Căn Bản Triết Lý Trong Văn Hóa Việt Nam,
Việt Lý Tố Nguyên,
Dịch Kinh Linh Thể,
Lạc Thư Minh Triết,
TIỂU SỬ và TÁC PHẨM của TRIẾT GIA KIM ĐỊNH 15
Triết Lý Cái Đình,
Loa Thành Đồ Thuyết,
Vấn Đề Nguồn Gốc Văn Hóa Việt Nam…
Tuy rằng bắt đầu từ Việt Lý Tố Nguyên trở về sau, ông hầu
như hoàn toàn quan tâm đến việc trở về nguồn, nhưng không
phải vì thế mà phần Đạo Nho siêu việt bị ông lơ lãng. Hai chủ
đề này luôn đan xen và hòa quyện lẫn nhau trong các tác phẩm
trên, vì vậy phần lớn độc giả thường sa đà vào những chi tiết về
nguồn gốc văn hóa và dân tộc mà không nhận ra được Đại
Đạo là xương sống để tạo nên nền Triết lí An Vi.
Không những là một triết gia, ông còn là một người quan
tâm đến vấn đề giáo dục đại chúng. Ông cũng là một nhà
giáo dục rất sâu sắc, một người có tầm nhìn rất xa về vận
mệnh dân tộc. Bởi vậy ông luôn đề cao việc lấy sự giáo dục
con người làm căn bản. Các tác phẩm bàn về giáo dục của
ông như: Triết lý Giáo Dục, Định Hướng Văn Học, Hiến Chương
Giáo Dục, Vấn Đề Quốc Học đều nêu lên sự vô cùng cần thiết
của một nền giáo dục mang tính nhân bản tâm linh, tính dân tộc.
Ông đã bỏ nhiều công sức để nghiên cứu, đối chiếu và so sánh
về những nét cơ bản của những nền giáo dục lớn của
nhân loại như Âu Tây, Ấn Độ và Viễn Đông, để rồi đưa ra một
chiến lược giáo dục thích hợp và lâu dài cho dân tộc. Ông
từng phát biểu: “Một dân tộc cũng như một cá nhân, chỉ có thể
chống lại đoàn lũ hay những tư trào tràn vào gieo rắc phân tán
dân tộc mình là khi nào tâm thức dân tộc ấy được tổ chức chu
đáo trên một cơ sở tinh thần vững mạnh”.(15)
Ý nguyện ban đầu của ông là thiết lập một nền Thần học
Việt, nhưng về sau ông đã chuyển hướng và dành toàn bộ tâm
lực để sáng tạo ra nền Triết lí An Vi. Có lẽ ông cho rằng việc
xây đắp một nền triết lí hoàn toàn Việt Nam là điều cấp
bách hơn; và việc xây dựng một nền Thần học Việt sẽ do thế hệ
tín hữu Công giáo sau ông làm thay, còn ông chỉ là người đưa
ra ý tưởg cho một công việc vô vàn khó khăn và thử thách này.
Triết lí An Vi và chủ thuyết Việt Nho mà ông đề xướng nhấn
mạnh vào những chủ đề chính: tâm linh, nhân chủ, tự do,
bình sản, thái hòa. Đây không phải là thứ triết học hàn lâm,
trường ốc, khô khan và nhạt nhẽo chuyên dành cho những nhà
TIỂU SỬ và TÁC PHẨM của TRIẾT GIA KIM ĐỊNH 16
chuyên môn, mà nó là một nền triết lý sống động, mang âm
hưởng vào xã hội và có được sức mạnh chuyển hóa lòng
người. Vì khuôn khổ có hạn của một bài viết, ở trên tôi chỉ giới
thiệu những tác phẩm then chốt đã xuất bản trước năm 1975.
Theo cảm nhận của riêng tôi, những tác phẩm này có một sức
hút lạ thường, một tầm ảnh hưởng diệu kì; nó có thể gây nên
sự chấn động trong tâm thức và làm thay đổi vận mệnh của bất
kì độc giả nào đắm chìm vào trong đó.
Trước năm 1975, tiếng tăm của ông vang dội trong giới học
thuật, ông được đánh giá như một ngôi sao sáng trên bầu trời
triết học Việt Nam. Lần lượt, ông đã được các đại học miền Nam
Việt Nam mời dạy ở như: Đại học Vạn Hạnh (1967-1975), Đại học
Đà Lạt, Đại học Minh Đức, Đại học An Giang, Đại học Cần Thơ,
Đại học Thành Nhân (1971-1975). Ông cũng đã được Đại học
Văn Khoa - Huế mời dạy, nhưng những biến động lớn của đất
nước đã không cho phép ông thực hiện ý định truyền bá nền
triết lí của mình ở trong nước nữa!
Năm 1975, ông di cư sang Hoa Kì. Trong gần 10 năm đầu,
ông ở nhờ nhà một người bà con. Vì nhu cầu của những người
học trò cũ yêu mến, ông đã cố gắng thu thập và cho in lại một số
tác phẩm đã xuất bản trước năm 1975. Cũng trong thời gian này,
ông liên lạc lại với một số học trò cũ, và bắt tay vào việc xây
dựng các nhóm An Vi.
Sau khi được tiếp xúc với nền văn minh tư bản, nhìn sức
sống trẻ trung, mạnh mẽ của Hoa Kì, ông nhận thấy sức mạnh
của thế giới tư bản thực là phi thường. Điều này đã làm ông
khâm phục. Nhưng ông cũng nhìn nhận rằng: xã hội tư bản tuy
giúp cho con người được nhiều tự do, nhiều động cơ vươn lên
để tìm kiếm những tiện nghi về vật chất nhưng vẫn chưa giải
quyết được vấn đề gốc rễ của con người. Nền văn minh
Âu Mỹ có sức quyến rũ đối với mọi người, nó đã đạt được mục
tiêu là làm cho họ vui tươi, thoải mái, nhưng thực ra, đó chỉ
là bộ mặt, là cái vỏ bề ngoài, chứ chưa thấm đẫm vào tâm
hồn. Theo ông, xã hội Âu Mỹ chưa có một chủ đạo làm căn
bản cho một tương lai lâu dài.
Nhờ có nhiều thời giờ hơn để đọc sách, để thâm cứu và
suy tưởng thêm, cái nhìn của ông đã mở ra một viễn cảnh
TIỂU SỬ và TÁC PHẨM của TRIẾT GIA KIM ĐỊNH 17
mới. Trong tiến trình xây đắp triết thuyết Việt Nho, từ giả thuyết
ông nâng thành chủ thuyết, từ Việt Nho nâng lên hàng Thái Nho,
triết thuyết của ông trở nên bao trùm và sâu sắc hơn. Sau một
thời gian dài thai nghén, ông đã liên tiếp cho ra đời bộ Ngũ Kinh
Khải Triết: Hùng Việt Sử Ca, Kinh Hùng Khải Triết, Pho Tượng
Đẹp Nhất Của Việt Tộc, Sứ Điệp Trống Đồng, Văn Lang Vũ Bộ.
