, ngày 19 tháng 05 năm 2024 | 09:18 PM - Giới thiệu | Ý nghĩa logo
Tài liệu

ƠN GỌI TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN

3. 1 - “Được gọi mà không được chọn” Chúng ta thường nghe câu trích và cắt xén Thánh Kinh này

Tân Ước ở những đoạn như Matthew 20, 16 nói về Nước Trời như nông gia kia từ sáng sớm cho đến chiều tối vẫn tìm người vào làm vườn nho của mình, Matthew 22, 14, hay Luca 14, 15 - 24 nói về dụ ngôn Nước Trời như ông vua kia mở tiệc cưới cho con mình và mời tất cả mọi người dự tiệc. Trong các đoạn đó có câu “kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít”. Những dụ ngôn ấy trước hết nói về Dân Chúa chọn là Dân Do thái, kế đến là tất cả mọi người được mời gọi vào Nước cứu rổi của Thiên Chúa, song phần chúng ta chúng ta chọn lựa được cứu rổi hay hư mất, chúng ta có đáp trả lại ơn gọi ấy cách xứng hợp hay không, có làm việc cật lực, có ăn mặc y phục bác ái và thánh thiện để dự tiệc đúng cung cách lễ nghi hay không, chớ không có chuyện Chúa gọi rồi không chọn.

Điều đáng tiếc là thường nghe nhấn mạnh đặt nổi câu “kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít”. và “được gọi mà không được chọn” để chỉ những người đi vào chủng viện hay nhà tu mà đã rời khỏi những nơi ấy để chọn một nếp sống khác là những kẻ đã được gọi mà không được chọn.

Lối diễn giải này đưa đến nhiều hệ luận sai lầm tai hại. Trước hết chỉ có một số nhỏ “đi tu” mới được gọi, mới có ơn gọi, còn tuyệt đại đa số không một lần đi tu thì không được gọi chớ đừng nói là được chọn: điều đó “đúng” và minh chứng cho thành kiến chỉ có giáo sĩ và tu sĩ mới có ơn gọi. Kế đến chỉ trong muôn vàn mới có một số rất ít, rất hiếm hoi “được gọi và được chọn”. Mà “hiếm” thì “quý”, thì đắt giá, thì sang cả như hàng “quý tộc, khanh tướng”, như vậy làm sao tránh khỏi ý tưởng kẻ trọng người khinh, mà ai là trọng và ai khinh thì đã biết rồi. Chúng tôi còn nhớ một câu trong Sách Bổn đàng trong: “Hỏi: Kẻ có vợ chồng cùng kẻ đồng trinh ai hơn? - Thưa: kẻ đồng trinh hơn, vì kẻ ấy không lo vợ chồng, một khí tục tinh tu thì phước đức càng cao càng trọng lại càng gần Chúa hơn nữa”. Chúng tôi cũng còn nhớ cách đây không lâu ở Miền Nam Việt Nam, khi tân linh mục được truyền chức thánh và ăn mừng thì gọi đó là ngày “Lễ Vinh Qui”, từ ngữ “vinh qui bái tổ” thường dùng cho những kẻ thi đỗ đạt vẻ vang về làng.

Lối cắt nghĩa “được gọi mà không được chọn” như vậy cũng có hậu quả tiêu cực vì hàm chứa rằng “được chọn” làm linh mục, tu sĩ là thành công, là được chúc phúc, là thánh thiện, là thánh thiêng, còn “không được chọn”, làm giáo dân là thất bại, là bất hạnh, là không tốt lành; người ta còn gọi là “bỏ ơn Chúa hay mất ơn Chúa”.

Nếu hiểu như vậy và nhìn vào thực tế cộng đoàn Dân Chúa hiện nay, người ta có thể tự hỏi: - Phải chăng Chúa đã có lần “chọn” nhầm? Và phải chăng trong vài trường hợp đáng lẽ Chúa không “chọn” thì hơn?

Nói rằng không đi suốt con đường tu trì của mình là “không được chọn”, là phủ nhận lời của Phaolô: “Chúng ta biết rằng: Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người, tức là cho những kẻ được Người kêu gọi theo như ý Người định… Những ai Thiên Chúa đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu gọi, thì Người cũng làm cho nên công chính; những ai Người đã làm cho nên công chính, thì Người cũng cho hưởng phúc vinh quang (Rm 8, 28.30). Hay như lời Georges Bernanos: “Tất cả đều là ơn Chúa”. Hay như Linh đạo mà Linh mục Henry J.M. Nouwen viết tặng cho những người sống lăn lộn giữa chợ đời. Theo linh đạo ấy, cuộc đời chúng ta sẽ là “chiếc bánh được Thiên Chúa chọn, chúc phúc, rồi bẻ ra, để ban phát cho mọi người”. Và ông cắt nghĩa: như chiếc bánh được cầm lên, là được Thiên Chúa chọn. Rồi Thiên Chúa chúc phúc là chuẩn bị cho bằng một thời gian dạy dỗ tôi luyện. Kế đến như chiếc bánh phải bị bẻ ra, chúng ta phải hy sinh đau khổ, để sau đó được ban phát cho mọi người làm của ăn.[10] Những năm sống trong các nhà tu có thể là những năm được chuẩn bị trước khi đưa vào đời. Công cuộc và thời gian chuẩn bị những người tông đồ giáo dân có thể là từ sinh ra trong gia đình, đến trường tiểu học, trung học, đai học, trường học nghề hay học chữ, trong cơ quan, hảng xưởng, xí nghiệp, trong đời binh bị, trong cuộc sống gia đình hay xã hội… tất cả là để chuẩn bị và trang bị cho cuộc xuống núi hành hiệp tông đồ giáo dân. Tất cả đều được thiết kế cho công trình cứu chuộc, và như Thánh Phaolô nói: “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người”.

