, ngày 05 tháng 05 năm 2024 | 07:12 PM - Giới thiệu | Ý nghĩa logo
Tài liệu

 

CÔNG ĐỒNG VATICANÔ 2 (TIẾP THEO)

MỘT KHÓE NHÌN TỔNG HỢP

 

 

[B]  SECOND VATICAN ECUMENICAL COUNCIL

MỘT KHÓE NHÌN TỔNG HỢP

R. Trisco and J. Komonchak

Bài trình bày khá dài này mang đến một tóm lược toàn diện về Công đồng chung Vatican II. Sau một dẫn nhập ngắn gọn, chất liệu được bày ra trong bốn phần chính: I. Những ủy ban chuẩn bị; II. Những qui luật và tiến hành; III. Những thời kỳ [Những khóa họp Công đồng: 1962-1965]; IV. Những công bố của công đồng.

Dẫn Nhập. Vào ngày 25 tháng Giêng, 1959, chưa đầy 100 ngày sau khi được tuyển chọn, trong một diễn từ phác họa những đường nét lớn cho triều giáo hoàng của mình, Đức Giáo hoàng Gioan XXIII nói cho một nhóm Hồng y tụ họp tại Nhà Thờ Thánh Phaolô ở Ngoại Thành rằng ngài muốn làm sống lại hai hình thức cổ xưa để phát biểu giáo lý và sắp đặt trật tự: ngài muốn triệu tập một hội nghị các Giám mục cho địa phận Roma và một công đồng chung cho GH phổ quát. Hai biến cố sẽ được theo sau bằng một cuộc cải cách Bộ Giáo Luật. Lời tuyên bố về một công đồng gây ngạc nhiên cho nhiều người Công giáo. Không có công đồng chung nào được triệu tập từ Công đồng Vatican I, và một số người trong Giáo hội có quan điểm rằng những định tín của Vatican I về quyền tối thượng và bất khả ngộ của Giáo hoàng khiến cho các công đồng chung khác thành thừa thãi. Cả Đức Piô XI lẫn Piô XII đã xem xét việc triệu tập lại Vatican I; nhưng dù đã làm những tham vấn và một số xem xét về một nghị sự đã khởi sự, thì cuối cùng cả hai Giáo hoàng đều quyết định không tiến hành.

Trong những diễn văn và sứ điệp khác nhau suốt năm tới, Đức Gioan XXIII đặt ra ba mục đích tổng quát cho Công đồng: (1) ngài muốn công đồng là một cơ hội canh tân thiêng liêng và sinh động lại GH để trung thành hơn với ý định của Đức Kitô và (2) để canh tân (aggiornamento) những thái độ mục vụ, thói quen, và những thể chế của GH để làm chúng nên hữu hiệu hơn trong những điều kiện thay đổi của thế giới tân tiến. Nếu hai mục tiêu này có thể thành đạt, thì Công đồng cũng có thể (3) mãnh liệt cổ xúy khôi phục sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu.

I. Những Ủy ban Chuẩn bị. Vào Chúa Nhật lễ Hiện Xuống, ngày 17 tháng Năm, 1959, Đức Giáo hoàng thiết lập một Ủy ban tiền chuẩn bị đứng đầu do Hồng y Tardini, với Đức ông Pericle Felici là thư ký, và gồm mười giáo sĩ giữ những chức vụ quan trọng trong Giáo triều Roma. Trách vụ của ủy ban này là tham khảo các giám mục của thế giới, những văn phòng của Giáo triều, và những phân khoa thần học và giáo luật của các đại học Công giáo để nghe họ cho ý kiến và đề xướng về nghị sự của công đồng. Họ cũng phải phác thảo những đường nét tổng quát cho những đề tài phải được thảo luận tại Công đồng và đề xướng những cơ quan khác nhau chuẩn bị chất liệu cho công đồng biểu quyết. Các giám mục và những người được tham khảo khác được hoàn toàn tự do đưa ra những đề nghị trong những lãnh vực giáo thuyết, kỷ luật, hoạt động mục vụ, và những vấn đề đương thời. Trên 75% những người được mời đã trả lời; những trả lời của họ đầy 15 tập sách lớn chia thành bốn bộ. Thật ý nghĩa, những đề xướng trải rộng từ những điều cao cả đến những chuyện tầm thường và phản ánh một tầm rất rộng gồm những viễn cảnh thần học và mục vụ; có những đề xướng chống lại bất kỳ thay đổi nào và những đề xướng lại mong đợi Công đồng sẽ là một cơ hội để cải cách lớn lao. Nếu phần đa các giám mục khá cẩn trọng và cụ thể (earth-bound) trong những đề xuất của mình, thì một phần bởi vì thời hạn ấn định cho những đệ trình của họ, và cũng một phần vì không rõ ràng gì mấy Đức Giáo hoàng Gioan muốn Công đồng phải ra sao (là gì) và làm gì.

Với đống chất liệu khổng lồ nhận được, ủy ban tiền chuẩn bị tìm được không dưới 9338 đề nghị; Để dễ dàng qui chiếu, ủy ban tổ chức theo những phân chia truyền thống về thần học tín lý và luân lý và cũng theo những sách và đề tài của Bộ Giáo Luật. Người ta niêm phong những đề xướng nhận được và chỉ những người được chính thức can dự vào việc chuẩn bị Công đồng mới được tham khảo mà thôi. Khi cấu trúc của sự chuẩn bị hình thành, những chất liệu được phân chia một lần nữa, được giản lược quyết liệt theo số lượng, và được trình bày theo hình thức những câu hỏi để học hỏi thêm nữa.

Vào lễ Hiện Xuống, ngày 5 tháng Sáu, 1960, Đức Gioan XXIII công bố cơ cấu của thời kỳ chuẩn bị. Mười ủy ban được thành lập để soạn thảo những bản văn cho Công đồng xem xét: (1) về những vấn đề đức tin và luân lý (ủy ban thần học); (2) về giám mục và sự cai quản các địa phận; (3) về kỷ luật của giáo sĩ và dân Kitô hữu; (4) về các tu sĩ; (5) về kỷ luật các bí tích; (6) về phụng vụ; (7) về nghiên cứu và các chủng viện; (8) về các giáo hội đông phương; (9) về truyền giáo; (10) về việc tông đồ giáo dân. Hơn nữa, Đức Giáo hoàng thiết lập hai văn phòng thư ký (secretariat), một dành cho những phương tiện truyền thông và một để cổ xúy sự hiệp nhất của các Kitô hữu mà, người ta nói, làm cho những người ngoài Công giáo có thể theo dõi công việc của Công đồng.Một Ủy ban Trung ương cũng được thiết lập để giám sát và điều phối công việc của các ủy ban khác, để duyệt lại những bản văn mà họ chuẩn bị và đệ trình chúng lên Giáo hoàng để thành nghị sự của công đồng, và để soạn thảo những qui luật để điều hành công việc của Công đồng.

