Thứ tư, ngày 03 tháng 07 năm 2024 | 07:54 PM - Giới thiệu | Ý nghĩa logo
Tài liệu

ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN 3

V. LÊN ÁN SỰ BẤT CÔNG VÀ THÁI ĐỘ DỬNG DƯNG

Đức Thánh Cha Phanxicô trong khi mở ra Năm Đời Sống Thánh Hiến đã mời gọi những người tận hiến “đánh thức thế giới” bằng chính đặc tính ngôn sứ trong đời sống chứng tá và lời rao giảng của mình trong công cuộc truyền giảng Tin Mừng của giáo hội. Việc tận hiến trong đời sống tu trì cho phép người tu sĩ sẵn sàng để đáp ứng với những khủng hoảng mang tính ngôn sứ, trong việc loan báo và tố cáo, và một sự tự do theo Phúc Âm để thực hiện điều đó: “Nhờ việc tận hiến, họ tự nguyện và tự do từ bỏ mọi sự và ra đi rao giảng Tin Mừng cho đến tận cùng trái đất… Người ta thường thấy họ ở những tiền đồn truyền giáo, họ dám hy sinh sức khỏe và cả đến chính mạng sống mình để làm chứng cho Tin Mừng”.[55]

Con người ngày nay ngày càng đánh mất đi cảm thức thánh thiêng về con người, về quà tặng Thiên Chúa đã ban tặng thuộc về Thiên Chúa. Thái độ dửng dưng là đóng kín con tim trước tha nhân, nhắm mắt không nhìn thấy xung quanh mình, hay tránh né không để bị đụng chạm bởi các vấn đề của người khác, nhất là của những người cùng khổ, gặp nạn. Đức Thánh Cha Phanxicô nói thái độ dửng dưng ngày nay đã vượt quá ngưỡng cá nhân, thềm gia đình, để mang chiều kích toàn cầu[56] đã được Đức Thánh Cha Benedicto nhắc lại trong thông điệp đầu tiên của ngài: “Với những thời gian trôi qua, và với việc Hội Thánh lan rộng, việc thực thi đức ái được được xác nhận như là một trong những lãnh vực cốt yếu của Hội Thánh bên cạnh việc cử hành các bí tích và việc loan báo Lời Chúa: việc thực hành tình yêu đối với những góa phụ và những trẻ mồ côi, đối với những người ốm đau và thiếu thốn thuộc đủ loại thuộc về bản chất của Hội Thánh, y như việc trao ban các Bí tích và việc loan báo Tin Mừng”.[57] Đức Thánh Cha đã xác quyết hơn cho suy tư của ngài bằng việc nêu lên một số dung mạo chứng tá nổi tiếng của các thời kỳ ban đầu của Hội Thánh, những người kết hợp hoạt động bác ái với Thánh Thể, trong khi khích lệ các người giàu có đồng chia sẻ của cải của họ cho những người nghèo khổ, thiếu thốn.[58] Sự liên đới này không chỉ khiến cho những người ngoài Hội Thánh ngỡ ngàng và cảm phục, mà nó còn được coi là một khía cạnh tạo thành chính bản chất của Hội Thánh.

Đức Thánh Cha nêu lên vài hình thức dửng dưng ngày nay:

– Trước hết là sự dửng dưng đối với Thiên Chúa. Từ đó mà con người dửng dưng với tha nhân, với thiên nhiên, thế giới thụ tạo. Con người hiện đại, hậu hiện đại thường cho mình là tác giả của chính mình, của cuộc sống mình và của xã hội. Con người tự thấy mình đầy đủ không cần đến Thiên Chúa.

– Nhiều người có thông tin về thảm cảnh của đồng bào, đồng loại, nhưng mù mờ. Họ không cảm thấy được lôi cuốn, không sống cảm thương, nghĩa là không có lòng từ bi lân ái. Đó là thái độ của người biết, nhưng có cái nhìn, tư tưởng, hành động hướng tới chính mình. Thời đại của chúng ta, rất tiếc, gia tăng thông tin quá nhiều, nhưng rất thiếu sự quan tâm từ con tim biết liên đới, từ lương tâm rộng mở.

– Trường hợp khác: dửng dưng bởi thiếu chú ý đối với các thực tại xung quanh, đặc biệt là các thực tại ở xa. Không hỏi thăm tin tức, không tìm kiếm, họ điếc trước tiếng kêu than của nhân loại khổ đau, chỉ biết hưởng thụ của cải mình có. Không có khả năng cảm thương, chạnh lòng trước thảm cảnh, như thể tai hoạ, bất công xảy ra là trách nhiệm xa lạ của ai đó khác, không phải của tôi.

– Sống trong một Ngôi Nhà Chung là Trái Đất, chúng ta không thể dửng dưng về tình trạng sức khỏe của nó. Ô nhiễm môi sinh: nguồn nước, không khí, khai thác rừng không phân biệt, là hậu quả của sự dửng dưng đối với người khác.[59]

VI. SỐNG CHỨNG NHÂN CỦA THIÊN CHÚA CHO CÔNG LÝ VÀ HÒA BÌNH

Trong Sứ điệp gửi cho toàn thể thế giới, nhân ngày Hòa bình Thế giới ngày 1/1/2016, với chủ đề: “Vượt thắng sự thờ ơ để giành lấy hòa bình”, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã viết: “Đáng buồn thay, chiến tranh và khủng bố, đi cùng với việc bắt cóc, sự bách hại sắc tộc và tôn giáo và việc lạm quyền, đã đánh dấu năm qua từ lúc khởi sự cho đến khi kết thúc. Ở nhiều nơi trên thế giới, những điều này đã trở nên quá bình thường đến nỗi tạo nên một “cuộc thế chiến thứ ba đang diễn ra từng mảnh”.[60] Theo ngài, chính sự thờ ơ và sự thiếu liên kết giữa các thành phần xã hội đã làm cho sự bất công, cái ác ngày càng lan mạnh và nền hòa bình đích thực sẽ bị đe dọa bởi sự thờ ơ mang tính toàn cầu này, vì nền hòa bình đích thực là hoa trái của nền văn hoá liên đới và cảm thương; đồng thời, ngài kêu gọi mọi thành phần xã hội, cách riêng các Kitô hữu:

“Trong tinh thần của Năm Thánh Lòng Thương Xót, tất cả chúng ta đều được mời gọi để nhận ra sự thờ ơ có thể tự thể hiện chính nó thế nào trong đời sống của chúng ta và hành động cách cụ thể để cải thiện thế giới quanh chúng ta, bắt đầu từ gia đình, nơi sinh sống và nơi làm việc của chúng ta. Xã hội dân sự cũng được mời gọi để thực hiện những cử chỉ cụ thể và can đảm của sự quan tâm đến những thành viên đang chịu tổn thương nhiều nhất của họ, như các tù nhân, những người di dân, người thất nghiệp và những người khuyết tật”.[61]

Để nhấn mạnh hơn nữa việc loan báo Tin Mừng, nghĩa là mang Đức Kitô đến với muôn dân, những con người có những lúc bị bỏ rơi bên lề xã hội. Trong Tông huấn Đời sống Thánh hiến viết: “Khi người ta yêu mến Thiên Chúa, Đấng là Cha của mọi người, thì người ta không thể không yêu mến đồng loại, nhận ra họ là anh chị em của mình. Vì vậy, khi thấy nhiều người chưa được biết tình yêu Chúa tỏ hày trọn vẹn trong Đức Kito thì người ta không thể ngồi yên. Chính từ chỗ đó mà, vâng lệnh Đức Kitô, xuất phát phong trào truyền giáo cho dân ngoại - Ad - Gentes - mọi Kitô hữu có ý thứcđiều chia sẻ với Giáo Hội tự bản chất là truyền giáo. Nỗi thao thức này được nuôi dưỡng đặc biệt nơi các người tận hiến, dù là thành viên chiêm niệm hay hoạt động. Thật vậy, các người tận hiến phục vụ sứ mạng làm cho Đức Kitô khiết tịnh - khó nghèo - vâng phục, cầu nguyện và truyền giáo được hiện diện ngay cả giữa những người không phải Kitô hữu”.[62]