3. 2 - Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít

Matthew 9,37-38, Luca 10, 2 nói về “lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít” luôn luôn được nhắc nhớ để kêu mời ơn gọi linh mục. Khuyến khích vận động cho ơn gọi linh mục là tốt và cần. Song dùng hình ảnh thợ gặt để chỉ linh mục mà thôi, còn lúa chín đầy đồng để chỉ tất cả mọi tín hữu, hay không là tín hữu Kitô, thì quả thật là thu hẹp ơn gọi và nhiệm vụ tông đồ vào giáo sĩ mà thôi, thì rõ ràng là ngược lại giáo huấn của Giáo Hội, làm cho người ta có thể hiểu sai rằng phải là linh mục mới có thể làm việc tông đồ.[11] Tại sao không dùng dụ ngôn vườn nho để kêu gọi tất cả mọi người như Đức Gioan Phaolô II: “Dụ ngôn Phúc Âm mô tả trước mắt chúng ta vườn nho mênh mông của Chúa và đàn lũ người gồm đàn ông đàn bà mà Ngài gọi và sai vào làm việc. Vườn nho đó là toàn thể thế giới (Matthew 13, 38)”, (CL 1). Và thật vậy, đọc tất cả Tông Huấn này, người ta thấy Đức Gioan Phaolô II nhiều lần viện dẫn dụ ngôn làm việc trong vườn nho của Chúa, chớ không một lần nào nói đến dụ ngôn “lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”, phải chăng ngài muốn tránh cho người ta đừng hiểu sai và hiểu xa rằng không phải toàn thể tín hữu đều được mời gọi và có phận sự làm việc tông đồ, làm thợ gặt, mà chỉ có một số rất ít mà thôi?

3. 3 - Chữ “dân” hiểu theo nghĩa bị hạ cấp

Không thể nói do đâu hoặc do lỗi ai, chữ “dân” trong “giáo dân”, dùng như danh từ hay tính từ, tự nó có nghĩa chính xác là “người trong một nước”,[12] như khi nói: dân Việt, Dân Chúa, dân quyền, hay dân sinh… lại mang một ý nghĩa xấu, hay bị hạ cấp, như dân đen, dân ngu, hoặc “dân” hiểu ngược lại với “quan chức”; và giáo dân là thấp giáo sĩ mới là cao. Ấn tượng cao thấp do ngôn ngữ này chắc sẽ còn ảnh hưởng lâu dài, nếu không có bình giải Thánh Kinh đúng đắn, và diễn nghĩa chính xác theo thần học và giáo lý.

4. Ơn gọi và sứ vụ chung của mọi Kitô hữu từ nền tảng phép Rửa tội

Trước hết chúng ta cần thỏa thuận về một số “từ” căn bản dùng ở đây cũng như trong các văn kiện trích dẫn của Giáo Hội:

- Những chữ: tín hữu, Tín hữu Đức Kitô, Kitô hữu, đều đồng nghĩa, và có nghĩa là những người tin Chúa Kitô (chrétien, christian, faithfull, Christ’s faithful, Christifideles), gồm toàn thể Dân Chúa, không phân biệt giáo dân, giáo sĩ, hay tu sĩ.

- Những chữ: giáo dân, tín hữu giáo dân, đều đồng nghĩa và có nghĩa là tín hữu thuộc thành phần giáo dân (laics, laicat, lay, lay person, laity, Christifideles laici), mà những đối tác khác trong Dân Chúa là giáo sĩ và tu sĩ.

- Cũng nên ghi nhớ trong những văn kiện Công Đồng Vatican II có những nơi dùng chữ “faithful” để chỉ tín hữu giáo dân, và ngược lại dùng chữ giáo dân để chỉ toàn thể tín hữu; dùng chữ như vậy không được chính xác, nên sau này trong Tông Huấn Người Tín Hữu Giáo Dân công bố năm 1989 Đức Gioan Phalô II nhấn mạnh lại cho rõ chữ “Christifideles Laici” để chỉ tín hữu giáo dân.