Mười ủy ban ấy được chủ trì do những Hồng y-đứng đầu những văn phòng tương ứng trong Giáo triều Roma; những người trong giáo triều cũng phục vụ như các thư ký trong hầu hềt các ủy ban ấy. Những nhân sự của các ủy ban bao gồm những thành viên và những tham vấn viên; những người trước (thành viên) có quyền bỏ phiếu, còn những người sau góp ý khi được hỏi đến. Ta ghi nhận, giữa những thành viên và tham vấn viên có một số thần học gia đã từng bị xoi mói hay là những người chịu những biện pháp kỷ luật suốt thập niên trước. Giữa họ là Yves Congar, Henri de Lubac, Bernard Haring, và Karl Rahner. Không phụ nữ hay người giáo dân nào được chỉ định vào những ủy ban chuẩn bị.

Những ủy ban bố trí làm việc dựa trên những câu hỏi được ủy ban tiền chuẩn bị đề xướng, mặc dù họ được phép đề nghị thêm những câu hỏi khác. Công việc chuẩn bị gặp phải sự thiếu giám sát và hầu hết các ủy ban thất bại để cộng tác vào những vấn đề chung hay có liên hệ. Ủy ban Thần học, được Hồng y Alfredo Ottaviani đứng đầu, tăng thêm vấn đề bằng cách nhấn mạnh rằng chỉ một mình ủy ban đó có trách nhiệm đối với những câu hỏi giáo lý mà thôi. Vì không đi vào những vấn đề mục vụ thực tiễn, nên ủy ban này hy vọng tất cả các ủy ban khác phải đệ trình cho mình bất kỳ và tất cả những vấn đề về giáo lý. Khi diễn đạt khác nữa về quan điểm liên quan đến quyền tối cao của mình, Ủy ban Thần học từ chối cộng tác với những ủy ban khác và cách riêng với Văn phòng thư ký cho sự hiệp nhất Kitô hữu. Khi làm ngơ sự thiếu phối hợp này, người ta đồng hiểu ngầm cái bí quyết thuộc giáo hoàng vốn được giả định vây quanh công việc của các ủy ban là cấm nói về công việc của ủy ban mình, thậm chí với những thành viên của các ủy ban khác.

Các ủy ban mang đến trước Ủy ban Trung ương cả thảy 75 bản văn được chọn ra sau này, một số được gởi trả lại cho việc cải cách giáo luật sau công đồng, một số được nối kết với những bản văn khác, hầu cuối cùng tổng cộng có 22 lược đồ được coi là thích hợp cho công đồng thảo luận. Những bản văn được các ủy ban mục vụ chuẩn bị nói chung rất gần sát với thực tại; chúng đề nghị những thay đổi nhỏ trong những nguyên tắc giáo luật và kỷ luật thôi; rất ít hiển nhiên rằng các ủy ban đã xem xét những thảo luận nghiêm trọng về xã hội học và thần học của hoạt động mục vụ mà đang tiếp tục xẩy ra trong ba thập niên. Một luật trừ cho bản miêu tả này là Ủy ban về Phụng vụ thánh mà các thành viên của nó gồm nhiều học giả quan trọng nhất trong phong trào phụng vụ; họ quyết định đảm nhận nghiên cứu nghiêm chỉnh về lịch sử và thần học về những đề tài khác nhau mà họ đề cập và vì vậy có thể chống đỡ những đề nghị của họ về cuộc cải cách ý nghĩa về phụng vụ bằng những luận chứng hữu hiệu.

Ủy ban Thần học chuẩn bị tám bản văn: một văn thức tuyên xưng đức tin mới, muốn được dùng vào lúc khai mạc công đồng, và bẩy hiến chế: (1) về những nguồn mạc khải, (2) về trật tự luân lý, (3) về việc bảo vệ kho tàng ký gởi đức tin, (4) về thanh khiết, đời trinh khiết, hôn nhân và gia đình, (5) về GH, (6) về Đức Trinh  Nữ Maria, và (7) về cộng đoàn các quốc gia và trật tự xã hội. Chung chung, những bản văn này muốn xác quyết với quyền bính cao nhất của công đồng những định hướng và những nhấn mạnh vốn làm đặc trưng huấn quyền của giáo hoàng suốt một thế kỷ rưỡi trước, cách riêng khi những điều này được diễn đạt tại Vatican I, trong những văn kiện chống chủ thuyết tân đại (modernism), Pascendi và lamentabili, và trong thông điệp Humani generis. Cung điệu chung của chúng rất tự vệ, nghi ngờ hầu hết những phong trào mới đây của việc canh tân thần học trong thần học tín lý và luân lý và trong những nghiên cứu kinh thánh, và may mắn, dửng dưng với những hàm ẩn đại kết.

Suốt thời kỳ chuẩn bị, văn phòng Thư ký về sự Hiệp nhất Kitô hữu, được Hồng y Augustin Bea chủ trì; ngài đại diện một khái niệm khác về điều mà công đồng có thể làm và cách thức công đồng có thể làm. Rất sớm, văn phòng này được Đức Giáo hoàng Gioan cho phép chuẩn bị các bản văn hầu thức tỉnh các ủy ban khác tới những chiều kích đại kết trong những chủ đề khác nhau. Khi những nỗ lực của văn phòng này để cộng tác với Ủy ban Thần học bị cự tuyệt, văn phòng bắt đầu chuẩn bị các bản văn mà Đức Giáo hoàng đã nói rốt cục có thể mang tới cho chính Công đồng. Một số trong những băn văn của văn phòng thư ký này bàn những vấn đề cũng được Ủy ban thần học xem xét; giữa chúng là những bản văn về Lời Chúa, tư cách thành viên trong GH, quyền bính phẩm trật, và tự do tôn giáo. Những bản văn này được viết nhằm vượt thắng những hiểu lầm về giáo lý công giáo về phía những Kitô hữu khác, nhằm khai phá những khóe nhìn của họ với sự đồng cảm, và nhằm đề xướng những cách hiểu và xác quyết giáo lý Kitô hữu mà đi xa hơn những ngõ cụt luận chiến.