Tuy nhiên có lẽ có một số lần, thậm chí nhiều lần, cả chúng ta là những người thánh hiến đã không loan báo Thiên Chúa bởi vì chúng ta đã không sống với sự táo bạo và kiên trung cuộc sống hằng ngày vốn đòi hỏi chúng ta “phải dám” gặp gỡ hầu xây dựng hòa bình. Dám gặp gỡ là một cái gì đó đi xa hơn cả việc tiếp nhận cách lễ độ một ai đó khác lạ đối với chúng ta. Nó giả thiết trước là mình phải đi gặp kẻ khác, đánh giá tốt về họ, quý chuộng nền văn hóa của họ và tạo những mối liên kết cùng họ.[63] Đôi khi, người tu sĩ rất dễ có thể đi vào thái cực khi hoặc quá đề cao đến chiều kích hoạt độg mà bỏ quên chiều kích chiêm niệm, hoặ là quá nhấn mạnh đến chiều kích chiêm niệm mà phớt lờ đi việc loan báo Tin Mừng. Để cân bằng hai chiều kích này Đức Thánh Cha Phanxico nhận định:

“Chúng ta hôm nay đang thấy nhiều nơi nhiều người hoạt động mục vụ, gồm cả những người sống đời thánh hiến, nam cũng như nữ, một sự quan tâm quá mức về tự do và sự thoải mái của bản thân họ, khiến họ coi công việc của họ chỉ là một cái gì phụ thuộc chứ không phải một thành phần thuộc căn tính của họ. Đồng thời, đời sống thiêng liêng trở nên bị đồng hoá với một ít việc thực hành tôn giáo có thể đem lại một sự an ủi nào đó chứ không khuyến khích gặp gỡ người khác, dấn thân vào thế giới hay một niềm say mê Tin Mừng”.[64]

Quả vậy hòa bình không phải chỉ là sự thiếu vắng chiến tranh, không phải đơn giản là sự phá hủy các vũ khí, cũng chẳng phải hệ tại cùng chấp nhận sống bên nhau, mà không biết về nhau, trái lại nó đòi hỏi phải biết về nhau, quý chuộng nhau, nắm bắt những giá trị của mỗi người, và đón tiếp nhau. Hòa bình cũng chẳng phải là sự phân phối đồng đều các của cải cho tất cả những người cùng ngôi chung một bàn cơm của trái đất, mà là ăn bánh của mình tại bàn ăn chung với những anh em khác. Hòa bình là cùng chung sống giữa những khác biệt. Lời loan báo cũng đòi hỏi phải liều mình vì ai đi gặp những những người cùng khốn cũng gặp phải cái rủi ro là bị chối từ và bị các người thân của mình tách lìa mình ra, để mặc cho mình, và thế là mình mất đi sự an ổn.

Sau cùng, lời loan báo Chúa Kitô cũng đòi hỏi phải giải phóng để cho người ta cơ hội tăng trưởng. Chính trong tự do, con người mới được tăng trưởng, được củng cố và tìm thấy lý do để xây dựng hòa bình nơi mình và ở xung quanh mình. Jean Vanier đã viết rất chí lý: “Chúng ta có thể phân biệt những nhu cầu căn bản của con người với những nhu cầu mà một khi được tôn trọng, sẽ cho phép không chỉ sự tồn tại, mà còn cả sự tăng trưởng và sự tự thể hiện. Các nhu cầu căn bản của chúng ta là của ăn, chốn ở, nền giáo dục và sự chăm sóc thuốc men; còn những nhu cầu khác là chuyện được thương mến, được quý chuộng, được tôn trọng, kính nể. Đảm bảo đáp ứng cho các nhu cầu căn bản là một hành vi của công bình mà luật pháp có thể dự liệu, nhưng giúp một con người tự thể hiện chính mình bằng sự yêu thương thì luật pháp không có thể dự liệu hay áp đặt. Không ai có thể áp đặt chúng ta yêu mến một người khác, bởi vì tình yêu là kết quả của tự do. Một đứa trẻ không những cần đến một người khác lo liệu cho nó các nhu cầu căn bản, mà còn cả cái nhu cầu tuyệt đối là được thương mến. Hòa bình đích thực không thể thống trị, nếu không có một tình yêu đích thực, hòa bình đích thực là điều không thể có nếu công lý không được tôn trọng”.[65]

Chúng ta tự hỏi: làm sao những cử chỉ này lại có thể được thực hiện, những cử chỉ mà những con người nam nữ hôm nay không thể hiểu nổi? Từ đâu mà đến niềm can đảm dám liều, dám làm và thay đổi?

Câu trả lời chỉ duy nhất là: việc hiểu biết cá vị về Chúa Giêsu, sự gắn bó trong tự do với Ngài và vì tình yêu cuộc sống của Ngài trước cả khi yêu mến lời dạy bảo của Ngài bất chấp đủ loại bất trung và những mâu thuẫn, xuyên qua một cuộc sống chân chính và mãnh liệt được từng trải ngày này qua ngày khác trong công việc nặng nhọc nhưng vui tươi để kiên trì gắn bó với một Thiên Chúa được nhận thức ra như là một Đấng khác với cái mà chính mình từng nghĩ ra, một Thiên Chúa ở xa ta, nhưng lại được cảm nghiệm thật gần ta, một Thiên Chúa được Đức Giêsu Kitô kể lại, cắt nghĩa và rao giảng và đó là một cảm nhận của niềm tin theo nguyên ngữ chữ “tin” của người Do Thái xưa.

Đồng thời nhân đức thứ nhất đặt nền tảng cho các cử chỉ này và nâng đỡ chúng chính là đức tin nơi Thiên Chúa hằng sống, sự gắn bó cùng Ngài, một đức tin sống bởi đức yêu thương, phục vụ, sự dâng tặng dấu ẩn ở trong cuộc sống thường nhật, thường rất khiêm cung và kín đáo. Chúng ta cũng đừng quên là đức tin Kitô hữu đã phát sinh và triển nở xuyên qua chứng tá của những con người nam nữ đơn sơ từng mang nơi mình các ách nhẹ nhàng của cuộc sống thể theo những gì Chúa Giêsu đã biểu lộ như là một cuộc sống nhân loại theo kế hoạch của Thiên Chúa, một cuộc sống phong phú về ý nghĩa và về tình yêu, một cuộc sống có thói quen chăm nom đến tha nhân, một cuộc sống được nhân bản hóa một cách chân chính, một cuộc sống hoàn toàn tận hiến cho việc theo duổi hòa bình và công lý, bởi vì đó là một cuộc sống được sống trong Thiên Chúa của sự an bình, Ngài là Đấng Công chính. Đây là một sự sống được sống trong sự bình an, nhưng không phải là để cho đôi bàn tay không phải bị dơ bẩn bởi công việc, hay là để khỏi có các vấn đề, đó là cuộc sống vất vả giống như người thợ gốm nặn lên bình quý, biến nó thành báu vật, mà không hề ngại làm bẩn đôi bàn tay, y như Đức Mẹ và thánh Giuse.[66]

VII. SỰ CHỌN LỰA ĐỨC KHÓ NGHÈO LÀ KHÔNG TÍNH TOÁN VÀ KHÔNG ĐI THEO LOGIC

Toàn cầu hóa đã thực sự tác động đến mọi chiều kích của đời sống nhân loại trên trái đất này. Toàn cầu hoá ngày nay đã mở rộng tầm ảnh hưởng, không chỉ trong lãnh vực kinh tế - tài chính thế giới mà còn lan toả đến mọi lãnh vực văn hoá, xã hội, chính trị dẫn đến những biến đổi quan trọng trong mô hình sản xuất, nếp sống, lối suy nghĩ cũng như tiêu chuẩn đánh giá con người.[67]

Một thực tại hiển nhiên trong thế giới bị toàn cầu hóa này là việc tập trung quyền lực và sự giàu có trong tay của rất ít người, mà đối với họ công ích chỉ là sự giàu có của một số người. Kinh tế thị trường, được tự điều hành ở ngoài mọi biên cương của luân lý, đang hoạt động với một logic của sự loại trừ vì lợi ích của số ít người này: đó là những người quyền thế. Tuyệt đại đa số dân chúng của hành tinh sống trong ngưỡng cửa của những cái tối thiểu cần cho sự sống. Khoảng cách giữa giàu nghèo càng ngày càng rõ nét đến gây sốc. Trong xã hội luôn có những thế lực, những nhóm đặc quyền, đặc lợi muốn chi phối toàn bộ ích lợi cộng đồng, chiến đoạt cách bất công tài sản hoăc quyền lợi chính đáng của người nghèo, của cộng dồng sắc tộc thiểu số hay của những quốc gia nhỏ bé, kém phát triển. Những sự bất bình đẳng trước đây chỉ được trải nghiệm trong nội bộ các quốc gia, nay đang trở nên mang tính quốc tế và càng làm cho tình hình bi đát của Thế giới Thứ Ba thêm rõ rệt hơn bao giờ hết.[68]