Lm. Phaolô Nguyễn Thái Hợp, O.P., Nguyên giáo sư Luân lý Xã hội tại Roma và Mỹ Châu Latin, Giáo sư tại nhiều Đại Học và Đặc Trách Học Vụ Dòng Đaminh Việt Nam, và hiện nay là Giám mục chính tòa Giáo Phận Vinh, Việt Nam, đã viết trong “Yves Congar thần học gia khai mở” một đoạn văn ngắn, trong sáng, và trôi chảy dễ đọc dễ hiểu, nhưng may mắn chứa đựng tất cả những ý niệm và phạm trù thần học và Giáo Hội học về người tín hữu giáo dân sau Vatican II:

“Theo Công Đồng do bí tích Thanh Tẩy, tất cả các Kitô hữu đều tham dự vào sứ vụ ngôn sứ, tư tế và vương giả của Đức Kitô. Những khác biệt về thừa tác vụ hoàn toàn do nhu cầu của cộng đồng Dân Chúa và nhằm phục vụ cộng đồng. Đây là một trách vụ nên đóng vai trò phụ thuộc nếu so sách với ơn gọi căn bản làm Kitô hữu. Chiều hướng thần học này đặt nổi tính bình đẳng về phẩm giá, căn tính và ơn gọi nền tảng của tất cả Kitô hữu trong thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô. Những khác biệt về chức vụ, nếp sống và ơn gọi thực sự chỉ có ý nghĩa trong viễn tượng phục vụ cộng đoàn Dân Chúa”.[13]

Chúng ta không thể tìm hiểu về người tín hữu giáo dân mà không bàn đến những đặc tính bao gồm trong các ý niệm và phạm trù được in đậm ở trên.

Ơn gọi và sứ vụ chung của mọi Kitô hữu bắt đầu và đặt nền tảng trên phép Rửa.

Thánh Công Đồng Vatican II dạy rằng mọi Kitô hữu do phép Rửa đã trở thành Dân mới của Thiên Chúa, một “vương quốc những tư tế”, tất cả đều có cùng một ơn gọi và một sứ vụ, cùng chung những trách nhiệm căn bản là tôn thờ, dâng chính mình làm của lễ lên Thiên Chúa, mang ánh sáng Phúc Âm đến mọi người, bằng cách làm chứng cho Đức Kitô, và nói cho mọi người biết về đức tin và niềm hy vọng của mình:

“Chúa Kitô Linh Mục Thượng Phẩm được chọn nơi loài người để biến dân tộc mới thành một vương quốc, thành những tư tế cho Thiên Chúa, Cha Người. Thực vậy, những người đã lãnh phép rửa, nhờ sự tái sinh và sức dầu của Thánh Thần được thánh hiến để trở thành chỗ ở thiêng liêng và rao truyền kỳ công của Đấng đã gọi họ từ bóng tối đến ánh sáng kỳ diệu của Ngài. Vì thế, tất cả môn đệ của Chúa Kitô, trong khi kiên tâm cầu nguyện và cùng nhau ca tụng Thiên Chúa , họ phải dâng mình làm hy vật sống động, thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa, phải làm chứng về Chúa Kitô trên khắp mặt đất và trình bày về cuộc sống vĩnh cữu mà họ ôm ấp cho những ai khao khát” (Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội “Lumen Gentium” (viết tắt LG), số 10).

Thánh Công Đồng Vatican II còn diễn giải thêm: “Các tín hữu nhập hiệp vào Giáo Hội bởi phép rửa, và nhờ ấn tích, họ được đề cử thi hành việc phụng tự Kitô giáo”… Họ có “phận sự khần thiết phải loan truyền và bảo vệ đức tin bằng lời nói và việc làm… Khi tham dự thánh lễ, nguồn mạch và chóp đỉnh của Kitô giáo, họ dâng lên Thiên Chúa Lễ Vật thần linh, cùng với Lễ Vật ấy họ tự dâng chính mình họ” (LG số 11).

Mọi tín hữu, có chịu chức thánh hay không, nhờ phép rửa đã được sát nhập vào cùng một thân thể của Đức Kitô, đều có cùng một ơn gọi và sứ vụ chung, đều được mời gọi nên trọn lành, và do đó đều bình đẳng vì có phẩm giá như nhau:

“Vì như trong một thân thể , chúng ta có nhiều chi thể, nhưng mọi chi thể không có cùng một nhiệm vụ, cũng vậy, chúng ta tuy nhiều người song là một thân thể trong Chúa Kitô, nên mỗi người chúng ta là chi thể của nhau” (Rm 12,4-5).

“Thế nên chỉ có một Dân Thiên Chúa được Ngài tuyển chọn: “chỉ có một Thiên Chúa, một đức tin, một phép rửa” (Ep 4, 5). Các chi thể cùng chung một phẩm giá vì đã được tái sinh trong Đức Kitô, cùng một ân huệ được làm con cái, một ơn gọi trở nên trọn lành, một ơn cứu độ và một niềm hy vọng duy nhất, và một đức ái không phân chia. Vì thế, trong Chúa Kitô và trong Giáo Hội không còn có sự hơn kém vì nguồn gốc hay dân tộc, vì địa vị xã hội hay vì nam nữ, vì anh em hết thảy đều là một trong Chúa Kitô” (Gal 3, 28) (LG số 32).