Ông mong muốn bộ Ngũ Kinh Khải Triết sẽ là bộ sách dân tộc
đối với người Việt đang phiêu bạt ở xứ người, và cũng có thể là
cho cả dân tộc Việt Nam trong tương lai. Theo ông, bộ kinh này
là di sản thiêng liêng của quê nước, nó sẽ nhắc nhở cho
người Việt đang xa xứ không bao giờ được quên nguồn
gốc và dân tộc mình. Ông nói rằng: “Nếu mình không gắn bó
với nó thì ngày mai sẽ trở nên một giống vô loại. Khuôn mặt và
màu da không cho phép mình hòa đồng với người Tây Âu” (17).
Vì quá yêu nước, lời nói của ông mạnh mẽ nhưng hơi cực
đoan. Có thể đó là một cách gây sự chú ý cho cộng đồng
người Việt chăng?
Tháng 08/1984, ông được mời sang Đài Loan tham dự Hội
nghị Quốc Tế về Triết Trung Hoa tại Đại học Đông Hải. Trong hội
nghị này, ông đã phát biểu một tham luận có nhan đề “Vai trò
Nho giáo Có thể Đảm nhiệm trong Thế giới Ngày nay”
(The Role and the Conditions of Ju in Our Present Age). Cuối năm
1984, Văn Phòng Mục Vụ Di Dân của Hội Đồng Giám Mục Hoa
Kì tài trợ một năm để ông nghiên cứu về các cộng đoàn Công
giáo Việt Nam tại Hoa Kì. Ông đến cư ngụ mấy tháng tại trụ sở
của văn Phòng Nghiên Cứu Xã Hội ở Garden Grove. Nơi đây
ông đã gặp rất nhiều thân hữu, các nhóm học trò cũ, và thế là
chương trình An Vi được phát động. Chương trình này có mục
đích phổ biến triết thuyết Việt Nho, nơi gặp gỡ những người có
cùng chí hướng và sống theo tinh thần của An Vi. Đây cũng là
lúc ông làm quen với máy vi tính và bắt đầu viết lại những suy
tưởng của mình. Từ 1984 đến năm 1989, ông đã viết 4 tác phẩm:
Thái Bình Minh Triết tập I, tập II, tập III và Cẩm Nang Triết Việt.
Bản thảo điện tử của các tác phẩm này đã được trao cho linh
mục Trần Công Nghị cất giữ.
Từ năm 1987 đến năm 1992, ông nghỉ hưu tại trụ sở hưu
dưỡng của linh mục Vũ Đình Trác ở Garden Grove. Trong thời
gian này, ông đã tập hợp được một số người tha thiết với triết
TIỂU SỬ và TÁC PHẨM của TRIẾT GIA KIM ĐỊNH 18
thuyết An Vi và kiên trì trong sứ mạng rao truyền sứ điệp của
ông. Sau đó, phong trào An Vi đổi tên thành phong trào Việt Linh
và hoạt động rộng khắp tại Hoa Kì. Là người thủ lĩnh của phong
trào, sự hành hoạt của ông gần giống như một nhà chính trị nên
ông bị hiểu lầm là con người của chính trị. Điều này đã gây biết bao
oan khiên và phiền phức cho ông.
Tháng 11/1987, ông được mời tham dự Hội nghị Quốc tế
về Khổng học với Thế giới Ngày nay (International
Symposium on Confucianism and the Modern World) tại Đài Bắc, Đài
Loan. Hội nghị này quy tụ 400 học giả khắp thế giới. Lần này,
ông đã trình bày trước hội nghị một chiều hướng bao quát và
rộng rãi hơn trong tham luận “Đạo Trường chung cho Đông
Nam Á châu” (A Tao-Field for East Asia). Sau đó, ông còn tham dự Hội
nghị Triết học (The World Congress of Philosophy) tại Brighton,
Anh Quốc - năm 1988. Hội nghị Nghiên cứu Triết học Á
Châu và Bắc Phi lần thứ XXXIII (The XXXIII International
Conference on Asian and North African Studies) tại Toronto, Canada
- năm 1990. Trong những lần đi dự hội nghị ở xa, ông đều nói với
các môn đệ rằng: “Thầy phải đi để nói cho thế giới biết con
người, tư duy và đạo sống cao đẹp của dân tộc Việt
Nam”.
Năm 1992 đến năm 1997, vì tai biến mạch máu não, vì tuổi già
sức yếu, ông đã về hưu dưỡng tại Dòng Đồng Công, Carthage
Missouri, Hoa Ký. Ngày 23/03/1997, ông về cõi vĩnh hằng, để lại
nhiều thương tiếc trong lòng môn đệ, cũng như giới học thuật trong
và ngoài nước.
Triết gia Kim Định đã đi trọn một cuộc hành trình đơn độc
để khai phá và sáng tạo nên một triết thuyết vô tiền khoáng hậu
và dâng hiến báu vật này cho dân tộc Việt Nam. Theo thiển ý,
phần đóng góp quan trọng nhất của triết gia Kim Định là Đạo
Nho siêu việt. Phần Đạo Nho của người Lạc Việt và
Nguồn gốc dân tộc Việt Nam là một đóng góp nhỏ hơn,
mang tính gợi mở, cũng như là một giả thuyết để làm việc.
Triết thuyết của Kim Định có rất nhiều ưu điểm nhưng cũng
có không ít nhược điểm. Do phải làm việc một mình, phần đông
là suy tưởng nên ông dễ sa đà vào những giây phút xuất thần mà
quên đi thực tại. Cũng vì nhiều khi ông xem nhẹ, không chịu minh
chứng hoặc xem xét những điều mình nói ra bằng phương pháp
TIỂU SỬ và TÁC PHẨM của TRIẾT GIA KIM ĐỊNH 19
lịch sử, khảo cổ học, điền dã… mà chỉ dựa vào những suy luận
chủ quan, do vậy nhiều nhà nghiên cứu đã cho ông là một
người cảm tính, mơ mộng và thiếu thực tế. Nhưng thử hỏi, nếu
một người thiếu đi sự mơ mộng thì làm sao có thể trở thành
triết gia? Triết gia là một người luôn luôn bay bổng trong vòm trời
suy tưởng và mộng mơ. Vậy mơ mộng tuy là nhược điểm nhưng
cũng chính là ưu điểm của ông, và nhờ vậy ông mới có được sự
linh cảm và cái nhìn thấu thị hiếm có của một thiên tài. Triết gia
chân chính bao giờ cũng đi trước thời đại của mình một
thời gian cả mấy mươi năm.
Toàn bộ tác phẩm của Kim Định là một khu rừng bát ngát,