Đứng trước cảnh này, chúng ta những con người thánh hiến được kêu gọi “tham gia một cách vui tươi vào sự nghèo khó của Chúa Kitô, Đấng giàu sang, đã trở nên nghèo khó, để chúng ta được nên giàu có nhờ sự nghèo khó của Ngài” (Xc. 2Cr 8,9; Mt 8,20).[69] Dấu của sự sống, dấu của những cây cầu mà các người thánh hiến nam nữ tiếp tục dựng xây chính là sự có mặt của biết bao những con người nam nữ tại các biên cương, các nơi bị quên lãng, các nơi “không có cảnh sống nhân bản”, trong khi từ bỏ cả đến các cơ cấu từng làm cho họ hiện lên như vĩ đại và quyền thế. Dấu chỉ của sự sống đây chính là sự chọn lựa sống một cuộc sống đơn giản và cốt yếu, với tính cách Tin Mừng tận căn và với tiếng gọi sống liên đới với biết bao nhiêu người đang thiếu thốn cả đến các cái cần thiết, trong khi chia sẻ thường xuyên không gian của cộng đoàn của mình với các người nghèo, cung cấp cho họ của ăn, tiếp nhận những người vô gia cư, chăm sóc cho họ, và hướng đến một công việc giúp con người nghèo khổ sống cuộc sống xứng đáng với con người hơn.

Việc tái khám phá ra sự nghèo khó như là con đường để đồng chia sẻ cuộc sống của những kẻ nghèo và để xây dựng những giấc mơ công lý và hòa bình luôn luôn phải là một sự chọn lựa cuộc sống. Lời khấn khó nghèo phải luôn được cắt nghĩa như là một đời sống liên đới và công bình, với sự hỗ tương cho nhau. Không có sự hỗ tương, tình liên dới có thể tạo nên một sự lệ thuộc, và kết cuộc trở thành một sự ngại ngùng cho những ai là “đối tượng” của sự chú tâm của chúng ta. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, đã nói trong Tông thư “Bước khởi đầu của thiên niên kỷ thứ III” như sau: “Đây là giờ của một “sức tưởng tượng mới của đức ái”, dẫn đưa tới việc lại gần với các người rốt hết và bị loại trừ, tới một sự hiệp thông huynh đệ với tất cả những người bé nhỏ của trái đất, để được cho và nhận”.[70]

Chúng ta sẽ chẳng có được nền hòa bình hằng mơ ước nếu không có công lý nhằm tạo nên những màng lưới hiệp thông làm nổi bật giá trị việc lệ thuộc lẫn nhau về của cải và tài nguyên nhắm đến mục tiêu cho phép một cuộc sống xứng đáng cho tất cả mọi người, cách riêng là những người nghèo khổ nhất. Trong bối cảnh này, nhiều người thánh hiến nam nữ đã dâng hiến và còn tiếp tục dâng hiến cuộc sống mình để mà ôm ấp lấy những giấc mơ của những người bị loại trừ, như là dấu chỉ tội đỉnh của tình yêu và của sự nhất quán với lý tưởng của cuộc sống.[71] Các giấc mơ của những người bị loại trừ đối với chúng ta những con người thánh hiến nan, nữ, chính là một đòn giáng xuống sự an toàn và yên ổn của chúng ta. Chúng là một lời mời gọi hãy ra khỏi mình, hãy cúi xuống, hãy lột bỏ mình.

- Ra khỏi mình: Đức ái, việc chăm sóc cho kẻ khác chính là ra khỏi chính mình và nhận ra những người khác, những kẻ túng thiếu, những người bị bạo lực áp bức thể xác và tâm hồn; là mang lấy gánh nặng và những nỗi đau khổ của họ.

- Cúi mình xuống: Cúi mình xuống là một cử chỉ mẫu tử đặc trưng. Các bà mẹ cúi xuống, khiến cho chẳng mấy chốc mà vai họ mang lấy các dấu vết. Cha Mazzolari bình luận: “Việc cúi xuống này là dấu tích của đức ái, là dấu không thể lẫn lộn được của tình mẫu tử hạ mình xuống và chiếu cố”.

- Lột bỏ mình: Chẳng có tình yêu mà không có sự tự lột bỏ khỏi các danh hiệu, các vai trò, uy tín, danh tiếng. Chúng ta gặp gỡ những người khác cách đích thực chỉ ở trong chân lý của hiện hữu chúng ta, trong sự chân chính của việc chúng ta tự hiến dâng.

Nhưng việc ra khỏi mình, cúi xuống và tự lột bỏ này đòi hỏi ở nơi chúng ta sự can đảm, và một sự can đảm hằng ngày. Chúng ta cần đến một nền văn hóa của sự can đảm… đây không phải là sự can đảm mọi người đang có. Ai không có, không thể cho được.

“Chúng ta cần can đảm để được trung thành và điều này muốn nói rằng trong mọi lúc, để mà tiếp tục, thì sự trung thành đòi hỏi những việc dám khẳng định sự can đảm của mình, dù là những sự dám khẳng định nhỏ bé đi nữa, hầu chống lại tính tùy tiện, theo sở thích vô lối muốn thay đổi, sự vô ơn, chống lại các thử thách của các nỗi đau đớn. Sự trung thành là một sự can đảm được tiếp tục với cả sự kiên vững”.[72]

Ra khỏi chính mình, cúi mình xuống, lột bỏ chính mình, là những lời lẽ làm chúng ta hướng ngay đến dụ ngôn Người Samaritanô nhân hậu trong vẻ trong sáng tuyệt đối của nó đã là một trong những nhân tố cốt yếu của nền văn hóa luân lý và của nền văn minh hoàn toàn nhân bản. Mội khi chúng ta đọc dụ ngôn này, chúng ta ngay lập tức bị chạm đến bởi tính chất đơn sơ của nó. Nó nói vào lòng ta và chất vấn lương tâm của ta.

“Sự dấn thấn là một lời diễn tả tốt nhất cách thức hành xử và những tình cảm của Người Samaritanô nhân hậu. Con người này có thể cứ đi qua, giống như thầy tư tế hay thầy Lêvi. Ông ta có thể nhắm mắt, đóng cửa lòng lại và từ chối đáp ứng cho nhu cầu đích thực của người đang ở trước mắt ông. Nhưng ông quả đã dừng lại. Ông cúi xuống, và cúi xuống để làm cho mình thêm phong phú. Trong lúc ông dừng lại và hạ mình xuống để chăm sóc cho một người xa lạ bị đánh dập xuống đất do tay bọn cướp, thì đúng khi ấy sinh ra một người thân cận. Lòng thương cảm, được kích động bởi tình yêu, có sức sáng tạo. Nó tạo nên một người thân cận. Đây kể như là một bí tích, như triết gia Romano Guardini đã viết, một bí tích của tình yêu: khi con người cống hiến chính bản thân sinh động của mình, trái tim mình, sức lực mình, thì Thiên Chúa cho phép quyền năng sáng tạo của Ngài hạ cố và thế là nẩy sinh phép lạ của mối hiên hệ cùng đồng loại”.[73]

Thế kỷ XXI chắc chắn là một trong những thế kỷ khốc liệt nhất của lịch sử loài người. Và dấu của bạo lực này còn tiếp tục ngày nay với một sức mạnh ngoại thường, mà các dấu chỉ hiển nhiên nhất chính là sự phá hủy tàn bạo thiên nhiên, các hình thức che dấu của việc loại trừ, các chủ nghĩa sắc tộc, các cuộc chiến tranh giữa các sắc tộc và giữa các tôn giáo, việc diệt chủng, sự đàn áp phụ nữ, việc lạm dụng tình dục của tuổi vị thành niên, các bi thảm kịch đổ máu ẩn nấp dưới hình thức chạy đua võ trang và nhiều hình thức bạo lực khác có nguy cơ làm thương tổn vĩnh viễn đến nền hòa bình. Vâng, vĩnh viễn sẽ như thế, nếu chúng ta không cùng nhau dấn thân cho “nền hòa bình phòng ngừa”. Chúng ta được lớn lên trong một bầu khí đã đưa chúng ta tới ý tưởng là có các cuộc chiến tranh chính đáng, thậm chí “các cuộc chiến tranh phòng ngừa”, ngay cả những người Kitô hữu chúng ta, chúng ta cũng cần phải quay ngược cuộc hành trình, và phải thật sớm, phải quì gối xuống, để cho lời nguyện cầu đơn sơ và chân thành sẽ giúp chúng ta khám phá ra rằng chúng ta quay trở về với Thiên Chúa, Đấng là sự công chính và lòng thương xót.