Trong Tông Huấn Người Tín Hữu Giáo Dân, Đức Gioan Phaolô II đã nói: “Không phải là quá đáng khi chúng ta quả quyết rằng toàn cuộc sống của người tín hữu giáo dân chỉ có mục đích là đưa họ đến nhận biết mầu nhiệm chính yếu của họ phát xuất từ phép Rửa tội, là bí tích Đức tin, để họ có thể sống nghĩa vụ theo ơn gọi Chúa đã chỉ định” (CL số 10).

Khi nói đến tông đồ người ta thường nghĩ hay chỉ nghĩ đến 12 tông đồ và những người kế vị các ngài là giám mục và nới rộng ra là linh mục, trong khi Sắc lệnh Tông đồ Giáo dân quả quyết: “Giáo dân có bổn phận và quyền làm tông đồ do chính việc kết hợp với Chúa Kitô là Đầu. Họ được chính Chúa chỉ định làm việc tông đồ, vì phép rửa tội tháp nhập họ vào Nhiệm Thể Chúa Kitô” (Sắc Lệnh Tông Đồ Giáo Dân “Apostolicam Actuositatem” (viết tắt AA), số 3).

Qua những trình bày trên chúng ta thấy phép rửa là cửa mở, là bước đầu, là nền tảng cho ơn gọi, sứ vụ và phẩm giá của mọi tín hữu không phân biệt thừa tác vụ hay bậc sống.

Về điểm này nhà thần học Yves Congar, chuyên viên của Công Đồng đã diễn giải khá khúc triết: “Linh mục, giám mục, giáo hoàng trước tiên phải là một tín hữu. Những vị đó phải lãnh nhận phép rửa để trở thành một Kitô hữu, để dâng hiến đời mình làm hy tế thiêng liêng, để rước Mình thánh, để lãnh nhận bí tích hòa giải, để được chúc phúc, để tiến hành việc cứu rỗi của mình. Họ không thể phân cách đời sống tôn giáo của mình trong tư cách một tín hữu với đời sống tôn giáo của mình trong tư cách nhiệm vụ đảm nhận, là nhiệm vụ linh mục hay giám mục”.[14]

Trong khi Hồng Y Suenens, một trong ba Điều Hợp Viên Công Đồng, như thường khi, đã nói một câu súc tích gợi ảnh và thường được trích dẫn: “Thời điểm tuyệt diệu nhất của đời một giáo hoàng không phải là khi được bầu hay được tấn phong, song là lúc được nhận lãnh phép rửa tội”.[15]

4. 1 - Ơn gọi theo bậc sống (state of life, état de vie)

Trên dây chúng ta đã nói về ơn gọi chung của mọi tín hữu, phát xuất từ phép rửa. Trong viễn ảnh Giáo Hội học chúng ta kể như có ba bậc sống trong Giáo Hội là; giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân. Tuy mọi tín hữu đều có cùng ơn gọi chung, là “xây dựng thân thể Chúa Kitô” (LG 32) song vì mỗi người đều chọn cho mình một bậc sống riêng, đó là ơn gọi theo bậc sống, và trong bậc sống mình đã chọn, mỗi người còn có ơn gọi riêng tùy theo ý hướng, lý tưởng, khả năng thiên phú, ơn đoàn sủng và nghề nghiệp mình ưa thích,…

Trong Hiến chế Lumen Gentium Chương II nói về toàn thể Dân Thiên Chúa, câu 11 sau khi nói về chức tư tế chung qua các bí tích, đã nói đến bậc sống linh mục là những người đã chịu chức thánh, và bậc sống giáo dân là những người sống trong trần thế, có hay không chịu phép hôn phối, đã kết luận: “Được ban cho những phương tiện cứu rỗi dồi dào như thế, mọi Kitô hữu dù ở địa vị nào, bậc sống nào, đều được Chúa kêu gọi đạt tới sự trọn lành thánh thiện như Chúa Cha trọn lành, tùy theo con đường của mỗi người”. Tùy theo con đường của mỗi người là tùy theo ơn gọi theo bậc sống và ơn gọi riêng của mỗi người.

Mọi tín hữu đều có ơn gọi chung với những đặc tính chung, song bênh cạnh những đặc tính chung ấy, mỗi tín hữu thuộc mỗi bậc sống đều có những đặc nét riêng của bậc sống mình. Sau đây Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội bàn về những đặc nét hoạt động trong ba bậc sống trong Giáo Hội: “Các phần tử có chức thánh dù đôi khi có thể lo những việc trần thế, hoặc hơn nữa, hành nghề giữa đời, nhưng vì ơn gọi đặc biệt, sứ vụ chính yếu và rõ rệt của họ vẫn là thừa tác vụ thánh. Phần các tu sĩ, do bậc sống của họ, làm chứng cách hùng hồn và cao quý rằng người ta không thể cải tạo thế giới và cung hiến nó cho Thiên Chúa được, nếu không có tinh thần các mối phúc thật. Vì ơn gọi riêng (có nghĩa là ơn gọi theo bậc sống), giáo dân có bổn phận tìm kiếm nước Thiên Chúa bằng cách làm các việc trần thế và xếp đặt chúng theo ý Thiên Chúa” (LG số 31).