mênh mông, làm cho người đọc dễ bị lạc lối. Độc giả của ông
thường bị nạn cây che mất rừng, chỉ nhận thấy điều tiểu tiết
mà quên đi sự vĩ đại. Nhiều học giả cũng mắc phải cố tật này khi
đọc sách của ông, họ không thấy được sự đóng góp to lớn của
ông cho triết lí và văn hóa Việt Nam, mà chỉ biết phê bình những
tiểu tiết của ông một cách gay gắt. Kim Định là triết gia chứ
không phải là một người làm khoa học về xã hội và nhân văn,
hay như một học giả chỉ biết dựa vào sách vở. Vì thế, hậu sinh
cần phải rút tinh hoa từ triết thuyết của ông và bỏ đi những gì là
sai sót và không cần thiết. Xem ra nền triết lí An Vi của ông
vẫn còn có thể đáp ứng được phần nào cho nhu cầu của thời
đại, có thể nâng cao tâm thức dân tộc, giúp đào luyện mẫu
người mà quốc gia đang cần.
Đã có nhà sử học ác ý, đem ông ra chê bai, mỉa mai và làm
trò diễu cợt; với cặp mắt cú vọ của một nhà duy sử, họ chỉ lăm
lăm nhìn vào những điểm sơ suất trong công trình của ông để
làm công việc bắt bẻ. Thật là cám cảnh cho ông! Thử hỏi các vị ấy
có thể gây nên nguồn cảm hứng, chuyển hóa được tâm thức của
độc giả, để sau khi đọc sách của mình, độc giả sẽ có một đời
sống bình an, thánh thiện và tốt đẹp hơn? Lại có học giả được
thừa hưởng cả một gia sản đồ sộ về nguồn gốc văn hóa và dân
tộc Việt Nam và những ý tưởng mới mẻ của ông nhưng cũng
kiếm cách chê bai ông cho bằng được, họ đã từng phát
biểu:“còn mang nhiều chất cảm tính - cực đoan hoặc là chưa
tạo nên một hệ thống hoàn chỉnh”. Thiên hạ đã mang ơn ông
nhưng lại “trả ơn” ông bằng cách như vậy. Thật là bất công!
TIỂU SỬ và TÁC PHẨM của TRIẾT GIA KIM ĐỊNH 20
Nhiều người Việt Nam chưa phân biệt được giữa triết gia và
triết học gia, giữa hiền triết và giáo sư triết học, giữa nhà tư
tưởng và học giả. Vì hiểu rõ tình trạng này, ông đã từng nói
trong Vũ Trụ Nhân Linh và Văn Lang Vũ Bộ rằng, đó là cái cảnh
“cá đối bằng đầu”. Dưới đây là một trong những lời than phiền
của ông: “Và nếu có ngày gặp may, nảy nòi ra một triết gia tả
nhậm thì cũng bị lấn át do bao tiếng om sòm của cảnh cá đối
bằng đầu không sao trỗi lên được”(18). (Triết gia tả nhậm là triết
gia đứng về phía kẻ yếu, đứng về phía nhân dân - chú thích của người
viết bài này).
Ông Châu Hải Kỳ đã từng đem triết gia Kim Định xếp chung
một chiếu với học giả như: Nguyễn Hiến Lê và học giả Giản Chi
(Nguyễn Hiến Lê từng viết chung với Giản Chi một số đầu sách: Đại
Cương Triết Học Trung Quốc, Tuân Tử, Hàn Phi Tử). Không những
vậy, ông còn đem hai tác phẩm cùng viết về đề tài Khổng giáo của
Kim Định và của Nguyễn Hiến Lê ra để so sánh:
“… Dĩ nhiên tôi không phủ nhận điều này là các tác giả Kim
Định cũng như các ông Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê đều phát huy
cổ học Á Đông, triết lý Nho giáo, và nội dung của giáo sư Kim
Định có nhiều chủ trương rất mới mẻ, chẳng hạn trong Việt Lý
Tố Nguyên… Những ý kiến tân kỳ của ông có cái ma lực lôi
cuốn độc giả nhất là giới sinh viên học sinh rất mạnh. Song
bình tĩnh mà xét về Nho giáo ông phát huy có phần quá đà: ông
xưng tụng hơi nhiều, tâng bốc có lẽ thái quá. Có thể đọc nói
cuốn nào, về vấn đề gì, người đọc cũng thấy ngay rằng tác giả
phát biểu say mê - nói thẳng ra là chủ quan về một phía. Chỉ sự
kiện về mức quá đà đó cũng đủ minh chứng rằng tác phẩm của
ông mất tính Đông phương rồi.
Trái với tác giả Kim Định, ông Nguyễn Hiến Lê có thái độ
quân bình hơn. Ông không giống giọng điệu của một nhà nho
ba hoa, một người “militant”. Huống chi tư tưởng và nếp sống
dân tộc Việt chịu ảnh hưởng sâu đậm của nền triết học Trung
Hoa; lối viết của ông trở thành một nghệ thuật sống hơn là một
học thuyết cao xa như giáo sư Kim Định, cho nên người đọc
lĩnh hội không mấy khó khăn. Nếu đức Vạn thế sư biểu sống lại
và đọc tác phẩm của hai tác giả viết về mình, tôi chắc rằng
Ngài sẽ thích tác giả Nhà giáo họ Khổng hơn” (19)
Mặc dù người viết bài này rất khâm phục nhân cách cũng
như sở học của học giả Nguyễn Hiến Lê, nhưng không vì như
TIỂU SỬ và TÁC PHẨM của TRIẾT GIA KIM ĐỊNH 21
vậy mà chấp nhận cách nhận xét trên. Học giả Nguyễn Hiến Lê
là một nhà nghiên cứu về sử học, cổ học và triết học Trung
Hoa chứ không phải là một nhà tư tưởng; còn giáo sư Kim Định
là một triết gia, một nhà tư tưởng thực thụ. Ông Châu Hải Kỳ
chưa phân biệt được sự khác nhau giữa Nho học và Triết lí Nho
giáo, giữa Nho gia và Hiền triết. Học giả Nguyễn Hiến Lê viết về
Nho học, giáo sư Kim Định viết về Nho triết thì làm sao mà đem
so sánh với nhau; nếu đem hai vị đó ra so sánh với nhau thì có
khác gì việc đem xe ô tô và máy bay phản lực ra để tranh cao
thấp. Ngoài ra, ông Châu Hải Kỳ còn nói bóng gió rằng: triết gia
Kim Định là một nhà nho ba hoa. Như thế thì thật là quá đáng!
Nhà thơ Hoài Khanh, giám đốc NXB Ca Dao đã từng trân
trọng giới thiệu những tác phẩm của giáo sư Kim Định như sau:
“Đây là tác phẩm của một Tâm Hồn Thánh Trí. Các bạn có
thể không đọc sách của CA DAO nhưng các bạn không thể nào
không đọc sách của Bậc Hiền Triết KIM ĐỊNH”.(20)
Lời ca tụng của nhà thơ Hoài Khanh dành cho giáo sư Kim
Định thật là xác đáng. Trước năm 1975, những nhà xuất bản tên
tuổi ở miền Nam như: Lá Bối, An Tiêm, Ca Dao, Kinh Thi,
Nguồn Sáng… đều xuất bản sách vì mục đích văn hóa chứ
không phải vì mục đích lợi nhuận; vì thế đây không phải là một
cách quảng cáo để bán sách.
Khi triết gia Kim Định còn sinh thời, đã có nguyên cả một
cuốn sách xuyên tạc triết thuyết của ông, người ta dùng những
lời lẽ nặng nề để chà đạp, mắng chửi và cho ông là một tay hoạt
đầu chính trị. Tôi tin chắc rằng, những người này chưa đọc trọn
vẹn một tác phẩm, chứ đừng nói chi đến cả một rừng sách mênh
mông của ông. Nếu họ chịu khó học hỏi và hiểu sâu sắc nền triết lí
An Vi của ông thì họ không thể làm một công việc liều lĩnh và cẩu
thả đến như vậy. Tôi không thể nào hiểu nổi tại sao họ thực
hiện ý đồ thâm độc này? Phải chăng do ông là một linh mục
Công giáo? Dân tộc Việt Nam đã kinh qua rất nhiều khổ
đau vì chia rẽ, sao có người còn muốn gieo rắc hận thù,
nghi ngờ và đố kị?
Và nếu ai còn nghĩ ông là tay sai của ngoại bang và mục
đích làm văn hóa của ông là phá hoại đất nước thì hãy đọc
những dòng sau đây của ông:
TIỂU SỬ và TÁC PHẨM của TRIẾT GIA KIM ĐỊNH 22
“Bây giờ chúng ta ghé thăm tôn giáo; ngoài sự mất tín
nhiệm với con người, chúng ta còn nhận thấy một tình trạng
trầm trọng hơn nhiều đó là sự mất lòng tự tín. Trong hội
nghị các tôn giáo tại Genève năm rồi (Congrès des églises à
Genève 9/1970) có lời tuyên bố là các tôn giáo đã hết uy tín và thẩm
quyền dạy luân lý. Nói thế là vì mọi nền luân lý trước đây đều
mang tính cách thế tục, không còn thích hợp nữa cho con
người đang bước vào giai đoạn toàn-cầu với tư tưởng liên-
hành-tinh, nên đang cần một nền luân lý phổ biến hơn,
phóng khoáng hơn. Vì thế mà ở rất nhiều nơi người ta nhận
thấy mọc lên từng trăm từng ngàn những nhóm nhỏ (under group)
đứng độc lập bên ngoài mọi giáo quyền, với hi vọng có thể
hướng tới linh thiêng hiệu nghiệm hơn, mặc dầu chưa biết
dạng thức như thế nào nhưng ít ra không bị ràng buộc trong
những nghi thức đã trở thành trống rỗng và máy móc. Hiện
nay hướng đi chung của họ là muốn quay về phụng sự con
người một cách chân thực. Vì thế trong sự đánh giá, người
ta càng ngày càng căn cứ trên khả năng cũng như uy tín cá
nhân nhiều hơn là trên chức nghiệp hay quyền uy như
trước. Đấy cũng là dấu hiệu con người đang từ giã những
hành ngơi bên ngoài để đi sâu vào nội tâm. Vì thế ta có thể nói
nét đặc trưng của thế giới hiện đại không phải là sa lầy vào
vật chất như các nền luân lý quen nói, nhưng là giũ bỏ các
giá trị cũ để đi tìm những gì vươn lên. Còn những giá trị
tinh thần cũ bất cứ thuộc tôn giáo, triết học hay văn hóa,
luân lý, quyền uy nào đều khôg được chấp nhận nữa” (21)
Để đem lại danh dự và xóa đi ngộ nhận về triết gia Kim
Định, sau khi ông bị người ta cố ý chụp mũ, vu khống và bôi
nhọ, tôi - một kẻ vô danh tiểu tốt - đành phải trích dẫn dài
dòng như trên. Liệu bề trên của ông trong giáo hội Công
giáo có vừa ý khi nghe ông phát biểu một cách quyết liệt
như vậy không? Cách nói quá thẳng thắn và trung thực
của ông mang lại lợi ích gì cho giáo hội Công giáo và
những thế lực chính trị? Đó là câu hỏi mà những người
đã hiểu sai về ông cần phải tự trả lời.
TIỂU SỬ và TÁC PHẨM của TRIẾT GIA KIM ĐỊNH 23
Trích đoạn trên đây cho thấy triết gia Kim Định đã có một
sự nhạy cảm và cái nhìn thấu thị vượt thời gian. Đã và
đang có những cá nhân riêng lẻ, những nhóm người, những
dòng tu thực hiện những giá trị tinh thần cao quý và hành động
vì mục đích đem lại hòa bình, thịnh vượng cho thế giới. Có
nhiều và rất nhiều những con người như vậy, họ là:
Krishnamurti, Nisargadatta Maharaj, Mẹ Teresa, Triết gia Kim
Định, Thích Nhất Hạnh, Dalai Lama, Eckhart Tolle…
Trong cuộc đời dạy học và trước tác của ông, ông không
chỉ giảng dạy kiến thức mà còn trao truyền một Đạo Sống
cho biết bao thế hệ môn sinh. Nhiều người chỉ biết ông qua
tác phẩm nhưng vô cùng biết ơn ông, bởi vì ông đã khai tâm
và dẫn dắt họ về với suối nguồn của Đạo học Á Đông, mà
cũng chính là trở về với cội nguồn tâm linh sâu thẳm trong
tâm hồn mà từ lâu họ đã lãng quên trong đời sống thường
nhật. Ông là một bậc thánh trí, một bậc hiền triết, một
chiến sĩ dấn thân trọn đời vì văn hóa dân tộc. Ông là bó
đuốc thắp sáng trong đêm trường hoang vu của Việt
Nam và nhân loại. Ông là vị Khổng Tử của nước Việt Nam
trong bối cảnh Xuân Thu Chiến Quốc thời hiện đại.
Ông đã sống chết với những điều mình cưu mang gần bốn
mươi năm trời, từ lúc còn ở trong nước, đi ra nước ngoài, cho
đến khi nhắm mắt xuôi tay trong bệnh tật và cô đơn. Ông ra đi