Theo nhà nữ văn sĩ phân tâm học Julia Kristeva, thì ngày hôm nay “nghĩ đến hòa bình đã trở thành có vấn đề”, bởi vì diễn văn về sự sống đang mất đi trong thiên niên kỷ thứ ba. Còn vượt xa cuộc đụng độ giữa các nền văn hóa, cái thiếu hụt của nền văn minh hiện tại nằm ở chỗ chúng ta không có câu trả lời cho câu hỏi: Sự sống là gì? “Yêu sự sống” có nghĩa là gì? Do đó phải kết luận rằng vượt trên cả việc chung sống hòa bình, việc phân tích về logic của sự sống mới có thể cứu vãn chúng ta.[74]

Các tin khác

VIDEO

  Bài 2: HIỆP HÀNH: Hiệp Thông - Tham Gia - Sứ Vụ | Thường huấn linh mục GP Ban Mê Thuột 2023

  Bài 1: Tầm Nhìn Hoàn Vũ | Thường huấn linh mục GP Ban Mê Thuột 2023

  ĐỨC TIN | Tròn Đầy & Trong Sáng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh

  Mục Vụ Văn Hóa: DANH - LỢI - NGHĨA | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh

  Cử Hành Phụng Vụ | Gặp Gỡ Chúa Kitô - Loan Báo Tin Mừng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn văn Hinh

  Thần Học Mục Vụ & Công đồng Vatican II: Con người - Giáo hội - Môi trường

  Hiệp Hành Hội Ý Dựng lại Mùa Xuân | Người Giáo dân Thiên niên kỷ mới

  Bài 4: Văn Hóa Tổ Chức - Đời Sống Cá Nhân

  Hiệp Hành Kín Đáo và Minh Bạch

  Văn Hóa Tổ Chức - Tổ Chức Cộng Đồng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh (Phần 3)

  Tìm hiểu về văn hóa (Phần 2) - Lm Gioan Kim Nguyễn Văn Hinh

  Tìm hiểu về văn hóa (Phần 1) - Lm Gioan Kim Nguyễn Văn Hinh

  TRỰC TUYẾN BÀI 29: MỤC VỤ THÁNH THIỆN THUẬN THEO

  TRỰC TUYẾN BÀI 28 : MỤC VỤ TÍCH HỢP VĂN HÓA ĐÔNG TÂY

  TRỰC TUYẾN BÀI 27 : MỤC VỤ LỜI CHÚA NGÀY NAY

  TRỰC TUYẾN BÀI : TÌM HIỂU VỀ VĂN HÓA VÀ BẢN SẮC VĂN HÓA VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 26: MỤC VỤ ĐẠO ĐỨC KINH TẾ DỊCH VỤ

  TRỰC TUYẾN BÀI 25: MỤC VỤ TUẦN THÁNH UY VÀ ĐỨC

  TRỰC TUYẾN BÀI 24: MỤC VỤ GIA TÀI CỦA MẸ

  TRỰC TUYẾN BÀI 23: MỤC VỤ BỔ VÀ TẢ

  mvgd20162016

  TRỰC TUYẾN BÀI 21: MỤC VỤ LUẬT CÂN BẰNG

  TRỰC TUYẾN BÀI 20: TRUY TÌM MÃNH LỰC

  TRỰC TUYẾN BÀI 19: THẾ GIỚI HÔM NAY CẦN NHỮNG NGƯỜI CHA NHÂN HẬU LÝ TƯỞNG VÀ THỰC TIỄN

  TRỰC TUYẾN BÀI 18: NĂM THÁNH THÁNH CẢ GIUSE LÃNH ĐẠO VÀ NIỀM TIN

  TRỰC TUYẾN BÀI 17: MỪNG XUÂN TÂN SỬU 2021 - LÒNG BIẾT ƠN TIN VUI ĐẠO ĐỨC VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 17: MỪNG XUÂN TÂN SỬU 2021 - LÒNG BIẾT ƠN TIN VUI ĐẠO ĐỨC VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 16: ĐỀ TÀI ĐIỂM TỰA

  TRỰC TUYẾN BÀI 14: VĂN HÓA KHÔNG NHẬN SAI NHƯNG SỬA SAI

  TRỰC TUYẾN BÀI 13: VUN TRỒNG NỀN VĂN HÓA “TÂM LINH – KHOA HỌC”

  TRỰC TUYẾN BÀI 12: NĂM MỚI 2021 XÂY DỰNG NỀN VĂN MINH TÂM LINH & KHOA HỌC

  TRỰC TUYẾN BÀI 11: GIÁNG SINH 2020 - LÀM NGƯỜi - GIÊSU

  TRỰC TUYẾN BÀI 10: PHÍA ĐẰNG SAU TÂM LINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 9: ĐỂ CÓ CHÚA THÁNH THẦN

  TRỰC TUYẾN BÀI 8: LOAN BÁO TIN MỪNG

  TRỰC TUYẾN BÀI 7: PHÒNG ĐÀO LUYỆN TÂM LINH CỦA TÍN HỮU DÂN CHÚA

  TRỰC TUYẾN BÀI 6: ĐÀO LUYỆN TÍN HỮU DÂN CHÚA

  TRỰC TUYẾN BÀI 5: TẦM NHÌN THIÊN NIÊN KỶ MỚI

  TRỰC TUYẾN BÀI 4: ĐÀO LUYỆN TÂM LINH BẮT ĐẦU TỪ THÁNH THỂ HAY THÁNH KINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 3: PHƯƠNG THỨC CẦU NGUYỆN CẢM NGHIỆM- SỐNG THÁNH GIỮA ĐỜI

  TRỰC TUYẾN: BÀI 2: GIẢI THÍCH ĐÀO LUYỆN TÂM LINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 1: ĐÀO LUYỆN TÂM LINH