Như vậy, trong tiểu luận này khi bàn thảo về “Ơn gọi Tông Đồ Giáo Dân”, là chúng ta một phần lớn đang bàn về “ơn gọi theo bậc sống” của người giáo dân khi so sánh với ơn gọi của bậc sống linh mục hay tu sĩ.

Sau khi nói đến phận sự làm tông đồ của bậc sống giáo sĩ, Công Đồng đã nói đến phận sự làm tông đồ của bậc sống giáo dân: “Còn phần giáo dân, vì họ tham dự thực sự vào nhiệm vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của Chúa Kitô, nên họ chu toàn phần việc của mình trong sứ mệnh của toàn dân Thiên Chúa trong Giáo Hội và ở giữa trần gian” (AA số 2).

Ơn gọi và sứ vụ tông đồ ấy không thể chỉ xem là một phận sự mà còn là một quyền. Sắc Lệnh Tông Đồ Giáo Dân viết: “Giáo dân có bổn phận và quyền làm tông đồ do chính việc kết hợp với Chúa Kitô là Đầu. Họ được chính Chúa chỉ định làm việc tông đồ, vì phép Rửa tội tháp nhập họ vào Nhiệm Thể Chúa Kitô, phép Thêm sức làm cho họ nên mạnh mẽ nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần” (AA số 3).

Nhưng mỗi cá nhân chúng ta đều phải xét đến ơn gọi riêng của mình, và đó là điều Giáo Hội đặt năng không kém.

4. 2 - Ơn gọi riêng của mỗi cá nhân

Nói về ơn gọi riêng của mỗi cá nhân, chúng ta nghĩ đến những điều Thiên Chúa muốn cho chúng ta chọn lựa và thi hành theo ý Chúa muốn đối với riêng mỗi chúng ta, tùy theo khả năng, đoàn sủng, dấn thân, những mỗi liên hệ với gia đình và người chung quanh,…

Thánh Phaolô vừa cắt nghĩa vừa khuyên bảo mỗi chúng ta hãy suy nghĩ để biết ơn gọi riêng của mình và thực hiện nó với nhiệt tâm và xứng hợp: “Dựa vào ân sủng Thiên Chúa đã ban cho tôi, tôi xin nói với từng người trong anh em: đừng đi quá mức khi đánh giá mình, nhưng hãy đánh giá mình cho đúng mức, mỗi người tùy theo lượng đức tin Thiên Chúa đã phân phát cho. Cũng như trong một thân thể, chúng ta có nhiều bộ phận, mà các bộ phận không có cùng một chức năng, thì chúng ta cũng vậy: tuy nhiều nhưng chỉ là một thân thể trong Đức Kitô, mỗi người liên đới với những người khác như những bộ phận của một thân thể. Chúng ta có những đặc sủng khác nhau, tùy theo ân sủng Thiên Chúa ban cho mỗi người. Được ơn làm ngôn sứ, thì phải nói sao cho phù hợp với đức tin. Được ơn phục vụ, thì phải phục vụ. Ai dạy bảo, thì cứ dạy bảo. Ai khuyên răn, thì cứ khuyên răn. Ai phân phát, thì phải chân thành. Ai chủ toạ, thì phải có nhiệt tâm. Ai làm việc bác ái thì vui vẻ mà làm” (Rm 12,3-8).

Đức Gioan Phaolô II bảo: “Thật vậy, Thiên Chúa đã nghĩ đến chúng ta từ thuở đời đời và Ngài đã yêu thương chúng ta như những con người duy nhất và bất khả thay thế… Người đã gọi mỗi chúng ta đích danh” (CL số 58).

Để thực hiện ơn gọi và sứ vụ của mình, Chúa Thánh Linh ban cho mỗi chúng ta những ơn khác nhau, và tùy các ơn ấy mà mỗi chúng ta lựa chọn ơn gọi cho chính mình. Những ơn đó gọi là đặc sủng đã được Phaolô giảng giải như sau: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung. Người thì được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy, người thì được Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để trình bày. Kẻ thì được Thần Khí ban cho lòng tin; kẻ thì cũng được chính Thần Khí duy nhất ấy ban cho những đặc sủng để chữa bệnh. Người thì được ơn làm phép lạ, người thì được ơn nói tiên tri; kẻ thì được ơn phân định thần khí; kẻ khác thì được ơn nói các thứ tiếng lạ; kẻ khác nữa lại được ơn giải thích các tiếng lạ. Nhưng chính Thần Khí duy nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách, tuỳ theo ý của Người” (Cr 12,4-11).