khi đã được nhìn thấy được học thuyết An Vi của mình bén rễ
trong cộng đồng người Việt Nam ở hải ngoại. Những suy tư và
đề nghị của ông chắc chắn sẽ được hậu thế đánh giá cao.
Bậc hiền triết Kim Định chính là điềm Hiệu triệu, là một con
chim quý Lạc Việt báo hiệu thời đại Tâm Linh sẽ đến. Tất cả
biến cố về: chính trị, kinh tế sẽ qua đi, tương lai thuộc về
ông và những con người mang sứ mệnh khơi lại nguồn
suối tâm linh của Việt tộc.
Ngày 14/7/2012, nhân 15 năm ngày mất của Kim Định,
Trung tâm Minh Triết phối hợp với Trung tâm Lý Học Đông
Phương đã tổ chức buổi tọa đàm tưởng niệm về ông tại
Văn Miếu Quốc Tử Giám. Đây là lần đầu tiên, một buổi tọa
đàm có quy mô lớn về triết gia Lương Kim Định được tổ
TIỂU SỬ và TÁC PHẨM của TRIẾT GIA KIM ĐỊNH 24
chức tại Việt Nam. Cuối cùng, học giới trong nước cũng
chấp nhận và đánh giá lại di sản đồ sộ và quý báu về triết
học và văn hóa Việt Nam của ông. Tuy mới chỉ là một tín
hiệu nhỏ, nhưng hi vọng đây là một bước khởi đầu tốt đẹp.
Để đánh giá lại toàn bộ di sản của ông, có lẽ phải cần một thời
gian khá dài, với sự góp sức của những người yêu mến minh
triết và có nhiều tâm huyết với văn hóa dân tộc.
_____________________
1) Cửa Khổng - Kim Định - Ra Khơi Nhân Ái, Sài Gòn, 1965, Lời
tựa.
(2) Cửa Khổng - Kim Định - Ra Khơi Nhân Ái, Sài Gòn, 1965, trang
104.
(3) Nhân Bản - Kin Định - Ấn Quán Thanh Bình, Sài Gòn 1965,
trang 144.
(4) Định Hướng Văn Học - Kim Định - Ra Khơi Nhân Ái, Sài Gòn
1969, trang 83-84.
(5) Bìa 3 cuốn Chữ Thời - Kin Định - Ấn Quán Thanh Bình, Sài Gòn
1967.
(6) Những Dị Biệt Của Hai Nền Triết Lý Đông Tây - Kim Định - Ra
Khơi Nhân Ái, Sài Gòn 1969, trang 95-96
(7) Những Dị Biệt Của Hai Nền Triết Lý Đông Tây - Kim Định - Ra
Khơi Nhân Ái, Sài Gòn 1969, trang 128.
(8) Tâm Tư - Kim Định - Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn 1970, Lời tựa.
(9) Căn bản triết lý trong văn hóa Việt Nam - Kim Định - Ra Khơi,
Sài Gòn 1967, trang 153-154
(10) Dị Biệt Của Hai Nền Triết Lý Đông Tây - Kim Định - Ra Khơi
Nhân Ái, Sài Gòn 1969, Lời bạt
(11) Việt Lý Tố Nguyên - Kim Định - NXB An Tiêm, Sài Gòn 1970,
trang bìa 4.
(12) Bìa 4 của Dịch Kinh Linh Thể - Kim Định - Tủ Sách Ra Khơi,
Sài Gòn 1970.
(13) Lạc Thư Minh Triết - Kim Định - NXB Nguồn Sáng, Sài Gòn
1971, trang 134.
(14) Loa Thành Đồ Thuyết - Kim Định - Ấn Quán Thanh Bình, Sài
Gòn 1973, trang 153.
(15) Hiến chương Giáo dục - Kim Định - NXB An Tiêm, Sài Gòn
1970, trang bìa 4.
TIỂU SỬ và TÁC PHẨM của TRIẾT GIA KIM ĐỊNH 25
(17) Văn Lang Vũ Bộ - Kim Định - NXB H.T Kelton, USA, trang 236.
(18) Văn Lang Vũ Bộ - Kim Định - NXB H.T Kelton, USA, trang 87.
(19) Nguyễn Hiến Lê - Cuộc đời và Tác phẩm - Châu Hải Kỳ - NXB
Văn Học, Hà Nội 1993, trang 227-228.
(20) Ca Khúc Của Quán Cà Phê Buồn - Carson McCullers, Hoài
Khanh dịch - NBX Ca Dao, Sài Gòn 1969, trang cuối sách.
(21) Loa Thành Đồ Thuyết - Kim Định - Ấn Quán Thanh Bình, Sài
Gòn 1973, trang 180-181.
Hồ Phú Hùng
http://vanhoanghean.com.vn
--------------------------------
NHỮNG BÀI VIẾT VỀ TRIẾT GIA KIM ĐỊNH
Trong Hồi Kí Nguyễn Hiến Lê - NXB Văn Học, 1993 (trang
546), học giả Nguyễn Hiến Lê đã viết về triết gia Kim Định:
“Thật lạ lùng! Người đề cao Khổng tử nhất ở nước ta
từ trước tới nay lại là một tín đồ Công giáo, giáo sư Kim
Định, ông đã viết khoảng chục cuốn về đạo Khổng đưa ra nhiều
ý táo bạo, mà ông chưa kịp sắp đặt lại thành hệ thống. Ông
muốn cải tạo xã hội, cải tạo cả thế giới nữa, cho rằng: nếu canh
tân đạo Khổng thì những tư tưởng tự do và bình sản của
Khổng có thể cứu nhân loại khỏi nhiều thảm họa. Theo ông,
hiểu Khổng là vượt Khổng cho nên tránh các vấn đề siêu
hình mà ông lại có lúc dùng nhãn quan siêu hình để nghiên cứu
Khổng”.
Khi nhận định về địa vị của Giáo sư Kim Định trên lộ trình
tư tưởng Việt Nho, cố học giả linh mục Vũ Đình Trác đã viết
như sau:
“Nhờ công phu mở đường trở về Triết Ðông của Linh Mục
Giáo Sư Bửu Dưỡng và Linh Mục Giáo Sư Nguyễn Văn Thích
cũng như tâm huyết của Giáo Sư Nguyễn Ðăng Thục, chương trình
Triết Học Ðông Phương được khai giảng tại Ðại Học Văn Khoa
Saigon năm 1958. Sẵn đường trở về Ðông Phương, Linh Mục
Giáo Sư Kim Ðịnh tiện đường, đơn thương độc mã, xông lên
một bước táo bạo, mở đường đi vào Triết Lâm Việt Nam.
Trong suốt 16 năm trời, tại giảng đường Ðại Học Văn Khoa
Saigon, Giáo Sư Kim Ðịnh đã ảnh hưởng sâu rộng cho cả một
thế hệ thanh niên và sinh viên. Mặc dầu bao chống đối, Giáo
Sư Kim Ðịnh đã im lặng xây dựng một hệ thống Việt Nho khá
TIỂU SỬ và TÁC PHẨM của TRIẾT GIA KIM ĐỊNH 26
trung thực và hấp dẫn. Không ai có thể chối cãi công phu xây
dựng và ảnh hưởng sâu rộng của ông trong lãnh vực văn hóa
dân tộc. Từ Ðại Học Văn Khoa Saigon, Giáo Sư Kim Ðịnh mở
rộng mặt trận tới các đại học khác: đại học Ðà Lạt, Vạn Hạnh,