  TintucVatican

  Thánh Lễ Tuyên Thánh Jacinta và Francisco Marto

  Muối và ánh sáng

  Thế Giới Nhìn Từ Vatican

  Nghi thức đóng Cửa Thánh

  Xin Mẹ Thương

  Thế Giới Nhìn Từ Vatican

  Suy Niệm với Đức Thánh Cha Phanxicô

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__3

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__1

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__2

  Thường huấn HĐMVGX Ban Mê Thuật

  Quốc tế thiếu nhi 01-6-2014

  Thể dục Dưỡng Sinh

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  CƠM TRƯA TRUNG THU 2013

  Thi đấu thăng cấp sơ đẳng Vovinam

  Khai mạc kỳ thi thăng cấp Vovinam

  Vovinam

  Đào luyện tâm linh

  Nghệ thuật cân bằng

  Đào Luyện Tinh Thần

  Đào Luyện Thể Chất

Bài viết mới
BÀI GIẢNG ĐỨC THÁNH CHA - CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN NĂM B
BÀI GIẢNG ĐỨC THÁNH CHA - CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN NĂM B.
ỦY BAN GIÁO DÂN - THƯỜNG HUẤN THÁNG 07/2024: TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN - MUỐI VÀ ÁNH SÁNG CHO THẾ GIỚI avatar Ủy ban Giáo dân 01/07/2024 Giáo hội là Dân Thiên Chúa, nơi mỗi người tín hữu, dù là giáo sĩ hay giáo dân, đều đóng góp vai trò không thể thiếu trong sứ mạng loan báo Tin Mừng. Chủ đề “Tông đồ giáo dân: Muối và ánh sáng cho thế giới” tập trung vào việc khai triển và cổ võ vai trò của giáo dân trong việc trở thành muối ướp mặn đời và ánh sáng soi sáng trần gian. Ủy ban Giáo dân Hội đồng Giám mục Việt Nam THƯỜNG HUẤN THÁNG 07/2024: TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN: MUỐI VÀ ÁNH SÁNG CHO THẾ GIỚI BÀI 1: HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN DỰA TRÊN LỜI CHÚA - Phanxicô Xaviê Nguyễn Thái BÀI 2: SỐNG TIN MỪNG TRONG ĐỜI THƯỜNG – Lm. Antôn Hà Văn Minh BÀI 3: BIẾN ĐỔI THẾ GIỚI TỪ BÊN TRONG - Lm. Tôma Vũ Ngọc Tín, S.J. BÀI 4: LÒNG CAN ĐẢM VÀ SỰ KHÔN NGOAN KHI DẤN THÂN VÀO ĐỜI SỐNG TRẦN THẾ - Lm. Tôma Vũ Ngọc Tín, S.J. BÀI 1: HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN DỰA TRÊN LỜI CHÚA - Phanxicô Xaviê Nguyễn Thái “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. “Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá. Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành” (Mt 7, 21.24 – 27). Đọc đoạn Tin Mừng trên cho chúng ta thấy: sống Tin Mừng trong đời thường là một hành trình đức tin mà qua đó, người Kitô hữu áp dụng lời dạy của Chúa Giêsu vào cuộc sống hàng ngày. Yêu Chúa không chỉ là tham dự các thánh lễ, các giờ kinh, mà phải thi hành ý muốn của Chúa Cha qua việc lãnh nhận các bí tích thường xuyên và qua cách chúng ta tương tác với mọi người xung quanh, cách chúng ta hành xử với thử thách và cách thực hiện các quyết định. Dưới đây là một số suy tư của giáo dân và một số cách để sống Tin Mừng trong đời thường: 1. Suy niệm và cầu nguyện với Lời Chúa: chúng ta không thể kết hiệp mật thiết với Chúa mà không cầu nguyện với Ngài. Việc dành thời gian mỗi ngày để suy niệm và cầu nguyện với Lời Chúa giúp nuôi dưỡng tâm hồn chúng ta ngày càng trở nên thánh thiện hơn, yêu Chúa nhiều hơn và được Chúa hướng dẫn hành động. 2. Yêu thương tha nhân là yếu tố quan trọng khi ta sống theo Tin Mừng. Yêu thương mọi người xung quanh mình, cho dù họ là ai, tôn giáo nào, giàu hay nghèo. “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” ( Ga 15, 12 ). Điều này áp dụng qua việc giúp đỡ những người nghèo khó, an ủi những người đang gặp khó khăn, và chia sẻ cho cộng đồng đang cần đến tình thương của mình. 3. Hiền lành và khiêm nhường: là ứng xử một cách nhẹ nhàng, không gây ra xung đột, luôn lắng nghe và tôn trọng ý kiến của người khác, và tìm cách giải quyết mọi vấn đề một cách dịu dàng và an bình. Tuy nhiên, hiền lành và khiêm nhường không đồng nghĩa với sự yếu đuối, mà chính là một cách để thể hiện sự mạnh mẽ và tự tin của bản thân thông qua sự kiểm soát cảm xúc và nhận thức. 4. Sống công bằng và bác ái: cố gắng sống công bằng với mọi người, không phân biệt đối xử, không chỉ dựa trên sự thỏa thuận mà dựa trên giá trị cốt lõi là phẩm giá con người, và thực hiện các hành động bác ái, như viếng thăm người đau yếu, quyên góp cho từ thiện, chia sẻ Chúa cho anh em, tham gia phục vụ cộng đồng dân Chúa cũng như cộng đồng xã hội. 5. Kiên nhẫn tha thứ: sống theo Tin Mừng đòi hỏi lòng kiên nhẫn và sẵn lòng tha thứ, dù trong những hoàn cảnh khó khăn nhất. Tha thứ đến cùng, tha thứ không giới hạn cho những lỗi lầm của người khác. Lý do chính mà chúng ta làm là vì Chúa đã tha thứ cho mỗi người chúng ta. 6. Chia sẻ niềm vui: sống vui tươi, dịu dàng với mọi người qua lối sống khó nghèo, tìm kiếm sự hài lòng, phấn khởi trong những điều giản dị và ý nghĩa của cuộc sống. 7. Sống Tin Mừng trong đời thường là chúng ta làm chứng về một Đức Giêsu con Thiên Chúa đã xuống trần gian, chịu chết và sống lại cho chúng ta được sống và được sống lại. Chứng nhân không chỉ trong một giai đoạn của cuộc sống nhưng là một đời Kitô hữu được kết hiệp với Chúa, bằng nguồn sống của Chúa. Qua hành động và lời nói hàng ngày, qua cách sống và tương tác với tha nhân làm sao bày tỏ được tình yêu và lòng thương xót của Chúa. Những suy tư Sống Tin Mừng trong đời thường không chỉ là làm một số việc đạo mà là cách sống thánh thiện và yêu thương mọi người xung quanh. Mỗi người cần gìn giữ và phát triển niềm tin của mình để sống đúng lý tưởng và hạnh phúc theo tinh thần của Tin Mừng. Sống Tin Mừng trong đời thường không phải lúc nào cũng dễ dàng, mỗi người giáo dân có cách sống Tin Mừng trong cuộc sống của họ một cách khác nhau. Nhiều giáo dân chưa mở lòng nên không nhận được ơn Chúa. Họ sống khép kín, không tham gia vào giáo xứ hoặc nếu có cũng chỉ là hình thức. Có những người không biết về Tin Mừng hoặc có biết qua loa thì cũng chưa áp dụng Tin Mừng vào cuộc sống, có khi còn không dám cho người khác biết mình là người Công Giáo, không dám sống đức tin của mình. Những người giáo dân khác sống theo lời dạy của Chúa Giêsu và thực hành lòng nhân từ, yêu thương và tha thứ. Trong khi một số khác có thể gặp khó khăn trong việc áp dụng những giá trị đạo đức từ Tin Mừng vào cuộc sống hàng ngày. Tuy nhiên, quan trọng nhất là họ luôn cố gắng học hỏi và phát triển trong đức tin của mình để trở thành những người sống theo Tin Mừng mẫu mực. Được như thế là giáo dân cũng đang tham gia vào đời sống của Giáo Hội, dần dần góp phần xây dựng một Giáo Hội hiệp hành và một thế giới tốt đẹp hơn. Hồi Tâm 1/ Làm cách nào giúp mọi người Công Giáo, hay ít nhất là những người đi lễ mỗi tuần có thể học, suy niệm và cầu nguyện với Tin Mừng? Nếu đang làm việc trong Hội đồng mục vụ giáo xứ hay trong các Hội đoàn Công giáo tiến hành, bạn sẽ làm gì? 2/ Chứng nhân Tin Mừng trong đời thường là phương cách hữu hiệu giúp người khác dễ dàng sống theo gương, bạn có thể chia sẻ chứng nhân trong những buổi họp, hay những lúc riêng tư cho những người chung quanh không? 