Đức Gioan Phaolô II mời gọi mỗi người chúng ta hãy lắng nghe tiếng gọi của Chúa gọi đích danh mình và rộng lượng đáp trả, vì “mỗi Kitô hữu là một hữu thể cá biệt không thay thế được”… “vì Đức Kitô đã gọi mỗi người trong chúng ta bằng tên riêng của họ, không lẫn lộn người này với người kia”. Lời mời gọi đó “dành cho từng người một: “Con, chính con, hãy vào làm việc trong vườn nho của Thầy” (CL số 28).

Tông huấn còn nói rằng “việc đào tạo tín hữu giáo dân nhằm mục tiêu cơ bản là tìm ra ơn gọi riêng của mỗi người.. để họ sống ơn gọi đó và chu toàn sứ vụ riêng của mình” (CL số 58). Ý thức về ơn gọi của mình, sẽ giúp mình biết phải sống thế nào, đang theo đuổi lý tưởng cùng mục tiêu nào, nhất là biết rằng ơn gọi cùng lý tưởng sống của mình cao đẹp không kém ơn gọi và lý tưởng của bất cứ ai trong bậc sống nào. Khi đó càng thấy khẩn thiết kêu cầu cùng Chúa ban cho mình biết sống thành toàn ơn gọi tông đồ giáo dân của mình, cũng như cầu nguyện cho ơn gọi của mọi người khác và thành phần khác.

5. Ơn gọi và sứ vụ vì là thành phần của Giáo Hội

Mượn lại lời của Đức Piô XII trong diễn văn đọc trước các Hồng Y mới nhậm chức ngày 20-02-1946, Đức Gioan Phaolô II xác định lại ơn gọi và sứ vụ của giáo dân vì là thành phần quan yếu hàng đầu của Giáo Hội: “Các tín hữu, nói một cách rộng hơn, là các giáo dân, là kẻ đứng ở mặt trận tiền phong trong đời sống của Giáo Hội. Nhờ họ, Giáo Hội trở nên nguyên lý sự sống cho xã hội loài người. Vì thế, chính họ phải ý thức ngày càng rõ rệt là họ không những thuộc về Giáo Hội mà là Giáo Hội, nghĩa là cộng đồng các tín hữu trên mặt đất, dưới sự hướng dẫn của vị thủ lãnh chung là Đức Giáo hoàng và các Giám mục hiệp thông với ngài. Họ là Giáo Hội” (CL số 9).

Không nên chỉ nhìn ơn gọi và sứ vụ của người tín hữu vì là thành phần của Giáo Hội dưới góc độ xã hội học hay định chế mà thôi, song để cho đầy đủ và toàn diện hơn phải nhận chân tính cách thần học, tín lý và bí tích của căn tính người tín hữu đã nhờ phép Rửa mà trở thành một thành phần của huyền nhiệm Giáo Hội, một chi thể trong Nhiệm thể của Đức Kitô. Công Đồng đã dùng cả hai Chương đầu của Hiến Chế Tín Lý để trình bày chân lý và mầu nhiệm ấy: Chương I: Mầu nhiệm Giáo Hội, Chương II: Dân Thiên Chúa.

5. 1 - Ơn gọi và phẩm giá vì là thành phần của mầu nhiệm Giáo Hội là Dân Chúa

Đọc lại những nhà khảo cứu lịch sử Giáo Hội học lúc đầu, giúp chúng ta trở về nguồn và hiểu thêm các thành phần Dân Chúa đã có những tương quan như thế nào.

Theo Alexandre Faivre, từ ngữ “klèros” mà bây giờ chúng ta dịch ra và hiểu là “giáo sĩ”, thì trong thời Tân Ước chỉ toàn Dân Chúa, chớ không chỉ riêng thừa tác viên; còn chữ “hiéreus” mà bây giờ chúng ta dịch và hiểu là “giáo phẩm”, thì Do thái giáo và truyền thống ngoại giáo chỉ là Thầy cả, Tư tế, trong khi truyền thống Kitô giáo thì chỉ dành để chỉ Đức Kitô hoặc toàn thể cộng đoàn Dân Chúa: “Trong Tân ước, từ ngữ “klèros” lại được áp dụng cho toàn Dân Chúa, chớ không dành riêng cho những thừa tác viên. Còn danh từ thường dùng trong Do Thái giáo và trong truyền thống thế giới ngoại giáo, nhằm để chỉ các vị Thầy cả, Tư tế = hiéreus, thì trong Kitô giáo, những sự kiện cho thấy có một sự khác biệt rất xa: không bao giờ chữ này được áp dụng cho các thừa tác viên, nhưng chỉ áp dụng cho Đức Kitô hoặc cho toàn cộng đoàn dân Chúa”.[16]

Nếu bây giờ chúng ta phân biệt và dịch chữ “laos” hay “laikos” ra là “giáo dân” và chữ”klèros” là giáo sĩ, thì trái lại theo nhà thần học Yves Congar “Chữ “laikos” không thấy được dùng ở đâu trong Thánh Kinh. Còn chữ ‘laos” thì rất được thường dùng trong Thánh Kinh, trong đó nó có nghĩa là “dân”, song không phải bất cứ là dân nào. Nó nhắm chỉ là dân của Chúa, “một dân thánh ngược lại với những dân không được thánh hiến”[17] … Và trình bày tiếp, Congar viết: “Không có một sự phân biệt nào giữa hai chữ “laos” và “klèros”.[18]