Tất cả những bản văn này do các ủy ban chuẩn bị viết bị đem ra duyệt xét trước Ủy Ban Trung Ương, gồm những Hồng y và Tổng giám mục từ khắp thế giới và gặp trong sáu cuộc họp giữa ngày 12 tháng Sáu, 1961 và ngày 20 tháng Sáu, 1962. Những thành viên của ủy ban này miễn cưỡng không phê bình những bản văn được chuẩn bị và cống hiến những sửa đổi. Nếu người ta biết phẩm chất và sự mạnh mẽ của những cuộc thảo luận trong Ủy Ban Trung Ương, công chúng có thể dự liệu trước bi kịch mở ra khi một vài bản văn này được đưa ra diễn đàn công đồng. Người ta đề xướng những phê bình và sửa đổi; tất cả được quy về cho một tiểu ban; rồi công việc của tiểu ban này lại phải được toàn thể Ủy Ban Trung Ương duyệt lại; thời giờ không cho phép bước cuối cùng này và như vậy bản văn đưa ra trước Công đồng như được thay đổi hay không được thay đổi do tiểu ban đó.

II. Những Qui Luật và Bước tiến hành. Nhờ vào motu proprio [tự sắc] Appropinquante Concilio(ngày 6 tháng Tám, 1962), Đức Gioan XXIII đặt ra những quy luật điều hành bước sắp đặt của Công đồng. Đối với việc điều khiển những hội nghị chung, mà trong đó phải thảo luận và bỏ phiếu những sắc lệnh được đề xướng, ngài thiết lập một ban gồm 10 chủ tịch, tất cả đều là Hồng y; họ phải giám sát cuộc thảo luận và gìn giữ kỷ luật, mỗi ngày một người chủ tọa. Ngài cũng thiết lập 10ủy ban vốn là như nhau với những ủy ban trong giai đoạn chuẩn bị, mặc dù ủy ban đầu tiên nay được gọi là Ủy ban về Học thuyết Đức tin và Luân lý, và ủy ban cuối cùng nay phụ trách những vấn đề không chỉ thuộc về tông đồ giáo dân nhưng còn cả các phương tiện đại chúng và giải trí. Văn Phòng Thư ký cổ xúy Hiệp Nhất Kitô hữu, Ủy ban kỹ thuật-tổ chức, và Văn phòng thư ký tài chánh được mang sang, và vào phút chót Giáo hoàng thêm một Văn phòng về những việc lạ thường vốn sẽ xem xét những vấn nạn mới được các nghị phụ đề xướng. Ngoài vị chủ tịch được Đức Giáo hoàng bổ nhiệm, mỗi ủy ban công đồng gồm 24 thành viên, hai phần ba được các nghị phụ chọn và phần còn lại do Giáo hoàng tuyển lựa; điều này biểu thị một sự thay đổi với Vaitan I, ở đó tất cả các thành viên của các ủy ban công đồng đều được hội nghị chọn lựa. Tiếng Latinh được dùng trong những khóa họp công cộng và những hội nghị chung. Những diễn từ của từng nghị phụ không được kéo dài quá 10 phút. Cần phải được đa số gồm hai phần ba số người hiện diện phê chuẩn cho mọi vấn đề. Một vài điều khoản này sau này sẽ được thay đổi theo ánh sáng kinh nghiệm của công đồng.

Vào ngày 23 tháng Bẩy, 1962, Văn phòng Tổng thư ký của Công đồng, với Tổng Giám Mục Pericle Felici tiếp tục đứng đầu, gởi đến các nghị phụ tập sách thứ nhất chứa đựng những bản văn sẽ được thảo luận vào khóa họp thứ nhất của Vatican II. Nó chứa đựng những bản nháp sau đây: (1) về những hiến chế tín lý về các nguồn mạc khải. (2) về việc bảo vệ kho Đức tin, (3) về trật tự luân lý Kitô hữu, (4) về đức thanh khiết, hôn nhân, gia đình và khiết tịnh, (5) về phụng vụ thánh, (6) về phương tiện đại chúng, và (7) về sự hiệp nhất của GH (bàn đến những GH công giáo Đông phương). Người ta không được biết tại sao từ đống chất liệu được chuẩn bị bẩy bản văn này được chọn cho nghị sự đầu tiên của công đồng. Người ta giải thích ở đây không có bản nháp về một hiến chế tín lý về GH và về Nữ Trinh Maria bằng sự kiện rằng những duyệt xét cuối cùng và biên soạn hai bản văn này không được hoàn tất khi Công đồng khai mạc. Một tập sách thứ hai sẽ được phân phát cho các nghị phụ chỉ vào đầu tháng Mười Một.

Mục đích đại kết của công đồng được phản ánh bằng những lời mời được gởi tới những GH và cộng đoàn Kitô hữu lớn. Những đại diện của họ được phép tham dự không chỉ những khóa họp công khai song cả những hội nghị chung (khoáng đại); tuy thế, họ không có quyền bỏ phiếu và phát biểu; dẫu sao, họ có thể góp quan điểm cho những ủy ban qua Văn phòng về Hiệp Nhất Kitô hữu và qua những tiếp xúc cá nhân với các nghị phụ. Thật là thất vọng lớn khi phần nhiều các GH chính thống không được đại diện trong khóa họp đầu tiên, nhưng một quyết định được thực hiện ở cuộc họp liên các GH chính thống ở Rhodes năm 1961 đã quyết định một trả lời chung. Tuy nhiên, vào chính ngày trước công đồng, tòa Thượng Phụ Moscow đã "phá rào" và quyết định gởi đại biểu. Những đại biểu của Thương Phụ Constantinople không tham dự Công đồng cho tới khóa họp thứ ba. Đại diện Đại kết tại công đồng gia tăng từng năm; 17 nhóm Chính Thống và Tin Lành được đại biểu bằng 35 quan sát viên và khách mời ở khóa thứ nhất, trong khi ở khóa thứ tư có tới 93 đại biểu cho 28 nhóm.

Lời công bố Công đồng và những năm chuẩn bị tạo nên mối quan tâm rộng khắp cả trong lẫn ngoài GH công giáo. Một khối lượng những khảo sát và nghiên cứu lịch sử về 20 công đồng trước kia rộ lên mạnh mẽ, cùng với những công trình biên khảo về những đề tài có thể được thảo luận tại Vatican II, đặc biệt trong những lãnh vực phụng vụ và GH học. Những khảo sát về những ước ao và mong mỏi của những người Công giáo với Công đồng được xuất bản, và một vài tác giả xuất bản những đề xướng cho một nghị sự cải cách.