3/ Trong đời thường, bạn làm gì để bày tỏ lòng yêu mến Chúa qua tha nhân? BÀI 2: SỐNG TIN MỪNG TRONG ĐỜI THƯỜNG – Lm. Antôn Hà Văn Minh Qua Bí tích Rửa tội, người tín hữu được dự phần vào sứ vụ của Chúa Giêsu. Sứ vụ đó chính làm cho mọi người nhận biết ơn cứu độ của Thiên Chúa Cha tỏ bày cho nhân loại qua Đức Giêsu Kitô. Thi hành sứ vụ chính là sống Tin Mừng giữa lòng thế giới, cụ thể trong cuộc sống thường ngày của mỗi tín hữu. Công Đồng nói về cảnh sống trần thế của giáo dân bằng cách trình bày cảnh sống ấy, trước tiên, như là môi trường trong đó họ được Thiên Chúa mời gọi: “Đó là nơi Thiên Chúa gọi họ” (LG số 31). Và thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã giải nghĩa: “nơi” được trình bày bằng những hạn từ có tính cách năng động: giáo dân sống giữa trần gian, nghĩa là dấn thân vào tất cả cũng như từng công việc và bổn phận của trần thế, giữa những cảnh sống thường ngày trong gia đình và ngoài xã hội, tất cả những điều đó như dệt thành cuộc sống của họ. Đó là những con người có một đời sống bình thường trong trần gian, học hỏi, làm việc, thiết lập những tương quan bạn bè, xã hội, nghề nghiệp, văn hóa”[1]. Sống Tin Mừng là gì? Trích dẫn Lời Chúa: “Chính anh em là muối cho đời… là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,13–14), Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã trình bày: “Lời mời gọi của Chúa Giêsu chính là sứ mạng của người tín hữu sống trong thế giới này. Người Kitô hữu không coi thế gian là địa ngục, là nơi giam cầm của những nỗi thống khổ, cũng như không coi thế gian là hạnh phúc vĩnh cửu cho cuộc đời mình, nhưng là nơi để Thiên Chúa tỏ lộ tình yêu của Ngài qua sự cộng tác của con người, và là nơi để con người được thực thi ơn gọi và sứ mạng Kitô hữu của mình trong một tình yêu dấn thân và thánh hóa thế giới: Tham dự vào lãnh vực trần thế, là phận vụ phát xuất từ bản tính nội tại và sứ mạng của mình”[2]. Vì thế, sống Tin Mừng chính là huấn luyện bản thân nhuần thấm Tin Mừng để có thể thực thi ơn gọi của mình cách trọn hảo. Thiên Chúa muốn người tín hữu trở thành muối, thành ánh sáng cho thế giới bằng chính đời sống Tin Mừng của mình, hay nói cách khác người tín hữu dấn thân phục vụ để trần gian nhận biết tình yêu của Ngài dành cho nhân loại, một tình yêu trọng đại đã được thánh Gioan diễn tả: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời” (Ga 3, 16). Nhưng để có thể sống Tin Mừng, dấn thân phục vụ cho Tin Mừng, đòi hỏi người tín hữu phải là người thấm đẫm Tin Mừng. Chỉ là men Tin Mừng khi người hữu phải đầy “chất” Tin Mừng. Vì thế, sống Tin Mừng trước tiên phải kết hợp mật thiết với Đức Kitô, vì Ngài chính là Tin Mừng. Vì thế, cuộc gặp gỡ với Tin Mừng là nền tảng cho việc sống Tin Mừng. Điều đó được thực hiện trước tiên chính là cuộc gặp gỡ Lời qua Kinh Thánh. Công đồng Vatican II trong hiến chế Mạc khải đã minh định: Chúa Cha muốn gặp gỡ con cái mình và ngỏ lời với họ qua Sách Thánh. Như vậy, tiếp cận với Lời Chúa, đọc Thánh Kinh là đi vào một cuộc gặp gỡ, tham gia một cuộc đối thoại với Thiên Chúa[3]. Quả thật việc đọc Thánh Kinh là cách thế tuyệt hảo để có được cuộc đối thoại với Thiên Chúa, vì “chúng ta ngỏ lời với Ngài khi cầu nguyện, và chúng ta nghe Ngài nói lúc chúng ta đọc các sấm ngôn thần linh”[4]. Trong Tông Thư “Khởi Đầu Ngàn Thứ Ba”, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II viết: “Lời Chúa phải trở nên một sự gặp gỡ ban sự sống, theo truyền thống xa xưa và luôn vững chắc về việc đọc Sách Thánh, cho phép rút ra từ bản văn Thánh Kinh Lời Hằng Sống, là lời chất vấn, hướng dẫn và hình thành cuộc sống chúng ta” (số 39)[5]. Người tín hữu chỉ có thể là men Tin Mừng, khi đời sống được đặt trên nền tảng Lời Chúa, không thường xuyên cầu nguyện với Lời Chúa không thể nào hoán cải cuộc đời để có thể làm cho đời mình trở thành men Tin Mừng. Dựa vào hoạt động của Giáo Hội tiên khởi được tường thuật trong sách Tông đồ công vụ, Đức Thánh cha Phanxicô nói: “Chúng ta khám phá động cơ mạnh mẽ của việc loan báo Tin Mừng chính là những buổi quy tụ cầu nguyện, nơi những người tham gia cảm nghiệm cách sống động sự hiện diện của Chúa Giêsu và được Chúa Thánh Thần đánh động. ...Lời cầu nguyện truyền lan ánh sáng và sự hăng hái: ân sủng của Chúa Thánh Thần làm nảy sinh trong lòng họ sự nhiệt thành”[6]. Dĩ nhiên việc tiếp cận Lời Chúa phải gắn chặt với Thánh Thể. Đức Thánh cha Phanxicô đã nói mạnh mẽ: Chỉ trong sự tôn sùng Thánh Thể, chỉ trước mặt Chúa, hương vị và sự say mê truyền giáo mới có thể được phục hồi. Lòng tôn sùng Thánh Thể là động lực giúp cho chúng ta vượt thắng những phong ba bão táp của cuộc đời, đặc biệt đó là nguồn khích lệ cho những người hết lòng chia sẻ Tin Mừng, chính vì trong Bí tích Thánh Thể, “chúng ta gặp gỡ Đấng đã ban mọi sự cho chúng ta” và đến lượt mình, chúng ta trở nên có khả năng chia sẻ tình yêu đó với người khác[7]. Để có thể sống Tin Mừng hầu trở thành men của Tin Mừng, chúng ta cần phải liên kết chặt chẽ với Chúa Kitô qua Lời Chúa, Thánh Thể và cầu nguyện và sống tình huynh đê. Bốn yếu tố: Lời Chúa, tìm kiếm tình hiệp thông huynh đệ, Thánh Thể và cầu nguyện, theo Đức Thánh Cha Phanxicô, chính là tiêu chuẩn để phân định một sự việc. Bất cứ trường hợp nào thiếu những yếu tố này điều thiếu tính Giáo hội, không phải của Giáo hội, yếu tố quan trọng để chứng thực chúng ta thực sự là Men của Tin Mừng.[8] Sống Tin Mừng giữa đời thường Nhìn vào thực tế, trăn trở lớn của Giáo Hội Việt Nam là vấn đề Loan Báo Tin Mừng. Thật vậy, con số tín hữu Việt Nam đến nhà thờ dâng lễ mỗi Chúa Nhật có thể nói cho đến lúc này vẫn đáng tự hào, thế nhưng niềm tự hào này có thực sự là niềm vui đích thực không? Bởi nhìn vào cánh đồng truyền giáo mỗi địa phương vẫn còn ngổn ngang, vẫn còn có qua nhiều người chưa được tiếp cận với Tin Mừng, vẫn còn đó nhưng lương dân là hàng xóm của các gia đình Công giáo, nhưng họ chẳng nghe nói về Chúa Giêsu, không một lần tiếp cận được với Tin Mừng. Câu trả lời được tìm thầy nơi lối sống của người tín hữu Công giáo. Là men Tin Mừng, nhưng họ lại không thể hiện lối sống Tin Mừng ngay trong môi trường mình sinh sống. Họ tách rời đức tin và cuộc sống thường ngày, họ đóng khung lối sống Tin Mừng trong nhà thờ, họ không làm cho men Tin Mừng được dậy lên trong người môi trường mình sống. Cha mẹ vẫn đi dâng lễ ngày Chúa nhật, nhưng chưa một lần hướng dẫn con cái về đời sống đức tin. Người tín hữu vẫn thường xuyên gặp gỡ bạn bè là lương dân, nhưng chưa một lần họ nghe về Chúa Giêsu, nhiều khi còn tệ hơn, để làm vui lòng bạn bè lương dân, người Công Giáo sẵn sàng bỏ đi lễ Chúa nhật; ngoài phố chợ, những chủ cửa hàng Công Giáo vẫn ngần ngại thể hiện lối sống Tin Mừng để giữ đức công bình và đức yêu thương... Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhấn mạnh: “Người tín hữu không được mời gọi rời bỏ vị thế họ đang sống nơi trần gian. Thực vậy, Bí tích Thánh Tẩy không kéo họ ra khỏi trần gian, như thánh Phaolô đã nhấn mạnh: ‘Thưa anh em, khi được kêu gọi ở địa vị nào, mỗi người cứ ở địa vị đó trước mặt Thiên Chúa’ (1 Cr 7,24); trái lại, Ngài trao cho họ một ơn gọi có liên hệ đích thực với tình huống của họ trong trần gian: thực vậy, giáo dân được ‘Thiên Chúa kêu gọi để, dưới sự hướng dẫn của tinh thần phúc âm, như men từ bên trong, họ thánh hóa thế giới bằng việc thi hành những nhiệm vụ của mình; và như thế, với lòng tin cậy mến sáng ngời, nhất là với chứng tá đời sống, họ tỏ lộ Chúa Kitô cho kẻ khác’ (Tông huấn Người Tín hữu Giáo dân, số 15) Cha Mến kể câu chuyện: Chứng nhân trong đời thường như sau: Nhà giáo dục vĩ đại Booker T. Washington có viết như sau trong cuốn tự thuật mang tựa đề: “Từ ách nô lệ đi lên” của ông: “Càng lớn tôi càng tin chắc rằng, không một sự giáo dục nào có thể gặt hái được từ sách vở, hay từ những dụng cụ đắt tiền, mà có thể sánh ví được với những gì ta có thể gặt hái được, do tiếp xúc với các bậc vĩ nhân”. Cách đây ít lâu, một phụ nữ Ấn độ giáo đã trở lại Công giáo, sau một thời gian nghe rao giảng Lời Chúa. Bà chịu nhiều gièm pha, đay nghiến từ người chồng và bao người thân, do việc bà trở lại đạo. Có lần cha xứ hỏi bà: “Khi chồng con nổi giận và hành hạ con, thì con làm gì”? Bà đáp: “Thưa Cha, con cố gắng nấu ăn ngon hơn. Khi ông than trách, con lau chùi nhà sạch hơn. Khi ông ăn nói cộc cằn, con trả lời ôn tồn nhỏ nhẹ. Con cố gắng để chứng tỏ cho ông ta thấy: Khi con trở lại đạo Chúa, con phải là người vợ và người mẹ tốt hơn”. Một thời gian sau, chính ông chồng cũng xin trở lại đạo Công giáo, không phải vì lời giảng của cha xứ, cho bằng chính nhờ gương sáng sống đạo của bà vợ đạo đức của ông.[9] Sắp tới đây Đức Thánh cha Phanxicô sẽ phong thánh cho chân phước Carlo Arcutis, một vị thánh trẻ, được gọi vị thánh thuộc thế hệ Y. Thánh nhân có gì đặc biệt? Không có gì đặc biệt ngoài việc ngài sống Tin Mừng giữa đời thường. Đức hồng y Vallini trong bài giảng lễ phong chân phước đã nói về Carlo Arcutis như sau: Carlo có lòng yêu mến Thánh Thể và gắn bó với Thánh Thể cách đặc biệt. Chúa Giêsu là Bạn, là Thầy, là Đấng Cứu Độ và là sức mạnh cho cuộc sống của Acutis và là động lực của mọi việc cậu làm. Từ đó, Carlo mong muốn mãnh liệt đưa người khác đến với Chúa và cậu làm điều này trên hết bằng gương mẫu cuộc sống. Carlo dùng mọi cách, cả cách thức hiện đại, với tài năng về tin học Chúa ban, để gặp gỡ và loan truyền các giá trị Kitô giáo cho người khác[10]. BÀI 3: BIẾN ĐỔI THẾ GIỚI TỪ BÊN TRONG - Lm. Tôma Vũ Ngọc Tín, S.J. Đời sống Kitô hữu giữa lòng trần thế như những hạt muối tinh tế thấm vào lòng đời, lặng lẽ làm biến đổi thế giới, như men trong bột làm dậy lên cả khối bột. Hành trình hy vọng nhưng cũng đầy thách đố này đòi hỏi sự biến đổi sâu sắc từ bên trong tâm hồn và đời sống mỗi người tín hữu. Khi mỗi người thay đổi từ nội tâm, họ trở thành ánh sáng lan tỏa, chiếu rọi khắp nơi, góp phần biến đổi thế giới bằng chính đời sống đức tin của mình. Theo Sắc Lệnh về Tông Đồ Giáo Dân, linh đạo tông đồ giáo dân không chỉ là sống đức tin một cách cá vị, mà còn là tham gia tích cực vào sứ mạng của Giáo Hội. Giáo dân được mời gọi trở thành những tông đồ giữa đời, mang Tin Mừng đến mọi nơi (Apostolicam Actuositatem-AA, 4). Linh đạo này giúp mỗi người giáo dân nhận ra rằng, họ có một vai trò đặc biệt trong việc xây dựng Nước Trời nơi trần thế, không chỉ qua lời nói mà còn qua hành động cụ thể trong cuộc sống thường ngày: “Bản chất riêng biệt của người giáo dân là sống giữa đời và làm việc đời nên chính họ được Thiên Chúa mời gọi để một khi tràn đầy tinh thần Kitô giáo, họ làm việc tông đồ giữa đời như men trong bột” (AA 2). Sống linh đạo tông đồ giáo dân như thế, trước hết người giáo dân gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu qua Lời Chúa và Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể là tâm điểm đời sống người tín hữu, nuôi dưỡng mỗi người trong hành trình Kitô hữu giữa đời, giúp mỗi người kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu và dấn thân phục vụ sứ mạng của Người: “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu, đó không chỉ là lời mời gọi, mà còn là một yêu cầu thiết yếu, để mỗi Kitô hữu có thể sống đức tin và thực thi sứ mạng của mình. Tham dự Thánh lễ, cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa,… là những phương thế giúp giáo dân nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của mình. Cầu nguyện giúp người giáo dân sống tình thân mật thiết với Chúa, trong khi suy niệm Lời Chúa giúp họ hiểu rõ hơn về ý nghĩa và sứ mạng của mình như được Chúa mời gọi. Kết hiệp với Chúa Giêsu qua Thánh Thể và Lời Chúa là những phương thế sống động để mỗi người trở nên men trong bột, biến đổi thế giới từ bên trong. Từ đời sống gắn kết với Chúa Giêsu, người giáo dân sống đức tin của mình qua những hành động cụ thể trong gia đình, nơi làm việc, và cộng đồng. Điều này có thể bao gồm việc tham gia vào các hoạt động xã hội, hỗ trợ người nghèo, bảo vệ môi trường, và tham gia vào các phong trào xã hội nhằm thúc đẩy công lý và hòa bình. Ý nghĩa của việc trở thành men trong bột là mỗi Kitô hữu đều có thể đóng góp một phần nhỏ nhưng quan trọng vào việc biến đổi thế giới xung quanh. Điều này đòi hỏi mỗi người phải sống đời sống đức tin một cách chân thật và nhiệt thành. Tình yêu và công lý là hai yếu tố không thể thiếu trong linh đạo giáo dân. Mỗi giáo dân được mời gọi sống yêu thương qua những hành động cụ thể, đồng thời nỗ lực thực thi công lý và xây dựng hòa bình. Các hoạt động xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc thực hành tông đồ giáo dân. Tham gia vào các hoạt động này không chỉ giúp mỗi người thực thi sứ mạng truyền giáo, mà còn góp phần xây dựng một xã hội công bằng và yêu thương hơn. Sau cùng, qua đời sống đức tin và dấn thân tông đồ, mỗi người góp phần xây dựng và phát triển cộng đoàn giáo xứ. Qua việc tham gia tích cực vào đời sống giáo xứ, giáo dân không chỉ đóng góp vào sự phát triển của cộng đoàn mà còn tạo ra một môi trường yêu thương và hiệp nhất. Một cộng đoàn yêu thương sẽ là nền tảng vững chắc để mỗi giáo dân có thể thực thi sứ mạng truyền giáo của mình một cách hiệu quả. Tóm lại, hành trình Kitô hữu giữa lòng trần thế là trở thành muối và men, âm thầm, trung kiên, nhẫn nại thấm vào mọi ngóc ngách của cuộc sống, làm biến đổi thế giới từ nội tại. Sống đức tin trong đời thường, thể hiện qua những hành động cụ thể trong gia đình, nơi làm