Minh Ðức, Thàh Nhân và An Giang. Chíh trog giai đoạn này Giáo
Sư Kim Ðịnh đã sáng lập ra chủ thuyết An Vi và Việt Nho.
Nhờ công khai thác và biên khảo, sáng tác của Giáo Sư
Kim Ðịnh, những bậc thức giả khắp nơi đã suy tôn Giáo Sư là
Triết Gia Việt Nam. Ảnh hưởng Việt Triết và Việt Nho của Giáo
Sư Kim Ðịnh đã gây ý thức cho người Việt khắp nơi nhìn lại
thực tại văn hóa của mình. Các đồ đệ của Giáo Sư Kim Ðịnh đã
đáp ứng nguyện vọng của Thầy để khai thác và phổ biến Việt
Lý của Thầy qua tổ chức An Việt. Các nhóm An Việt được
thành lập khắp nơi: San Jose, Orange, Houston, Louisiana,
Washington, D.C., Philadelphia, Seattle và tại Canada, Úc Châu,
Anh, Pháp, Ðức, v.v... AN VI đã như luồng gió dân tộc bùng
lên khắp nơi có người Việt định cư. Các nhóm này coi Triết
gia Kim Định như bậc Đại Sư mà họ tôn làm Tổ: TỔ SƯ
AN VI. Ảnh hưởng của Triết gia không những thế, mà còn lan
rộng tới các học giả, triết gia ngoại quốc: Âu Mỹ và khối
Viễn Đông”.
Trong báo Ngày Nay số 121, Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích,
đại học Georgetown, Washington D.C viết về Giáo sư Kim Ðịnh:
“Trong nỗ lực đi tìm một con đường Việt Tộc, nhân chủ, tự
do, thì chúng ta phải kể ở hàng đầu công trình đồ sộ của Giáo
Sư Kim Ðịnh. Ở đâu ông cũng thế, không phải sang Mỹ ông mới
tìm “về nguồn”. Việc làm của ông trong tình cảnh mất mát vô
biên, chẳng qua cũng chỉ là tiếp nối công việc của ông đã bắt
đầu khi còn ở trong nước, khi còn ở miền Nam tự do. Từ 1962
tới 1975, ông đã hoàn tất được 23 cuốn triết học, tương đương
với khoảng 7,000 trang một mảng tư tưởng mà không dễ
mấy triết gia có thể so sánh được. Sự độc đáo ở nơi ông
cũng đã là một chuyện quá rõ - dầu ta có đồng ý với ông
hay không, thì ta cũng không thể phủ nhận được tính cách độc
đáo của tư tưởng ông.
Ngày nay, tham vọng cuối cùng của Giáo Sư Kim Ðịnh
là sẽ dựng xong một bộ Kinh Việt (hiểu theo nghĩa "bible") cho
TIỂU SỬ và TÁC PHẨM của TRIẾT GIA KIM ĐỊNH 27
dân tộc ta. Ðể thực hiện tham vọng này, ông đã cho in lại hoặc
đang in năm cuốn thuộc bộ "Ngũ kinh khải triết", đó là: Hùng
Việt Sử Ca, Kinh Hùng Khải Triết, Pho Tượng Ðẹp Nhất Của
Việt Tộc, Sứ Ðiệp Trống Ðồng, Văn Lang Vũ Bộ (số lớn do nhà in
H.T. Kelton xuất bản). Nếu ai hỏi tôi rằng: có nên đọc hay không, thì
tôi xin thưa ngay: dứt khoát là có. Tại sao? Tại vì nếu ta
không nhất thiết đồng ý với hết cả ý kiến của ông, ta
cũng sẽ được làm thân với một trong những bộ óc triết lý
lớn nhất nếu không của nhân loại thì cũng của Việt Nam. Tôi
nói điều này trong sự cân nhắc, cũng không khác gì câu tôi sẽ
trả lời cho người nào hỏi: có nên đọc Platon hay Aristote
không? Ðã nhất thiết gì ta đồng ý với Platon trong tác phẩm La
république, nhưng ai không đọc tác phẩm đó, thì chắc chắn là
mất đi một mảng hiểu biết rộng lớn về triết học Tây
Phương. Cũng như vậy, ai không đọc Giáo Sư Kim Ðịnh
cũng không sao, ông vẫn sẽ từ tốn mà “an vi”, để chờ một ngày
kia người nọ sẽ tỉnh mộng mà trông thấy hết cả cái mất mát của
mình”.
Trong bộ Tự điển Bách khoa Văn Học xuất bản năm 2005,
Giáo sư Nguyễn Huệ Chi, Viện Văn Học nhận định về triết gia
Kim Định:
“Vậy thì những cuốn sách nói trên đã đến lúc cho phép
chúng ta xác nhận lại thật rõ ràng một số đặc trưng tiêu biểu của
văn hóa Viêm Việt, một “bản quyền” vô giá của dân tộc Việt
Nam mà người Trung Hoa giai đoạn du mục chưa thể có:
1. Đây là nền văn hóa nông nghiệp gắn liền với thiên nhiên,
thời tiết, mùa màng, là sự hợp nhất giữa người và trời (thiên
nhân hợp nhất), suy rộng ra là lòng yêu hòa bình, ghét chiến
tranh, đặt văn lên trên võ, đặt nhân trị và lễ trị lên trên
pháp trị.
2. Là nền văn hóa bắt nguồn từ cuộc sống định cư nên sớm
định hình tình cảm yêu nhà yêu nước, trong khi du mục
là cuộc sống lang thang nên chỉ biết có người đứng đầu.
Vì thế giữa hai vế kết hợp về sau của đạo Nho là "trung
quân ái quốc" thì trung quân vốn là của Hoa tộc; ái quốc
vốn là của Việt tộc.
TIỂU SỬ và TÁC PHẨM của TRIẾT GIA KIM ĐỊNH 28
3. Là nền văn hóa đã trường kỳ chống lại sự xâm lăng của văn
hóa du mục nên cũng là nền văn hóa sớm có sự cố kết về
mặt tinh thần dân tộc; dân tộc tính là một tiêu chí định
tính quan trọng của văn minh Lạc Việt và văn minh viễn
Đông.
4. Là nền văn hóa mềm mại uyển chuyển (Nho = nhu), biết coi
trọng âm hơn dương, coi trọng nữ giới hơn nam giới hay ít
ra cũng thừa nhận nữ giới có những quyền, những ưu thế
hơn nam giới: “lệnh ông không bằng cồng bà”.
5. Là nền văn hóa trọng “chiêu” hơn “mục”, trọng “tả” hơn
“hữu”, tức là hướng về phương Đông và phương Nam,
về nữ giới, về số lẻ, về hiền triết, về văn học nghệ thuật, về
dân chúng, tóm lại: hướng tới thuận hòa.
6. Là nền văn hóa sinh thành trên cơ sở cố kết đơn vị làng,
coi làng là một thứ liên bang uyển chuyển mở rộng phần
tự trị trong xã hội, nơi đề cao vai trò người mẹ và người