Mùa xuân 1962, một vài thành viên quan trọng của Ủy Ban Trung Ương, giữa họ là các hồng y Suenens (Maline-Brussels) và Leger (Montreal) và Tổng Giám mục Dennis Hurley (Durban, South Africa) [xem bài viết liên quan đến cuộc phỏng vấn ngài năm 2000], viết cho Đức Giáo hoàng Gioan và diễn đạt họ lo rằng những mục tiêu mục vụ và đại kết mà ngài phác họa cho Công đồng có thể không được đáp ứng dựa trên những bản văn của Ủy Ban Trung Ương đã duyệt xét. Những lo sợ như thế lan truyền khi đặc tính của những bản văn chính thức trở nên được biết đến rộng rãi hơn. Có một sự hiểu biết nào đó rằng Công đồng, mà người ta không mong kéo dài hơn hai khóa, sẽ chấp nhận mau chóng những văn kiện được đặt trước các nghị phụ. Khi các giám mục bắt đầu tụ họp tại Roma vào tuần thứ hai của tháng Mười, 1962, những lo sợ và hy vọng đối nghịch nhau chia rẽ họ.

III. Những Thời kỳ. Công đồng Vatican II nhóm họp thành bốn thời kỳ hay bốn khóa họp: từ 11 tháng Mười đến mồng 8 tháng Mười Hai, 1962; từ 29 tháng Chín tới mồng 4 tháng Mười Hai, 1963; từ 14 tháng Chín tới 21 tháng Mười Một, 1964; và từ 14 tháng Chín đến mồng 8 tháng Mười Hai, 1965.

Suốt bốn năm của Vatican II, 3058 nghị phụ tham gia, cho đến nay là con số lớn nhất trong lịch sử của các công đồng chung. Ngoài 129 bề trên tổng quyền của những dòng tu giáo sĩ, con số của họ và phần trăm của những người hiện diện, được xếp loại theo lục địa là: Âu châu 1060 (36%); Nam Mỹ 531 (18%); Bắc Mỹ 416) (14%); Á châu 408 (14%); Phi châu 351(12%); Trung Mỹ 89 (3%); và Châu Đại dương 74 (3%). Sự tham gia của những người có quyền tham dự thay đổi. Mức cao nhất ở vào khóa một (84.34%) và khóa bốn (84.88%); 82.34% tham dự khóa hai và 80.23% khóa ba. Những con số này lẽ ra cao hơn nữa nếu nhiều giám mục từ các quốc gia dưới sự cai trị của Công Sản được phép tham dự.

A. Thời kỳ thứ nhất. Thời kỳ sâu sắc nhất trong bốn thời kỳ của Công đồng khai mạc với nghi thức long trọng được các đại biểu tham dự của 86 chính phủ và cơ quan quốc tế. Trong diễn từ khai mạc Đức Giáo hoàng Gioan XXIII không đồng ý với "những ngôn sứ bi quan luôn tiên báo tai ương"; trái lại, ngài khuyên nhủ các nghị phụ xem xét lại, không thể coi xem TC không ban những cơ hội mới cho GH hay sao. Ngài muốn Công đồng không chỉ bảo vệ nhưng còn xem cách nào để hiểu và trình bày gia sản đức tin cho người đương thời; vì mục đích này ngài phân biệt giữa bản chất đức tin và cách thức trong đó đức tin được kết nối (articulate); ngài thúc đẩy một mục tiêu mục vụ và sử dụng những phương pháp khảo cứu và những hình thức văn chương của tư duy tân tiến. Đối diện với những sai lầm ngài khuyên các nghị phụ tránh kết án; thay vào đó, minh chứng giáo lý của Giáo hội có giá trị tích cực. Ngài nhấn mạnh đến bổn phận phải làm việc tích cực để hoàn thành mầu nhiệm hiệp nhất với những Kitô hữu khác cũng như với những người ngoài Kitô giáo. Đối với những người quen thuộc với chất liệu chuẩn bị, có vẻ Đức Giáo hoàng tuyên bố ngài không mãn nguyện với những lược đồ chính thức và đề xướng rằng Công đồng phải thừa hưởng một lối tiếp cận khác [x. W. Abbott, ed., The Documents of Vatican II, diễn từ khai mạc của Đức Gioan XXIII, pp. 710-719.]

Hội nghị chung đầu tiên (13 tháng Mười, 1962) có những hệ quả vĩnh viễn đối với Công đồng. Bởi lẽ, thay vì tiến hành ngay, như đã được hoạch định, để chọn 16 thành viên cho mỗi ủy ban với những danh sách gồm những thành viên và tham khảo viên của những ủy ban chuẩn bị đã chết rồi để hướng dẫn mình, thì theo đề nghị của Hồng y Achille Liénart (Lille) và của Hồng y Josef Frings (Cologne), Công đồng đã ngừng họp sau một ít phút để cho phép có nhiều giờ hơn để tham khảo giữa những giám mục của nhiều quốc gia hay vùng khác nhau. Do vậy, những hội đồng giám mục quốc gia hay vùng quyết định để tiến cử một hay hai ứng viên của mình cho mỗi ủy ban. Trong hội nghị chung lần thứ hai (16 tháng Mười), trước khi các nghị phụ bỏ thăm, một danh sách hỗn hợp của tất cả những ngưởi được chỉ định. Bằng cách này các ủy ban trở nên hầu như đại diện của toàn hội nghị và không chỉ vĩnh viễn hóa não trạng của các ủy ban chuẩn bị mà đã phần lớn được thống trị do những người của Giáo triều và đã có thể được kỳ vọng chỉ là bảo vệ những bản văn mà nhiều nghị phụ coi là không thể chấp nhận được. Tuy nhiên, tính nối tiếp được đảm bảo bởi Giáo hoàng chỉ định một số Hồng y trong giáo triều vốn đã từng chủ sự những ủy ban chuẩn bị tương ứng làm chủ tịch của những ủy ban công đồng. Sự trì hoãn những cuộc bầu cử này là một tín hiệu đầu tiên rằng các nghị phụ sẽ lãnh trách nhiệm của mình đối với Công đồng, và những tham vấn được đảm nhận thiết lập tầm quan trọng của sự cộng tác trong và giữa những hội đồng giám mục đối với Công đồng.

Trong thời kỳ đầu tiên, Công đồng thảo luận những lược đồ về phụng vụ, về những nguồn mạc khải, về phương tiện đại chúng, về sự hiệp nhất của GH, và về GH. Những cuộc thảo luận sôi nổi xẩy ra về những đề xuất của lược đồ phụng vụ cho phép dùng nhiều hơn những ngôn ngữ mẹ đẻ, thực hành việc hiệp lễ dưới hai hình thức cũng như đồng tế nhiều hơn, và cho những hội đồng giám mục thẩm quyền lớn lao hơn trong những vấn đề phụng vụ. Cuộc tranh cãi lâu dài đi tới kết thúc bằng một cuộc bỏ phiếu về những nguyên lý tổng quát được đặt ra trong bản nháp. Đa số áp đảo của các nghị phụ (2162 thuận trước 46 chống) cho thấy chính họ sẵn sàng khởi sự cuộc cải cách Giáo hội có ý nghĩa.