Trở về nguồn, Công Đồng Vatican II đã đặt nặng ý niệm Giáo Hội là Dân Chúa, và toàn thể Dân Chúa, từ đó xác định ơn gọi và sứ vụ, vị trí và phẩm giá của giáo dân như là thành phần thiết yếu hay một “phần” của Giáo Hội là Dân Chúa. Giáo dân như mọi tín hữu không phân biệt thành phần, sống ơn gọi và sứ vụ của họ không phải như là một phần phụ thuộc của giáo sĩ.

“Tinh thần của nền Giáo Hội học mới cho phép các Nghị phụ nói đến người giáo dân trong viễn ảnh của mối liên hệ của họ với mầu nhiệm của chính Giáo Hội và sứ vụ của Giáo Hội. Giáo dân được trình bày rõ ràng như là một phần của Giáo Hội. Họ không phải là một phần phụ thuộc hay phụ thêm vào Giáo Hội. Họ cũng không phải chỉ là đối tượng thừa tác vụ của giáo sĩ. Các Nghị phụ rời xa khỏi viễn ảnh tất cả quy về giáo sĩ trong đó giáo dân chỉ được xem là khách hàng của giáo sĩ. “Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội” Lumen Gentium cho thấy rằng khởi điểm và trung tâm điểm của thần học về giáo dân, giáo sĩ và tu sĩ phải là mầu nhiệm Dân Chúa, là Thân thể Đức Kitô”.[19]

Nói cho dễ hiểu, kể từ bây giờ Giáo Hội học không xem giáo sĩ như là trung tâm mà giáo dân là vệ tinh quay chung quanh, trái lại mầu nhiệm Giáo Hội như là Dân Chúa, như là Nhiệm Thể Chúa là trung tâm, và các thành phần giáo sĩ, tu sĩ, và giáo dân là vệ tinh quay chung quanh. Chính vì vậy mà Hồng Y Suenens nói rằng một thần học gia trong Công Đồng cho rằng đã có một cuộc cách mạng Copernic.[20] Nhà khoa học này, ngược lại những tin tưởng của thời ông, cho rằng trái đất quay chung quanh mặt trời chớ không phải mặt trời quay chung quanh trái đất như người ta lầm tưởng.

5. 2 - Ơn gọi và phẩm giá vì là thành phần của Giáo Hội Hiệp thông

Đức Gioan Phaolô II nhắc lại tài liệu của Thượng Hội Đồng năm 1987 nói rằng: “Giáo Hội học về hiệp thông là tư tưởng trung tâm căn bản của các văn kiện Công Đồng”… Sự hiệp thông này “chúng ta nhận được nhờ lời Chúa và qua các phép bí tích” (CL số 19). Chúng ta còn nhớ Công Đồng xác tín: “Thiên Chúa không muốn thánh hóa và cứu rỗi loài người cách riêng rẽ, thiếu liên kết, nhưng Ngài muốn quy tụ họ thành một dân tộc để họ nhận biết chính Ngài trong chân l&y

Các tin khác

VIDEO

  Bài 2: HIỆP HÀNH: Hiệp Thông - Tham Gia - Sứ Vụ | Thường huấn linh mục GP Ban Mê Thuột 2023

  Bài 1: Tầm Nhìn Hoàn Vũ | Thường huấn linh mục GP Ban Mê Thuột 2023

  ĐỨC TIN | Tròn Đầy & Trong Sáng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh

  Mục Vụ Văn Hóa: DANH - LỢI - NGHĨA | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh

  Cử Hành Phụng Vụ | Gặp Gỡ Chúa Kitô - Loan Báo Tin Mừng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn văn Hinh

  Thần Học Mục Vụ & Công đồng Vatican II: Con người - Giáo hội - Môi trường

  Hiệp Hành Hội Ý Dựng lại Mùa Xuân | Người Giáo dân Thiên niên kỷ mới

  Bài 4: Văn Hóa Tổ Chức - Đời Sống Cá Nhân

  Hiệp Hành Kín Đáo và Minh Bạch

  Văn Hóa Tổ Chức - Tổ Chức Cộng Đồng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh (Phần 3)

  Tìm hiểu về văn hóa (Phần 2) - Lm Gioan Kim Nguyễn Văn Hinh

  Tìm hiểu về văn hóa (Phần 1) - Lm Gioan Kim Nguyễn Văn Hinh

  TRỰC TUYẾN BÀI 29: MỤC VỤ THÁNH THIỆN THUẬN THEO

  TRỰC TUYẾN BÀI 28 : MỤC VỤ TÍCH HỢP VĂN HÓA ĐÔNG TÂY

  TRỰC TUYẾN BÀI 27 : MỤC VỤ LỜI CHÚA NGÀY NAY

  TRỰC TUYẾN BÀI : TÌM HIỂU VỀ VĂN HÓA VÀ BẢN SẮC VĂN HÓA VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 26: MỤC VỤ ĐẠO ĐỨC KINH TẾ DỊCH VỤ

