ƠN GỌI TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN 5
[21] Ngày nay Giáo Hội gọi Hồng Y John Henry Newman là Đấng Đáng kính, Đức Lêô XIII thăng ngài lên chức Hồng Y và gọi ngài là “Hồng y của tôi”, 11 năm trước khi ngài qua đời năm 1891; ảnh hưởng ngài thật lớn rộng đến nỗi ngài được gọi là “Nghị Phụ Công Đồng Vatican II”, hoặc “Nghị Phụ vô hình”. Song trước đó, những tư tưởng khai phóng của ngài đã bi nghi ngờ, chống đối, chính ngài bị vùi dập phải rút vào bóng tối nhiều năm. Vì năm 1859, John Henry Newman cho đăng trên tờ Rambler mà ngài làm chủ bút, bài “Về việc hỏi ý kiến tín hữu (giáo dân) trong những chủ đề tín lý”. Ngài liền gặp rất nhiều chống đối khó khăn ngay tại Anh quốc và cả tại Giáo triều La Mã. Theo John Coulson, vì có một số giáo dân viết thư ủng hộ Newman nên Đức Ông Talbot đã viết thư gởi Hồng Y Manning: “Nếu không chặn đứng giáo dân ở Anh quốc thì họ sẽ cai trị Giáo Hội Công Giáo thế cho Tòa Thánh và Hàng Giám mục… Họ đang thò ra móng vuốt… Họ chỉ mang ra áp dụng học thuyết mà Tiến sĩ Newman đã dạy họ trong bài đăng trên Rambler”. Và Talbot đã đặt câu hỏi trở thành trứ danh: “Công việc của giáo dân là gì? - Đi săn, đi bắn, giúp vui. Đó là những chủ đề mà họ biết, còn như việc xen vào các chủ đề về Giáo Hội, thì họ không có chút quyền nào, và câu chuyện của Newman là một câu chuyện hoàn toàn thuộc về Giáo Hội… Tiến sĩ Newman là con người nguy hiểm nhất ở Anh quốc, và ngài sẽ thấy rằng ông ta sẽ dùng giáo dân để chống lại ngài”. (Newman, John Henry, On Consulting the Faithful in Matters of Doctrine, Ed. and Introduction John Coulson (NY: Sheed & Ward, 1961), tr. 41-42); - Shaw, Russell tác giả trích dẫn ở ghi chú số 8 còn viết quyển sách tựa đề: To Hunt to Shoot to Entertain: Clericalism and the Catholic Laity (San Francisco, Ignatius Press, 1993): tựa đề mượn từ câu nói của Talbot.
[22] Karl Rhaner, Karl, Theological Investigations, Volume Two (London: Darton, Longman & Tođ, 1963, Translation by K. Kruger, “Notes on the Lay Apostolate”, tr. 339.
[23] Yves Congar, Lay People in the Church, ed. 1959, tr. 346.
[24] Sđd, tr. 347-348.
[25] Sđd, tr. 348
[26] Khi kể lại giai thoại trong ghi chú số 8 ở trên về nhiệm vụ “pray, pay, and obey”(cầu nguyện, cúng tiền, và vâng phục) của giáo dân, Lm. Yves Congar đã nhận định tinh tế như sau: “Trong một ý nghĩa nào đó, bây giờ là như vậy, và sau này sẽ mãi mãi như vậy: sẽ không bao giờ có cảnh người giáo dân nam nữ mà không quỳ trước bàn thờ, ngồi dưới trước tòa giảng; và chuyện thò tay vào ví lấy tiền sẽ còn lâu. Nhưng kể từ bây giờ trở về sau, họ vẫn làm những việc ấy, song với một cách khác; hoặc ít ra, khi làm những việc ấy họ có cảm nhận khác hơn về vị trí của họ như một thành phần Giáo Hội. Theo Arnold Toynbee, một người thuộc giai cấp vô sản không phải vì họ sống trong một hoàn cảnh lệ thuộc, song vì họ sống trong một xã hội trong đó họ không cảm nhận được họ là một thành phần sinh động hữu cơ tích cực có đầy đủ quyền…” (Y. Congar, sđd, bản anh văn Lay People…, tr. XXVII)
[27] Bài giảng của Đức Phaolô VI trước các bề trên và hội viên các tu hội đời (ngày 2-2-1972)
[28] Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, Tông Huấn Truyền Bá Phúc Âm “Evangelii Nuntiandi”, số 60.
[29] Pontifical Council for Justice and Peace, Compendium of the Social Doctrine of the Church (Libreria Editrice Vaticana, Washington, D.C. USCCB, 2005); Conseil Pontifical Justice et Paix, Compendium de la Doctrine Sociale de L’Eglise ( Paris, Cerf, 2005).
Các tin khác