Cuộc tranh cãi quan trọng thứ hai liên quan đến lược đồ về những nguồn mạc khải vốn tập trung vào hai câu hỏi: mối tương quan giữa Kinh thánh và Truyền thống cũng như giá trị của những phương pháp phê bình lịch sử tân thời trong việc giải thích Kinh thánh. Bản văn đó bị phê bình mạnh mẽ vì cung điệu tiêu cực của nó cũng như thiếu bén nhạy về đại kết và mục vụ, vì việc làm lắng dịu một cách không trưởng thành vấn đề tranh cãi hợp pháp xem có phải tất cả những chân lý mạc khải được tìm thấy trong Kinh thánh hay không và do việc nhìn xem với sự nghi ngờ (soi mói) như thế những vấn đề được phát hiện do giới học giả kinh thánh tân thời vốn sẽ ngăn cản bất kỳ sự đóng góp hiệu quả nào của Công giáo. Những người bảo vệ bản văn này lý luận rằng vấn đề tín lý đã được ổn định tại Công đồng Trentô và do giáo huấn chung sau đó; họ lý luận rằng đức tin bị nguy hiểm do những sách và bài viết nghi vấn sử tính của Cựu ước và Tân ước. Một cuộc bỏ phiếu xẩy ra xem nên gián đoạn cuộc tranh cãi hay tiếp tục nó với những thảo luận về từng chương. Mặc dù cuộc bỏ phiếu không tiếp tục (1368 trên 822) không đạt tới đa số hai phần ba cần thiết, thì để tránh cuộc tranh cãi kéo dài có lẽ vô bổ, Đức Giáo hoàng đã dừng cuộc thảo luận và gửi bản văn lại cho một ủy bản đặc biệt để viết lại dưới sự chủ tọa liên kết của các Hồng y Ottaviani và Bea. Quá rõ là một đa số đáng kể của các nghị phụ muốn soạn thảo những bản văn khác có hướng chiều và mục đích khác với những gì được Ủy Ban Thần học soạn thảo. Giáo hoàng đã ủng hộ họ.

Bởi chưng Công đồng đã minh chứng rõ ràng những quan tâm mục vụ và giáo thuyết, nên phần còn lại của giai đoạn một cách nào đó hạ nhiệt. Vào cuối [giai đoạn I] một ít ngày được dành cho một cuộc thảo luận sơ khởi về lược đồ về GH, được chung chung coi là công việc chính và chủ đề cốt lõi của toàn Công đồng. Bản văn chính thức chịu cả một loạt những phàn nàn vốn nay đã thành quen thuộc, và thậm chí không có một sự bỏ phiếu chính thức, người ta cũng hiểu rằng bản văn sẽ phải duyệt lại cách cốt yếu. Thực thế, điều đó minh chứng số phận của tất cả mọi lược đồ đã được chuẩn bị là thế. Vào ngày 6 tháng Mười Hai, 1962, được loan báo rằng Đức Giáo hoàng chỉ định một ủy ban điều phối, đứng đầu là Hồng y Amleto Cicogna;  ngài có trách vụ duyệt lại những bản văn nháp được chuẩn bị cho Công đồng, và theo ánh sáng của những mục tiêu của công đồng như được Giáo hoàng Gioan xác quyết và được phê duyệt bởi những đầu phiếu của Công đồng, để quyết định cái gì phải được giữ lại trong nghị sự của công đồng, cái gì có thể được để lại cho những quyết định hậu-công đồng, và cái gì thay đổi trong nội dung, phương pháp, hay giọng điệu cần thiết phải được thực hiện. "Thứ siêu ủy ban" này mau chóng giản lược những bản văn phải được giữ lại là 17 [lược đồ], lược đồ cuối cùng của chúng là một lược đồ mới, được Hồng y Suenens bảo vệ cách đặc biệt, để bàn đến sự hiện diện của GH trong thế giới tân tiến. Suốt thời gian nghỉ gián đoạn ở giữa, những ủy ban công đồng đảm trách điều được gọi là "một cuộc chuẩn bị thứ hai" của Vatican II.

Thời kỳ thứ nhất chấm dứt mà không phê chuẩn một lược đồ nào, nhưng những quyết định được làm tại công đồng quyết định hướng chiều của toàn thể dòng Vatican II. Những người và mục đích vốn đã phần lớn thống trị việc chuẩn bị Công đồng đã được thay thế; những nhà lãnh đạo mới nay theo đuổi những mục tiêu phần lớn bị lãng quên suốt thời gian chuẩn bị.

Với cái chết của Đức Gioan XXIII vào ngày mồng 3 tháng Sáu, 1963, Công đồng và tất cả những hoạt động liên quan đến công đồng tự động bị treo lại. Nhưng, ngày sau khi được tuyển chọn (ngày 22 tháng Sáu), Đức Giáo hoàng Phaolô VI hứa rằng Công đồng sẽ lại tiếp tục và theo đuổi những mục tiêu được vị tiền nhiệm của mình đặt ra. Năm ngày sau ngài xác định ngày khai mạc thời kỳ thứ hai vào ngày 29 tháng Chín.

B. Thời Kỳ thứ hai. Trước khi các nghị phụ được triệu tập lại, Đức Phaolô VI phát hành một bản hiệu đính về Ordo Concilii ... celebrandi hầu sửa chữa một số khuyết điểm trong tổ chức và tiến hành được nhìn ra trong thời kỳ thứ nhất và giải quyết những lao nhọc và đảm bảo sự tự do của những người tham dự. Ngài bỏ đi Văn Phòng Thư Ký (Secretariat) về những vụ việc phi thường và khuyếch đại tới 12 thành viên của ban chủ tịch. Họ có bổn phẩn là coi xem những quy luật được tuân giữ đúng đắn và giải quyết bất kỳ những nghi ngờ cuối cùng nào và loại đi những khó khăn. Ngài cũng chỉ định bốn Hồng y Agagianian, Chủ tịch (Prefect) của Bộ Truyền bá Đức tin; Giacomo Lercaro (Bologna); Julius Dopfner (Munich và Freising); và Leo Joseph Suenens (Malines-Brussels) làm điều hành viên, để thay phiên hướng dẫn những cuộc thảo luận trong những phiên họp chung. Đức Giáo hoàng cũng làm một vài thay đổi khác trong những qui luật tiến hành, chẳng hạn giảm xuống tới 50 phần trăm cộng một đa số cần thiết để chống lại hay trì hoãn một lược đồ hay một phần của lược đồ, và cho phép một nghị phụ nói nhân danh những nghị phụ khác.