  TRỰC TUYẾN BÀI 25: MỤC VỤ TUẦN THÁNH UY VÀ ĐỨC

  TRỰC TUYẾN BÀI 24: MỤC VỤ GIA TÀI CỦA MẸ

  TRỰC TUYẾN BÀI 23: MỤC VỤ BỔ VÀ TẢ

  mvgd20162016

  TRỰC TUYẾN BÀI 21: MỤC VỤ LUẬT CÂN BẰNG

  TRỰC TUYẾN BÀI 20: TRUY TÌM MÃNH LỰC

  TRỰC TUYẾN BÀI 19: THẾ GIỚI HÔM NAY CẦN NHỮNG NGƯỜI CHA NHÂN HẬU LÝ TƯỞNG VÀ THỰC TIỄN

  TRỰC TUYẾN BÀI 18: NĂM THÁNH THÁNH CẢ GIUSE LÃNH ĐẠO VÀ NIỀM TIN

  TRỰC TUYẾN BÀI 17: MỪNG XUÂN TÂN SỬU 2021 - LÒNG BIẾT ƠN TIN VUI ĐẠO ĐỨC VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 17: MỪNG XUÂN TÂN SỬU 2021 - LÒNG BIẾT ƠN TIN VUI ĐẠO ĐỨC VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 16: ĐỀ TÀI ĐIỂM TỰA

  TRỰC TUYẾN BÀI 14: VĂN HÓA KHÔNG NHẬN SAI NHƯNG SỬA SAI

  TRỰC TUYẾN BÀI 13: VUN TRỒNG NỀN VĂN HÓA “TÂM LINH – KHOA HỌC”

  TRỰC TUYẾN BÀI 12: NĂM MỚI 2021 XÂY DỰNG NỀN VĂN MINH TÂM LINH & KHOA HỌC

  TRỰC TUYẾN BÀI 11: GIÁNG SINH 2020 - LÀM NGƯỜi - GIÊSU

  TRỰC TUYẾN BÀI 10: PHÍA ĐẰNG SAU TÂM LINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 9: ĐỂ CÓ CHÚA THÁNH THẦN

  TRỰC TUYẾN BÀI 8: LOAN BÁO TIN MỪNG

  TRỰC TUYẾN BÀI 7: PHÒNG ĐÀO LUYỆN TÂM LINH CỦA TÍN HỮU DÂN CHÚA

  TRỰC TUYẾN BÀI 6: ĐÀO LUYỆN TÍN HỮU DÂN CHÚA

  TRỰC TUYẾN BÀI 5: TẦM NHÌN THIÊN NIÊN KỶ MỚI

  TRỰC TUYẾN BÀI 4: ĐÀO LUYỆN TÂM LINH BẮT ĐẦU TỪ THÁNH THỂ HAY THÁNH KINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 3: PHƯƠNG THỨC CẦU NGUYỆN CẢM NGHIỆM- SỐNG THÁNH GIỮA ĐỜI

  TRỰC TUYẾN: BÀI 2: GIẢI THÍCH ĐÀO LUYỆN TÂM LINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 1: ĐÀO LUYỆN TÂM LINH

  TintucVatican

  Thánh Lễ Tuyên Thánh Jacinta và Francisco Marto

  Muối và ánh sáng

  Thế Giới Nhìn Từ Vatican

  Nghi thức đóng Cửa Thánh

  Xin Mẹ Thương

  Thế Giới Nhìn Từ Vatican

  Suy Niệm với Đức Thánh Cha Phanxicô

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__3

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__1

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__2

  Thường huấn HĐMVGX Ban Mê Thuật

  Quốc tế thiếu nhi 01-6-2014

  Thể dục Dưỡng Sinh

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  CƠM TRƯA TRUNG THU 2013

  Thi đấu thăng cấp sơ đẳng Vovinam

  Khai mạc kỳ thi thăng cấp Vovinam

  Vovinam

  Đào luyện tâm linh

  Nghệ thuật cân bằng

  Đào Luyện Tinh Thần

  Đào Luyện Thể Chất

Bài viết mới
Mười hai lời khuyên của Đức Thánh Cha Phanxicô để trở thành người cừ khôi trong việc loan báo Tin Mừng
Mười hai lời khuyên của Đức Thánh Cha Phanxicô để trở thành người ...
Công bố tự truyện của Đức Thánh Cha Phanxicô
Công bố tự truyện của Đức Thánh Cha Phanxicô
Người dân Ai Len bỏ phiếu chống đề xuất sửa đổi định nghĩa về gia đình trong hiến pháp
Người dân Ai Len bỏ phiếu chống đề xuất sửa đổi định nghĩa ...
Mười một năm Giáo hoàng của Đức Thánh Cha Phanxicô
Mười một năm Giáo hoàng của Đức Thánh Cha Phanxicô