việc và cộng đồng, là cách mỗi Kitô hữu trở thành men trong bột, biến đổi thế giới bằng tình yêu và công lý. Kết hiệp với Chúa qua cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa, cùng tham gia vào các hoạt động xã hội, là nền tảng để mỗi giáo dân góp phần xây dựng một xã hội công bằng và yêu thương, biến đổi thế giới từ bên trong. Hồi tâm 1/ Nhìn lại kinh nghiệm sống đạo, tôi thấy mình trở nên ánh sáng và muối và men trong môi trường sống như thế nào? Tôi có thể làm gì để thẩm thấu và lan tỏa tinh thần Kitô giáo trong gia đình, nơi làm việc, và cộng đồng của mình? 2/ Tôi cảm nghiệm thế nào về ơn gọi và sứ mạng Kitô hữu khi cầu nguyện và suy niệm lời Chúa? Làm thế nào tôi có thể biến những cảm nghĩ thiêng liêng ấy thành hành động cụ thể để xây dựng Nước Trời ngay cuộc sống đời thường của tôi? 3/ Khi đối diện với những thách thức trong cuộc sống và xã hội, tôi trải nghiệm thế nào về tình yêu và công lý như men trong bột, làm dậy lên sự thay đổi tích cực? Tôi có sẵn sàng dấn thân hơn nữa để trở thành người tông đồ truyền giáo giữa đời, lan toả tình yêu và công lý trong môi trường sống thường ngày? BÀI 4: LÒNG CAN ĐẢM VÀ SỰ KHÔN NGOAN KHI DẤN THÂN VÀO ĐỜI SỐNG TRẦN THẾ - Lm. Tôma Vũ Ngọc Tín, S.J. Lòng can đảm và sự khôn ngoan là hai phẩm chất quan trọng mà mỗi Kitô hữu cần có để sống và làm chứng cho đức tin trong đời sống trần thế. Lòng can đảm giúp chúng ta vượt qua những thử thách và khó khăn, dám đứng lên bảo vệ sự thật và công lý. Sự khôn ngoan, hướng dẫn chúng ta hành động một cách sáng suốt, biết phân định phải trái, đúng sai và chọn lựa đường hướng đẹp lòng Chúa. Trong một thế giới đầy biến động và thách thức, lòng can đảm và sự khôn ngoan trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Đối với giáo dân, hai phẩm chất này không chỉ giúp họ sống đức tin một cách mạnh mẽ và vững vàng mà còn đóng góp tích cực vào việc xây dựng một xã hội công bằng và nhân ái hơn. Lòng can đảm là một chủ đề được nhắc đến nhiều trong Kinh Thánh: “Mạnh bạo lên, can đảm lên! Đó chẳng phải là lệnh Ta đã truyền cho ngươi sao? Đừng run khiếp, đừng sợ hãi, vì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, sẽ ở với ngươi bất cứ nơi nào ngươi đi tới” (Gs 1,9). Lời khích lệ này không chỉ dành cho Thủ lãnh Giôsuê mà còn dành cho tất cả chúng ta, những người đang sống và làm chứng cho đức tin. Lòng can đảm giúp chúng ta đứng vững trước những thử thách, bảo vệ niềm tin và dám sống theo những giá trị Tin Mừng trong một thế giới đầy cám dỗ, bạo loạn và bất công. Sự khôn ngoan cũng là một đức tính quan trọng được Kinh Thánh đề cao: “Nếu ai trong anh em thiếu đức khôn ngoan, thì hãy cầu xin Thiên Chúa, Người sẽ ban cho. Vì Thiên Chúa ban cho mọi người cách rộng rãi, không quở trách” (Gc 1,5). Sự khôn ngoan giúp chúng ta biết phân định đúng sai, tốt xấu, lựa chọn đường hướng đẹp lòng Chúa và hành động một cách sáng suốt trong mọi hoàn cảnh. Nó không chỉ là tri thức mà còn là khả năng ứng dụng tri thức đó vào cuộc sống một cách đúng đắn và hiệu quả tốt đẹp. Mỗi người vẫn thường đối diện với những thách đố và nghịch cảnh trong đời sống. Điều quan trọng là cách chúng ta đối diện và vượt qua chúng. Cuộc sống trần thế có muôn vàn cảnh huống mà ở đó, người giáo dân thể hiện lòng can đảm và sự khôn ngoan khi luôn tin cậy Chúa và đối diện khó khăn, chẳng hạn như việc bảo vệ sự thật và công lý trong môi trường làm việc, nơi có thể gặp phải những áp lực và cám dỗ. Lòng can đảm giúp chúng ta không lùi bước, trong khi sự khôn ngoan giúp chúng ta chọn lựa cách hành động phù hợp và hiệu quả. Đời sống đức tin không dừng ở việc tham dự các cử hành phục vụ mà còn sống theo những giá trị Kitô giáo trong đời sống thường ngày. Giáo dân có thể thể hiện lòng can đảm và sự khôn ngoan bằng cách làm gương sáng trong môi trường làm việc, trong gia đình, và trong cộng đồng. Những hành động cụ thể như giúp đỡ người khó khăn, bảo vệ môi trường, và tham gia vào các hoạt động từ thiện đều là những cách thể hiện đức tin một cách sống động và thực tế. Trong nhiều hoàn cảnh, lòng can đảm và sự khôn ngoan của người giáo dân có thể thể hiện trong vai trò lãnh đạo cộng đồng. Trong hoàn cảnh đó, lòng can đảm và sự khôn ngoan không chỉ giúp giáo dân đối mặt với những thách thức mà còn giúp họ hành động một cách sáng suốt và hiệu quả. Sau cùng, giáo dục con cái về lòng can đảm và sự khôn ngoan là một nhiệm vụ quan trọng của các bậc cha mẹ Công Giáo. Giáo dân có thể giúp con cái hiểu và thực hành hai phẩm chất này qua gương sáng trò chuyện thường ngày trước những vấn đề thực tế trong đời sống, giúp con cái phát triển lòng can đảm và sự khôn ngoan trong cuộc sống. Tóm lại, lòng can đảm và sự khôn ngoan là những phẩm chất không thể thiếu để mỗi Kitô hữu sống đức tin trong đời sống trần thế. Những phẩm chất này hằng giúp chúng ta vượt qua thử thách, bảo vệ sự thật và công lý, và hành động minh bạch, tư duy độc lập sáng suốt, mang lại ích lợi chính đáng cho bản thân và cộng đồng. Trong một thế giới đầy biến động, giáo dân cần lòng can đảm để kiên vững vượt qua những trở ngại và sự khôn ngoan để phân định và lựa chọn đúng đắn. Đó là hai phẩm chất giúp người giáo dân dấn thân sống đức tin giữa lòng trần thế, góp phần xây dựng đời sống xã hội thấm đượm Tin Mừng. Hồi tâm 1/ Trong những tình huống cụ thể nào, tôi thường cần đến lòng can đảm để bảo vệ sự thật và công lý? Tôi đã từng phản ứng ra sao và kết quả như thế nào? 2/ Làm thế nào tôi có thể áp dụng sự khôn ngoan để phân định đúng sai và đưa ra quyết định sáng suốt trong các hoạt động và công việc tại giáo xứ của mình? 3/ Nhớ lại một trải nghiệm khi lòng can đảm và sự khôn ngoan của người Công giáo đã tạo ra sự khác biệt tích cực trong cộng đồng xã hội? Tôi cảm nghĩ thế nào về sự dấn thân của người giáo dân, với lòng can đảm và khôn ngoan, vào đời sống xã hội? ________ [1] Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Tông Huấn Người Tín Hữu Giáo dân (Christifideles Laici), số 15. [2] Nt. [3]X. Hiến chế Mạc Khải (Dei Verbum), số 21 [4] X Hiến chế Mạc Khải (Dei Verbum), số 25. [5] Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông thư Ngàn Năm Thứ Ba (Millennio Adveniente), số 39> [6] Đức Phanxicô, buổi tiếp kiến chung trực tuyến sáng thứ Tư 25/11/2020), nguồn Vatican News. [7] Nguồn: www.ncregister.com/commentaries/without-adoration-there-s-no-evangelization [8] Nguồn: www.vaticannews.va/vi/pope/news/2020-11/ [9] Nguồn: https://linhmucmen.com/news/kho-sach-quy/chung-nhan-giua-doi-thuong [10] Nguồn: https://www.vaticannews.va/vi/church/news/2020-10/le-phong-chan-phuoc-carlo-acutis.html
ỦY BAN GIÁO DÂN - THƯỜNG HUẤN THÁNG 07/2024: TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN - MUỐI ...
LINH ĐẠO DUNG NẠP
LINH ĐẠO DUNG NẠP