Để cải tiến và trải rộng những dịch vụ thông tin, mà về điều ấy đã có nhiều phàn nàn suốt thời kỳ thứ nhất, Đức Phaolô VI chỉ định một Ủy Ban Báo Chí (Press Commission) được Tổng Giám Mục Martin J. O'Connor lãnh đạo. Giáo hoàng gia tăng con số của những quan sát viên không Công giáo được mời tới Công đồng, và hơn 31 người hiện diện ở thời kỳ thứ hai so với thời kỳ thứ nhất. Đức Gioan XXIII đã mời một người giáo dân Công giáo, Jean Guitton, tới phần sau của thời kỳ thứ nhất; Đức Phaolô VI cung cấp một số dự thính viên giáo dân tham dự trong những phiên họp chung và xin họ giúp đỡ các ủy viên; thêm vào Guitton, 10 giáo dân khác từ những quốc gia khác nhau, mà phần lớn đại diện những cơ quan Công giáo quốc tế, được chào đón ở đầu thời kỳ mới ấy.   

Vào khóa họp chung đã khai mạc thời kỳ thứ hai vào ngày 29 tháng Chín, 1963, Đức Phaolô VI đọc một diễn từ đáng nhớ trong đó ngài nhấn mạnh bản chất mục vụ của phiên họp và biệt định bốn mục tiêu của nó: (1) xác định đầy đủ hơn ý niệm GH, cách riêng về vị trí của các giám mục; (2) canh tân GH; (3) cổ võ khôi phục sự hiệp nhất giữa hết thảy các Kitô hữu [ngài xin những người không phải Công giáo tha thứ cho những người Công giáo vì lỗi của họ trong những cuộc ly khai và bỏ qua những tổn hại được làm cho những người Công giáo]; và (4) khởi sự cuộc đối thoại với thế giới đương thời.    

Những thảo luận của công đồng bắt đầu với lược đồ đã được hiệu đính về GH. Cuộc tranh cãi sôi nổi nảy sinh từ cuộc thảo luận về tính tập đoàn của các giám mục và mối tương quan của nó với quyền tối thượng của Giáo hoàng đã được định tín tại Vatican I theo lược đồ. Vào ngày 30 tháng Mười, những điều hành viên, dùng một tiến trình không được dự tính trong Ordo, đặt bỏ phiếu thuận cho sự hướng dẫn của Ủy Ban Tín Lý năm mệnh đề được chứa đựng cách cốt yếu trong chương ba của lược đồ. Bốn trong chúng liên quan đến tính bí tích của chức giám mục (episcopate) và đặc tính tập đoàn cũng như thẩm quyền của nó; còn mệnh đề thứ năm liên quan đến việc khôi phục chức phó tế như một bậc vĩnh viễn. Cả năm mệnh đề này nhận được đa số hơn hai phần ba, do vậy loại bỏ mọi nghi ngờ về khuynh hướng cấp tiến của Công đồng. Nhưng đặc tính "bất thường" của những bỏ phiếu được gợi lên nhiều lần sau đó để nghi ngờ về tính giá trị của chúng.    

Cũng về lược đồ GH, một sự phân rẽ nữa giữa các nghị phụ xuất hiện về câu hỏi xem lược đồ về Đức Nữ Trinh Maria nên là một bản văn riêng hay được tháp vào trong lược đồ GH. Sau một cuộc tranh cãi mạnh mẽ, câu hỏi phải được bỏ phiếu vào ngày 29 tháng Mười và bằng số chênh lệch suýt soát nhất trong tất cả những nghị quyết (1114 với 1074), hội nghị quyết định tháp nhập nó vào trong hiến chế về GH.   

Trong cuộc thảo luận về lược đồ về các giám mục và cai quản địa phận (ngày 5-15 tháng Mười Một), một trong những đối kháng sâu sắc hiếm hoi của Công đồng xẩy ra khi Hồng y Frings thẳng thắn phê bình những phương pháp của Tòa Thánh; Hồng y Ottaviani, thư ký của văn kiện, kịch liệt bảo vệ chúng. Ba chương đầu của lược đồ về đại kết được thảo luận (18 tháng Mười Một đến mồng 2 tháng Mười Hai) và được phê chuẩn với điều kiện duyệt lại, nhưng, nhiều nghị phụ sửng sốt, mọi hoạt động trên chương bốn (về thái độ của GH đối với những người ngoài Kitô hữu và cách riêng với người Do thái) và chương năm (về tự do tôn giáo) được hoãn lại tới thời kỳ thứ ba, được vịn vào lý do thiếu giờ xem xét cách chín chắn.   

Ngày 21 tháng Mười Một, Đức Giáo hoàng công bố rằng số thành viên của mỗi ủy ban sẽ được tăng lên 30. Sau khi những hội đồng giám mục đề cử những ứng viên, các nghị phụ lại lựa chọn phần lớn hơn của những thành viên mới vào ngày 28 tháng Mười Một, và Giáo hoàng chỉ định phần còn lại. Các ủy ban lựa chọn phó chủ tịch và thư ký mới. Mục đích được công khai nhìn nhận của những thay đổi này là để giải quyết những lao nhọc của các ủy ban, nhưng dường như chúng cũng nhằm giúp mang một số ủy ban ngoan cố vào trong sự hòa hợp lớn lao hơn với những ước muốn của phần đa công đồng.    

Trong nghi thức kỷ niệm ngày kết thúc Công đồng Trentô (mồng 3 tháng Mười Hai) Đức Phaolô VI cho mọi người biết motu proprio (tự sắc) Pastorale Munus của mình (30 tháng Mười Một), trong đó ngài hoặc chấp nhận hoặc cống bố khôi phục (ngôn ngữ của ngài hàm hồ) cho các giám mục một vài năng quyền (faculties) và đặc ân, nhiều điều trong đó đã được đề xướng trong một phụ lục vào lược đồ về giám mục và việc cai quản địa phận. Theo nhiều nghị phụ và quan sát viên, đặc tính tương đối không quan trọng của nhiều trong những khả năng và đặc ân này nhấn mạnh tới mức độ mà chức giám mục đã có trong quá khứ trở nên lệ thuộc vào quyền giáo hoàng.   

Mồng 4 tháng Mười Hai, khóa họp công khai kết thúc của thời kỳ thứ hai được tiến hành. Các nghị phụ nhất định thông qua hiến chế về Phụng vụ bằng cuộc bỏ phiếu gồm 2147 thuận đối với 4 chống và sắc lệnh về những phương tiện truyền thông bằng cuộc bỏ phiếu gồm 1980 thuận đối với 164 chống. Chống lại sắc lệnh sau, sự chống đối được nêu lên vào phút chót trong nội bộ rằng nó không đáp lại kỳ vọng của các Kitô hữu và sẽ làm tổn thương thẩm quyền của Công đồng; cuộc bỏ phiếu chung cục trong một hội nghị chung vào ngày 25 tháng Mười Một đã thấy 500 giám mục bỏ phiếu chống lại nó. Đang khi sử dụng một công thức nhấn mạnh đến sự hiệp nhất  của ngài với các nghị phục công đồng khác, Đức Giáo hoàng phê chuẩn và công bố hai bản văn ấy; đấy là hai bản văn đầu tiên trong những văn kiện chung cục của Công đồng. Vào ngày 25 tháng Giêng, 1964 ngài phát hành motu prorpio Sacram Liturgiam nhờ đó ngài thiết lập một ủy ban để thực thi hiến chế phụng vụ.     

