ĐẠO ĐỨC SINH HỌC 2
Kết thúc sự sống
- Vào năm 1957, Đức Piô XII đã đọc diễn từ “Những vấn đề tôn giáo và luân lý của việc hồi sức”.
- Đức Piô XII đọc diễn từ “Vấn đề tôn giáo và luân lý của sự giảm đau” vào năm 1957.
- Vào năm 1978, các Giám Mục Đức đã công bố một bản văn về ‘Cái chết xứng với nhân phẩm của con người và cái chết của người Kitô hữu”. Đây là một bản văn rất hay [DC 1979 no 1764] có tính chất mục vụ liên quan đến việc đồng hành tâm lý và tâm linh đối với những người bị bệnh nặng và những người hấp hối. Điều này cho phép xác định rõ rằng chiều kích này cũng thuộc về đạo đức của các vấn đề y khoa vào lúc kết thúc sự sống.
- Năm 1980, Uỷ Ban Giáo Lý Đức Tin đã công bố một Tuyên Ngôn về vấn đề Trợ Tử, để phản ứng lại việc “bám riết điều trị”. Trong những năm này, sự chệch choạc là sự chệch choạc của việc bám riết điều trị và của việc sử dụng một cách tệ hại về mặt y khoa những thuốc giảm đau mạnh vì những lý do khác nhau đặc biệt là những lý do kỹ thuật và pháp lý. Tuyên ngôn này của Bộ Giáo Lý Đức Tin rất thú vị. Dĩ nhiên, bản văn trưng dẫn những bản văn có tầm vóc lớn lao của Đức Piô XII về việc giảm nhẹ cơn đau lúc kết thúc sự sống; và bản văn đưa vào từ vựng về điều trị tương xứng hoặc bất tương xứng vào vị trí của từ “thông thường” và “bất thường”; bản văn kêu gọi một nền đạo đức trách nhiệm, nền đạo đức này đánh giá và xác định cấp trật những giá trị khác nhau đang bị thách đố nhờ vào nhân đức cẩn trọng.
- Vào năm 1991, Ủy ban thường trực của Hội Đồng Giám Mục Pháp ra tuyên bố về “Tôn trọng con người cận kề với cái chết”. Đây là một bản văn rất hay nói lên điều cốt yếu của điều cần phải biết về những vấn đề đạo đức vào lúc kết thúc sự sống.
-
Năm 1995, Đức Gioan Phaolô II công bố thông điệp Evangelium vitae.
-
Từ tất cả các tài liệu của huấn quyền, đâu là những đường nét lớn của tiến trình suy tư về đạo đức sinh học của huấn quyền?
- Huấn quyền đặt mình trong sự tiên thiên tích cực và với lòng biết ơn đối với những tiến bộ về mặt y khoa nhắm đến mục đích chống lại bệnh tật và những hậu quả của bệnh tật.
- Trong công việc lượng giá về vấn đề đạo đức của mình, Huấn Quyền cố gắng hiểu những thực hành và những tiến bộ y khoa nói một cách kỹ thuật.
- Huấn quyền không ngừng nhắc lại những điểm tựa nhân học chính yếu:
- Phẩm vị ưu việt của con người. Việc hiểu biết về phẩm vị này được liên kết với nền tảng của phẩm vị này nơi Thiên Chúa; vì thế phẩm vị này có tính hữu thể luận, cố hữu và không thể bị mất. Sự hiểu biết về phẩm vị hòa nhập với sự nhận biết về khả năng trách nhiệm và quyết định: con người không bao giờ được đối xử như một đồ vật.
- Huấn quyền cũng nhấn mạnh về sự hiệp nhất của con người, sự hiệp nhất tâm thân (somato spirituelle) và điều quan trọng là đánh giá những hậu quả của mọi hoạt động y khoa trên tất cả các chiều kích của con người: không phải theo tính nhị nguyên nhân học, nhất là ngộ đạo thuyết mà ở đó người ta muốn coi thường chiều kích sinh học; nhưng cũng phải chú ý để không rơi vào việc tôn thờ thân xác.
-
Huấn Quyền cũng rất cần lưu tâm đến chiều kích tập thể của những hành xử luân lý: hữu thể người luôn được coi như hữu thể tương quan và có tính xã hội; hữu thể người thuộc về một cơ thể xã hội mà nó liên đới vào trong đó. Nhưng cùng lúc Huấn Quyền khẳng định địa vị ưu việt của con người trong xã hội.
- Vả lại, Huấn Quyền không ngừng nhắc lại những điểm tựa đạo đức chính yếu trong lãnh vực y khoa.
-
Từ tất cả các tài liệu của huấn quyền, đâu là những đường nét lớn của tiến trình suy tư về đạo đức sinh học của huấn quyền?