trưởng thượng, nơi hình thành những lễ tục dân gian cùng
trường tồn bên cạnh luật lệnh của nhà nước như một kiểu
văn hóa lưỡng nghi; làng cũng là tổ hợp của dân
chúng đứng ra đương đầu với nhà vua khi cần thiết:
“phép vua thua lệ làng”.
7. Là nền văn hóa tôn trọng thể chế gia đình như một giải
pháp trung hòa giữa hai thái cực: muốn xóa bỏ tự do
cá nhân vì lợi ích của công quyền và ngược lại, muốn
phớt lờ mọi nghĩa vụ xã hội để đạt được tự do cá
nhân. Tôn trọg thể chế gia đình khiến con người sốg có tình
và có lý, có quyền lợi và có nghĩa vụ, có trung và có hiếu.
Ý kiến của Kim Định thường được trình bày dưới dạng
những giả thuyết làm việc mà không phải là những định đề
áp đặt hoặc coi như đã giải quyết trọn vẹn. Mặt khác, vào
những năm đầu của thập niên 60 thế kỷ trước, ông đã sớm có sự
nhạy cảm trong việc tiếp nhận các phương pháp mới của triết
học Âu Tây, chẳng hạn cấu trúc luận, phân tâm học, cả học
thuyết tương đối của Albert Einstein nên có được cách lập
luận đa dạng, với những thao tác không một chiều, cứng nhắc,
giúp độc giả soi nhìn đối tượng từ nhiều phía, và làm cho luận
TIỂU SỬ và TÁC PHẨM của TRIẾT GIA KIM ĐỊNH 29
thuyết của mình có sức hấp dẫn. Nhưng những điều ông đề
xuất cũng như các luận điểm được ông chốt lại có những chỗ
không tránh khỏi cực đoan, do không đủ cứ liệu, kể cả do thiên
kiến, đã gây ra những phản ứng sôi nổi trong học giới, khiến
nhiều người tin theo và cũng nhiều người bác bỏ. Mặc dầu thế,
nhìn chung không thể không thừa nhận đấy là những tìm tòi
đầy tâm huyết và có sức gợi mở không nhỏ, về một hệ
thống vấn đề không kém quan trọng đang là ẩn số cần được tiếp
tục giải đáp trong các ngành khoa học xã hội và nhân văn của
Việt Nam”.
Giáo sư Trần Văn Đoàn - Đại học Quốc gia Đài Loan chia sẻ
cảm tưởng:
“Trong gần một thập niên từ 1983-1992, người ta có thể nói cụ
Kim Ðịnh là làm việc như một siêu nhân. Gần chục tác phẩm
liên tiếp ra đời. Hội An Việt được thành lập, khêu lên tinh thần
ái quốc, yêu chuộng sự khôn ngoan cũng như suy tầm về
nguồn dân tộc, giúp những bạn trẻ và trí thức cảm thấy
hãnh diện về dân tộc Việt mình nơi quê họ đất người.
Từ các tiểu bang bên Mỹ, cho tới các nước tại Âu Châu, từ
Gia Nã Ðại cho tới Âu Châu, nơi đâu cũng có phong trào Hùng
Việt hấp dẫn cả ngàn người. Thật là một hiện tượng chưa
từng thấy.
Trong những năm nay, cụ thường gửi tặng tôi những tác
phẩm mới cũng như những tin tức về phong trào Hùng
Việt và Hội An Việt của cụ. Tôi cũng nhận thấy, có nhiều tác
phẩm đã thấm nhuần ảnh hưởng của cụ (những bài của Linh
mục Trần Cao Tường, các anh Vương Kỳ Sơn, vân vân). Có thể nói mà
không sợ lịch sử chê bai, cụ Kim Ðịnh có lẽ là một người trí
thức Việt duy nhất có thể gây lên một ảnh hưởg như vậy.
Như tôi từng khẳng định công lao của cụ tại Viện Triết học
của Trung tâm Khoa học Xã hội, Hà Nội (18/01/1997), Kim Ðịnh
vượt xa Trần Ðức Thảo trong lãnh vực suy tư và trong tinh
thần ái quốc, cũng như sự nhiệt tâm của kẻ sỹ”.
Thái Bình Minh Triết, một tác phẩm của triết gia Kim Định đã
được linh mục Trần Công Nghị xuất bản ngay sau khi ông mất.
Linh mục Trần Công Nghị đã tưởng niệm về ông:
TIỂU SỬ và TÁC PHẨM của TRIẾT GIA KIM ĐỊNH 30
“Kim Định ôm hoài bão cánh chim Việt một ngày sẽ tung
bay lên thượng tầng trời cao xanh, nơi đó đàn Chim Việt
với nền Triết Việt Minh Triết là nguồn khởi thủy của một
triết lý sâu xa, tiềm tàng sắc thái An Vi. Kim Định vẫn miệt
mài khám phá, đi tìm và không ngừng minh chứng cho ta thấy
được nguồn gốc oai hùng của Đàn Chim Việt”.
Trong Hành Trình Tìm Lại Cội Nguồn - NXB Văn Học, 2008
(trang 55), Hà Văn Thùy đã ca ngợi ông bằng những lời rất trân
trọng:
“Hơn 30 năm qua cho tới nay, nhiều người cho rằng: cái yếu
nhất của học thuyết Kim Định là thiếu cơ sở khoa học. Nhưng
tôi trộm nghĩ, chính sự thiếu cơ sở khoa học này đã thể hiện dự
cảm thiên tài của ông. Lẽ thường thì từ bột gột nên hồ nhưng có
thể nói Kim Định đã từ nước lã mà gột nên hồ. Trong thời của
ông, tri thức nhân loại về nguồn gốc văn hóa Á Đông còn
rất thiếu thốn, cuốn sách quan trọng Eden in the East
chưa ra đời, nguồn gốc và sự di cư của người hiện đại
Homo sapiens chưa được xác định. Nhất là con đường
Nam Á trong cuộc hành trình định mệnh về phương Đông
chưa được phát hiện. Lịch sử Á Đông còn phủ trong vòng bao
trùm của lý thuyết A. Aymonier cho rằng người Á Đông là từ
phía Tây đi tới và chủ nghĩa Hoa tâm vẫn bao trùm trí tuệ
nhân loại… Nhưng bằng dự cảm thiên tài của mình , ông
đã phát hiện ra văn hóa Việt Nho cội nguồn của người
Việt và bằng con đường “phiêu lưu” giải mã những
truyền thuyết, huyền sử, ông đã tìm ra cốt lõi An Vi của
đạo Việt! Là người tiên phong trong học thuật và tư tưởng,
ông đã vượt qua những trí tuệ sáng láng nhất của người
Việt và nhân loại. Chính vì thế, ông trở thành người độc hành
lạc lõng”.