Trong diễn văn kết thúc Đức Phaolô VI cám ơn những nghị phụ đã đóng góp cho những phí tổn của Công đồng hay đã giúp đỡ những anh em thiếu thốn của mình, ghi nhận rằng Công đồng đã được ghi dấu bằng sự lao nhọc cần cù và tự do diễn đạt, diễn tả hy vọng rằng công đồng có thể hoàn thành công việc của mình trong một thời kỳ thứ ba và loan báo ngài sắp hành hương sắp tới tới Đất Thánh.   

Suốt thời gian gián đoạn giữa những thời kỳ hai và ba, các nghị phụ được mời gọi để đệ trình những phê bình về công việc còn dang dở, và với sự trợ giúp của sự bản thảo này các ủy ban tiếp tục duyệt lại những lược đồ. Theo hướng của Ủy ban Điều phối và hợp với những ước muốn của Giáo hoàng, họ giản lược một vài đề tài, nghĩa là, những đề tài về linh mục, tu sĩ, giáo dục vào đời sống linh mục, hoạt động truyền giáo, hôn nhân và giáo dục công giáo, vào một loạt những nguyên tắc ngắn gọn và căn bản mà các nghị phụ được kỳ vọng để mau chóng và dễ dàng đồng ý với chúng, và không có thảo luận công khai, trong thời kỳ thứ ba; sự trau chuốt đầy đủ hơn và sự thực hiện những nguyên tắc này có thể được dành cho những cơ quan hậu công đồng. Sự giản lược nghị sự công đồng này, được biết đến như "kế hoạch Dopfner", nhằm để đảm bảo rằng Công đồng sẽ kết thúc công việc của mình với khóa họp thứ ba; và để đẩy mạnh mục đích này, người ta cũng thực hiện những thay đổi trong cách tiến hành của công đồng để ngăn cản những lập lại và xúc tiến những quyết định.   

Ngay trước khi thời kỳ thứ ba được khai mạc, Giáo hoàng công bố rằng những phụ nữ nay gia nhập những giáo dân như những dự thính viên của Công đồng. Giữa con số ủy viên-quan sát viên gia tăng, lần đầu tiên, là những đại biểu của tòa Thượng Phụ Constantinople.   

C. Thời kỳ thứ ba. Đức Giáo hoàng Phaolô khai mạc thời kỳ thứ ba vào ngày 14 tháng Chín, 1964, với một khóa họp công cộng ở đó ngài dâng lễ đồng tế với 24 nghị phụ, một diễn tả đầu tiên của công đồng về những cải cách cụ thể được phê chuẩn trong hiến thế về phụng vụ vào cuối thời kỳ hai. Những cuộc thảo luận của công đồng bắt đầu với những chương của lược đồ về GH chưa được phê chuẩn nói chung và rồi với những bỏ phiếu tiếp theo sau trên tám chương như đã được sửa chữa. Trong cuộc thảo luận về Đức Nữ Trinh Maria, cuộc tranh cãi tập trung vào việc có dành cho ngài tước hiệu "Đấng Trung Gian" (Mediatrix) và "Mẹ GH" hay không. Sự quan tâm rất lớn dành để bỏ phiếu chương ba, về sự thiết lập phẩm trật của GH với sự qui chiếu đặc biệt đến các giám mục. Cuộc chiến về mối tương quan giữa quyền tối thượng của Giáo hoàng và giám mục đoàn đã không trở nên kém dữ dội, và thực sự, vào chính ngày áp của thời kỳ thứ ba, Đức Phaolô VI đã nhận được một ghi nhận kín từ những Hồng y xuất chúng và những vị lãnh đạo của những dòng tu xin ngài không cho phép giáo lý của chương đó được bỏ phiếu và rất không tinh tế hàm ý rằng nếu ngài làm thế, ngài sẽ có tội lãng phí quyền bính của tác vụ ngài. Sau bốn tường trình chính thức về chương đó được đọc cho hội nghị, cuộc đầu phiếu tiến hành, và về những vấn đề lớn đang bàn cãi những lá phiếu đã tán thành vượt bực.   

Tuy nhiên, những cuộc thảo luận tiếp theo về lược đồ về tác vụ mục vụ của giám mục, mà bước tiến hành của nó bị cản trở bởi cần phải đợi những kết quả của việc bỏ phiếu về lược đồ về GH. Những lược đồ về sự tự do tôn giáo và về những người Do thái, mà nguyên thủy đã thiết thân với lược đồ về đại kết, nay phải trở thành những văn kiện riêng biệt; cuộc tranh cãi về chúng thật mạnh mẽ và được ghi dấu bởi những quan tâm thần học lẫn chính trị. Bản văn về tự do tôn giáo bị phê bình vì tách khỏi sự nhấn mạnh truyền thống của GH về những quyền độc nhất của tôn giáo chân thật; bản văn được bảo vệ là phản ánh sự phát triển của những thực tại chính trị, kính trọng phẩm giá và tự do của nhân vị, và một điều kiện tiên quyết (prerequisite) cho bất kỳ cuộc đối thoại đại kết hay liên tôn nghiêm chỉnh nào. Lược đồ về mối tương quan của GH với người Do thái tiếp tục bị phê bình bởi vì những hệ quả chính trị mà người ta sợ nó sẽ có đối với những Kitô hữu tại Trung Đông. Một bản văn được tu sửa (hiệu đính) về mạc khải của TC cũng được thảo luận như một lược đồ về việc tông đồ giáo dân. Đầu tháng Mười lược đồ được hiệu đính về đại kết được đưa ra trong một loại các cuộc đầu phiếu và được phê chuẩn.   