Tôi nhắc lại ở đây tầm quan trọng loại biệt trong giáo huấn của Huấn Quyền thông thường và phổ quát vào năm 1995 về ba lệnh cấm luân lý chính yếu.
“Huấn Quyền thông thường và phổ quát”: Đó là những giám mục hiệp nhất với Đức Giáo Hoàng đồng thuận với nhau trên toàn thế giới để giảng dạy một điểm về giáo thuyết như được thần khải hoặc thuộc về đức tin. Quả vậy, theo Công Đồng Vaticanô II, Lumen gentium 25: “Dù tản mác khắp thế giới, nếu thông hiệp với nhau và với Đấng kế vị thánh Phêrô, các ngài cùng đồng ý dạy cách chính thức những điều thuộc đức tin và phong hóa là tuyệt đối buộc phải giữ, thì lúc đó các ngài công bố cách bất khả ngộ giáo thuyết của Chúa Kitô.”
Một giáo thuyết của huấn quyền thông thường và phổ quát đòi hỏi sự đồng thuận trong đức tin.
Điều này đã xảy ra trong luân lý lần đầu tiên vào năm 1995 trong Thông Điệp Tin Mừng Sự Sống của Đức Gioan Phaolô II và liên quan đến ba tuyên bố:
Evangelium vitae số 56 về việc giết người
Evangelium vitae số 62 về việc phá thai.
Tôi thêm điều mà Đức Gioan Phaolô II nói ở số 60: “Giáo Hội đã luôn luôn giảng dạy và vẫn còn giảng dạy rằng phải bảo đảm cho thành quả của sự sinh sản con người, từ khoảnh khắc đầu tiên trong hiện hữu của nó, một sự tôn trọng vô điều kiện vốn phải có, về mặt đạo đức đối với con người trong toàn bộ và trong tính đơn nhất thể xác cũng như tinh thần của nó”.
EV 65 về cái chết êm dịu
Cả ba triệt đều được xây dựng theo cùng một phương cách; chúng nổi bật lên một cách rõ nét so với phần còn lại của Thông Điệp bởi sự trình bày của chúng. Đó là một giáo huấn đồng nhất và thường hằng qua không gian và thời gian. Nó đòi hỏi sự đồng thuận của đức tin: để trung thành với niềm tin của Giáo Hội Công Giáo, cần phải gìn giữ tính chất chính yếu của những lệnh cấm về luân lý này.
- Huấn quyền cũng ý thức rằng rất nhiều tiến bộ về y khoa xuất hiện nhờ những phân tích chính xác cùng lúc mang đến những thiện ích và những nguy hiểm cho nhân loại: ví dụ: di truyền, những thuốc giảm đau nồng độ mạnh, việc tháp ghép cơ phận…
Chính vì thế, Huấn Quyền luôn kêu gọi một nền đạo đức trách nhiệm trong mỗi trạng huống. Nền đạo đức trách nhiệm này được minh giải bởi Công Đồng Vaticanô II trong Hiến chế Gaudium et spes số 50,2.
- Quan niệm về mối tương quan giữa đạo đức và luật
Đạo đức và luật không được chất chồng lên nhau, cũng không có sự đồng nhất hóa giữa cả hai.
Tôi tóm tắt điều đã được trình bày trong những tài liệu khác được liệt kê trước đây.
Một vấn đề về triết học luật pháp được đặt ra: nếu luật, đây là luật tích cực, nghĩa là luật dân sự, định khung cho những thực hành trong lĩnh vực y khoa, nhân danh điều gì luật này thực hiện điều đó? Đâu là nguồn của luật?
- Hoặc luật là sự thỏa thuận tùy tiện mà sự tùy tiện này được thỏa mãn bằng việc theo dõi và đóng khung điều đã được thực hiện, điều mà người ta gọi là sự thực chứng về mặt luật pháp (positivisme juridique): luật là một sự thỏa thuận tùy tiện và luật phản ánh tình trạng của một xã hội
- Hoặc luật phải phản ánh những giá trị cấu tạo của nhân tính: nghĩa là: có hay không những nguyên tắc trổi vượt để phán xét luật dân sự? Nhân danh điều gì mà một nền lập pháp có thể cấm những người đồng giới sinh em bé bằng cách nại đến những kỹ thuật của việc trợ giúp y khoa để tạo sinh?
Câu trả lời: Luật phải được đưa vào thực hiện những quyền con người căn bản. “Trong lãnh vực đạo đức sinh học như trong những lãnh vực khác của luật, luật dân sự có sứ vụ đảm bảo những quyền căn bản này bởi những quy phạm cụ thể để thăng tiến tình liên đới có trách nhiệm.”