Các tin khác

VIDEO

  Bài 2: HIỆP HÀNH: Hiệp Thông - Tham Gia - Sứ Vụ | Thường huấn linh mục GP Ban Mê Thuột 2023

  Bài 1: Tầm Nhìn Hoàn Vũ | Thường huấn linh mục GP Ban Mê Thuột 2023

  ĐỨC TIN | Tròn Đầy & Trong Sáng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh

  Mục Vụ Văn Hóa: DANH - LỢI - NGHĨA | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh

  Cử Hành Phụng Vụ | Gặp Gỡ Chúa Kitô - Loan Báo Tin Mừng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn văn Hinh

  Thần Học Mục Vụ & Công đồng Vatican II: Con người - Giáo hội - Môi trường

  Hiệp Hành Hội Ý Dựng lại Mùa Xuân | Người Giáo dân Thiên niên kỷ mới

  Bài 4: Văn Hóa Tổ Chức - Đời Sống Cá Nhân

  Hiệp Hành Kín Đáo và Minh Bạch

  Văn Hóa Tổ Chức - Tổ Chức Cộng Đồng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh (Phần 3)

  Tìm hiểu về văn hóa (Phần 2) - Lm Gioan Kim Nguyễn Văn Hinh

  Tìm hiểu về văn hóa (Phần 1) - Lm Gioan Kim Nguyễn Văn Hinh

  TRỰC TUYẾN BÀI 29: MỤC VỤ THÁNH THIỆN THUẬN THEO

  TRỰC TUYẾN BÀI 28 : MỤC VỤ TÍCH HỢP VĂN HÓA ĐÔNG TÂY

  TRỰC TUYẾN BÀI 27 : MỤC VỤ LỜI CHÚA NGÀY NAY

  TRỰC TUYẾN BÀI : TÌM HIỂU VỀ VĂN HÓA VÀ BẢN SẮC VĂN HÓA VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 26: MỤC VỤ ĐẠO ĐỨC KINH TẾ DỊCH VỤ

  TRỰC TUYẾN BÀI 25: MỤC VỤ TUẦN THÁNH UY VÀ ĐỨC

  TRỰC TUYẾN BÀI 24: MỤC VỤ GIA TÀI CỦA MẸ

  TRỰC TUYẾN BÀI 23: MỤC VỤ BỔ VÀ TẢ

  mvgd20162016

  TRỰC TUYẾN BÀI 21: MỤC VỤ LUẬT CÂN BẰNG

  TRỰC TUYẾN BÀI 20: TRUY TÌM MÃNH LỰC

  TRỰC TUYẾN BÀI 19: THẾ GIỚI HÔM NAY CẦN NHỮNG NGƯỜI CHA NHÂN HẬU LÝ TƯỞNG VÀ THỰC TIỄN

  TRỰC TUYẾN BÀI 18: NĂM THÁNH THÁNH CẢ GIUSE LÃNH ĐẠO VÀ NIỀM TIN

  TRỰC TUYẾN BÀI 17: MỪNG XUÂN TÂN SỬU 2021 - LÒNG BIẾT ƠN TIN VUI ĐẠO ĐỨC VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 17: MỪNG XUÂN TÂN SỬU 2021 - LÒNG BIẾT ƠN TIN VUI ĐẠO ĐỨC VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 16: ĐỀ TÀI ĐIỂM TỰA

  TRỰC TUYẾN BÀI 14: VĂN HÓA KHÔNG NHẬN SAI NHƯNG SỬA SAI

  TRỰC TUYẾN BÀI 13: VUN TRỒNG NỀN VĂN HÓA “TÂM LINH – KHOA HỌC”

  TRỰC TUYẾN BÀI 12: NĂM MỚI 2021 XÂY DỰNG NỀN VĂN MINH TÂM LINH & KHOA HỌC

  TRỰC TUYẾN BÀI 11: GIÁNG SINH 2020 - LÀM NGƯỜi - GIÊSU

  TRỰC TUYẾN BÀI 10: PHÍA ĐẰNG SAU TÂM LINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 9: ĐỂ CÓ CHÚA THÁNH THẦN

  TRỰC TUYẾN BÀI 8: LOAN BÁO TIN MỪNG

  TRỰC TUYẾN BÀI 7: PHÒNG ĐÀO LUYỆN TÂM LINH CỦA TÍN HỮU DÂN CHÚA

  TRỰC TUYẾN BÀI 6: ĐÀO LUYỆN TÍN HỮU DÂN CHÚA

  TRỰC TUYẾN BÀI 5: TẦM NHÌN THIÊN NIÊN KỶ MỚI

  TRỰC TUYẾN BÀI 4: ĐÀO LUYỆN TÂM LINH BẮT ĐẦU TỪ THÁNH THỂ HAY THÁNH KINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 3: PHƯƠNG THỨC CẦU NGUYỆN CẢM NGHIỆM- SỐNG THÁNH GIỮA ĐỜI

  TRỰC TUYẾN: BÀI 2: GIẢI THÍCH ĐÀO LUYỆN TÂM LINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 1: ĐÀO LUYỆN TÂM LINH

  TintucVatican

  Thánh Lễ Tuyên Thánh Jacinta và Francisco Marto

  Muối và ánh sáng

  Thế Giới Nhìn Từ Vatican

  Nghi thức đóng Cửa Thánh

  Xin Mẹ Thương

  Thế Giới Nhìn Từ Vatican

  Suy Niệm với Đức Thánh Cha Phanxicô

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__3

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__1

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__2

  Thường huấn HĐMVGX Ban Mê Thuật

  Quốc tế thiếu nhi 01-6-2014

  Thể dục Dưỡng Sinh

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  CƠM TRƯA TRUNG THU 2013

  Thi đấu thăng cấp sơ đẳng Vovinam

  Khai mạc kỳ thi thăng cấp Vovinam

  Vovinam

  Đào luyện tâm linh

  Nghệ thuật cân bằng

  Đào Luyện Tinh Thần

  Đào Luyện Thể Chất

Bài viết mới
Mười hai lời khuyên của Đức Thánh Cha Phanxicô để trở thành người cừ khôi trong việc loan báo Tin Mừng
Mười hai lời khuyên của Đức Thánh Cha Phanxicô để trở thành người ...
Công bố tự truyện của Đức Thánh Cha Phanxicô
Công bố tự truyện của Đức Thánh Cha Phanxicô
Người dân Ai Len bỏ phiếu chống đề xuất sửa đổi định nghĩa về gia đình trong hiến pháp
Người dân Ai Len bỏ phiếu chống đề xuất sửa đổi định nghĩa ...
Mười một năm Giáo hoàng của Đức Thánh Cha Phanxicô
Mười một năm Giáo hoàng của Đức Thánh Cha Phanxicô