Sự đối nghịch với chương trình Dopfner và một kết thúc sớm của Công đồng trở nên trong những tuần đầu của thời kỳ thứ ba, và nó tỏ lộ chính mình khi những lược đồ được giản lược cách ấn tượng và được ta gọi là "những lược đồ nhỏ" đưa ra trước các nghị phụ. Vào ngày 12 tháng Mười một lược đồ được hiệu đính về 12 đề

Các tin khác

VIDEO

  Bài 2: HIỆP HÀNH: Hiệp Thông - Tham Gia - Sứ Vụ | Thường huấn linh mục GP Ban Mê Thuột 2023

  Bài 1: Tầm Nhìn Hoàn Vũ | Thường huấn linh mục GP Ban Mê Thuột 2023

  ĐỨC TIN | Tròn Đầy & Trong Sáng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh

  Mục Vụ Văn Hóa: DANH - LỢI - NGHĨA | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh

  Cử Hành Phụng Vụ | Gặp Gỡ Chúa Kitô - Loan Báo Tin Mừng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn văn Hinh

  Thần Học Mục Vụ & Công đồng Vatican II: Con người - Giáo hội - Môi trường

  Hiệp Hành Hội Ý Dựng lại Mùa Xuân | Người Giáo dân Thiên niên kỷ mới

  Bài 4: Văn Hóa Tổ Chức - Đời Sống Cá Nhân

  Hiệp Hành Kín Đáo và Minh Bạch

  Văn Hóa Tổ Chức - Tổ Chức Cộng Đồng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh (Phần 3)

  Tìm hiểu về văn hóa (Phần 2) - Lm Gioan Kim Nguyễn Văn Hinh

  Tìm hiểu về văn hóa (Phần 1) - Lm Gioan Kim Nguyễn Văn Hinh

  TRỰC TUYẾN BÀI 29: MỤC VỤ THÁNH THIỆN THUẬN THEO

  TRỰC TUYẾN BÀI 28 : MỤC VỤ TÍCH HỢP VĂN HÓA ĐÔNG TÂY

  TRỰC TUYẾN BÀI 27 : MỤC VỤ LỜI CHÚA NGÀY NAY

  TRỰC TUYẾN BÀI : TÌM HIỂU VỀ VĂN HÓA VÀ BẢN SẮC VĂN HÓA VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 26: MỤC VỤ ĐẠO ĐỨC KINH TẾ DỊCH VỤ

  TRỰC TUYẾN BÀI 25: MỤC VỤ TUẦN THÁNH UY VÀ ĐỨC

  TRỰC TUYẾN BÀI 24: MỤC VỤ GIA TÀI CỦA MẸ

  TRỰC TUYẾN BÀI 23: MỤC VỤ BỔ VÀ TẢ

  mvgd20162016

  TRỰC TUYẾN BÀI 21: MỤC VỤ LUẬT CÂN BẰNG

  TRỰC TUYẾN BÀI 20: TRUY TÌM MÃNH LỰC

  TRỰC TUYẾN BÀI 19: THẾ GIỚI HÔM NAY CẦN NHỮNG NGƯỜI CHA NHÂN HẬU LÝ TƯỞNG VÀ THỰC TIỄN

  TRỰC TUYẾN BÀI 18: NĂM THÁNH THÁNH CẢ GIUSE LÃNH ĐẠO VÀ NIỀM TIN

  TRỰC TUYẾN BÀI 17: MỪNG XUÂN TÂN SỬU 2021 - LÒNG BIẾT ƠN TIN VUI ĐẠO ĐỨC VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 17: MỪNG XUÂN TÂN SỬU 2021 - LÒNG BIẾT ƠN TIN VUI ĐẠO ĐỨC VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 16: ĐỀ TÀI ĐIỂM TỰA

  TRỰC TUYẾN BÀI 14: VĂN HÓA KHÔNG NHẬN SAI NHƯNG SỬA SAI

  TRỰC TUYẾN BÀI 13: VUN TRỒNG NỀN VĂN HÓA “TÂM LINH – KHOA HỌC”

  TRỰC TUYẾN BÀI 12: NĂM MỚI 2021 XÂY DỰNG NỀN VĂN MINH TÂM LINH & KHOA HỌC

  TRỰC TUYẾN BÀI 11: GIÁNG SINH 2020 - LÀM NGƯỜi - GIÊSU

  TRỰC TUYẾN BÀI 10: PHÍA ĐẰNG SAU TÂM LINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 9: ĐỂ CÓ CHÚA THÁNH THẦN

  TRỰC TUYẾN BÀI 8: LOAN BÁO TIN MỪNG

  TRỰC TUYẾN BÀI 7: PHÒNG ĐÀO LUYỆN TÂM LINH CỦA TÍN HỮU DÂN CHÚA

  TRỰC TUYẾN BÀI 6: ĐÀO LUYỆN TÍN HỮU DÂN CHÚA

  TRỰC TUYẾN BÀI 5: TẦM NHÌN THIÊN NIÊN KỶ MỚI

  TRỰC TUYẾN BÀI 4: ĐÀO LUYỆN TÂM LINH BẮT ĐẦU TỪ THÁNH THỂ HAY THÁNH KINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 3: PHƯƠNG THỨC CẦU NGUYỆN CẢM NGHIỆM- SỐNG THÁNH GIỮA ĐỜI

  TRỰC TUYẾN: BÀI 2: GIẢI THÍCH ĐÀO LUYỆN TÂM LINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 1: ĐÀO LUYỆN TÂM LINH

  TintucVatican

  Thánh Lễ Tuyên Thánh Jacinta và Francisco Marto

  Muối và ánh sáng

  Thế Giới Nhìn Từ Vatican

  Nghi thức đóng Cửa Thánh

  Xin Mẹ Thương

  Thế Giới Nhìn Từ Vatican

  Suy Niệm với Đức Thánh Cha Phanxicô

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__3

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__1

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__2

  Thường huấn HĐMVGX Ban Mê Thuật

  Quốc tế thiếu nhi 01-6-2014

  Thể dục Dưỡng Sinh

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  CƠM TRƯA TRUNG THU 2013

  Thi đấu thăng cấp sơ đẳng Vovinam

  Khai mạc kỳ thi thăng cấp Vovinam

  Vovinam

  Đào luyện tâm linh

  Nghệ thuật cân bằng

  Đào Luyện Tinh Thần

  Đào Luyện Thể Chất

Bài viết mới
Mười hai lời khuyên của Đức Thánh Cha Phanxicô để trở thành người cừ khôi trong việc loan báo Tin Mừng
Mười hai lời khuyên của Đức Thánh Cha Phanxicô để trở thành người ...
Công bố tự truyện của Đức Thánh Cha Phanxicô
Công bố tự truyện của Đức Thánh Cha Phanxicô
Người dân Ai Len bỏ phiếu chống đề xuất sửa đổi định nghĩa về gia đình trong hiến pháp
Người dân Ai Len bỏ phiếu chống đề xuất sửa đổi định nghĩa ...
Mười một năm Giáo hoàng của Đức Thánh Cha Phanxicô
Mười một năm Giáo hoàng của Đức Thánh Cha Phanxicô