Luật không được tổ chức sự vi phạm những quyền con người căn bản.
Và vì thế trong đạo đức sinh học: quyền sống, quyền về mặt thể lý toàn vẹn của mọi hữu thể người từ khi thụ thai đến khi chết đi; quyền về gia đình và trong khuôn khổ này, quyền cho trẻ em là phải được thụ thai, được sinh ra và được cha mẹ giáo dục.
Ở phía sau, có một nền nhân học:
- Đó không phải là một nền nhân học của cá nhân chủ nghĩa đặt lên trước hết sự lên ngôi của tự do được xem như là việc tự định lấy chính mình tuyệt đối.
- Nhưng là một quan niệm về con người cá nhân, dễ tổn thương, có tương quan bao hàm một nền đạo đức về việc không bao giờ có người này mà không có người kia, một nền đạo đức huynh đệ và liên đới. Chúng ta không độc lập nhưng phụ thuộc lẫn nhau.
KẾT LUẬN
Chúng ta vừa xem xét làm thế nào Giáo Hội đã tham dự ngay từ đầu vào suy tư về vấn đề đạo đức y khoa, nhưng chúng ta có thể tự hỏi: Tại sao Giáo Hội lên tiếng về những vấn đề đạo đức sinh học, những vấn đề này xa rời với nội dung của đức tin Kitô giáo và Kinh Thánh cũng đã không có những câu trả lời trực tiếp cho những vấn đề nay? Hơn nữa, sự đòi hỏi về mặt đạo đức có tính hữu lý và phổ quát và người ta không cần là tín hữu để là người sống theo những chuẩn mực luân lý.
Giáo Hội đã luôn coi như một phần của sứ mạng của mình là khẳng định những giá trị cho phép xã hội được nhân bản hơn. Kinh Thánh là Lời của Thiên Chúa, Kinh Thánh là lời không thể tách rời về con người và cho con người. Kinh Thánh dạy chúng ta rằng Thiên Chúa đã làm người, nghĩa là ngài đã trộn lẫn vào sự sống của chúng ta, và ngài muốn hạnh phúc của con người. Và Tin Mừng chuyển trao đến chúng ta tinh thần trách nhiệm đối với mọi người nam, nữ và trẻ em (x Lc10 và Mt25).
Vì thế, những kỹ thuật y sinh học được áp dụng cho con người đặt ra những vấn đề đạo đức nghiêm trọng. Những thực hành phá thai, an tử trợ tử, một vài thử nghiệm trên người rõ ràng là đi ngược lại với con người. Do đó, mỗi lần con người, hình ảnh của Thiên Chúa, bị đụng chạm đến phẩm giá của mình, Huấn Quyền sẽ can thiệp: đó là trường hợp vào thế kỷ XIX trong vấn đề về thợ thuyền (Đức Giáo Hoàng Lêô XIII với thông điệp Rerum Novarum); ngày nay, đó là trường hợp trong vấn đề đạo đức sinh học, được coi như vấn đề xã hội có tính thời sự.
Tôi sẽ kết thúc bằng hai trích dẫn của Công Đồng Vaticanô II:
- Trích dẫn thứ nhất nói lên tại sao Giáo Hội lên tiếng: “Mầu nhiệm về con người chỉ thực sự được sáng tỏ trong mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể” (GS 22,1)
- Trích dẫn thứ hai sẽ nói lên tại sao và như thế nào: “Dầu Giáo Hội là quản thủ kho tàng Lời Chúa để từ đó rút ra những nguyên tắc luân lý và tôn giáo, nhưng không phải lúc nào Giáo Hội cũng có ngay câu trả lời cho mỗi một vấn đề. Tuy nhiên bao giờ Giáo Hội cũng ao ước nối kết ánh sáng mạc khải với sự khôn khéo của mọi người để soi dẫn con đường mà nhân loại vừa bước chân vào” (GS 33). Điều đó không muốn nói lên rằng Giáo Hội đã có câu trả lời cho mọi vấn đề nhưng Giáo Hội đối thoại với mọi người nam và nữ thiện chí (GS 16) để tìm thấy và chọn những con đường sống.
Vì thế, Giáo Hội, trong những suy tư về đạo đức sinh học của mình, múc nguồn từ khởi đầu ở hai nguồn là Kinh Thánh và Luật Tự Nhiên như luật luân lý hợp lý. Giáo Hội muốn gợi lên và đào tạo những lương tâm để giúp tìm thấy những con đường của sự sống trong những trạng huống phức tạp của cuộc sống ngày nay.
Françoise Niessen
(Chuyển ngữ: Giuse Nguyễn Xuân Phong)