Thứ tư, ngày 03 tháng 07 năm 2024 | 07:43 PM - Giới thiệu | Ý nghĩa logo
Tài liệu

ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN 2

II. ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN VÀ GIÁO HUẤN XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI CÔNG GIÁO

Qua các thời đại có những người nam và những người nữ, sẵn sàng nghe tiếng gọi của Chúa Cha và được thúc đẩy bởi Chúa Thánh Thần, đã chọn cho mình con đường bước theo Đức Kitô, để tự hiến đời mình cho Ngài, với con tim không chia sẻ. Họ đã từ bỏ mọi sự như các tông đồ, để ở với Ngài và giống như Ngài, phục vụ Thiên Chúa và anh chị em đồng loại. Như thế họ góp phần vào việc biểu lộ mầu nhiệm, và sứ mạng của Giáo Hội bằng muôn vàn ân sủng, thuộc đời sống thiêng liêng và tông đồ mà Chúa Thánh Thần đã ban cho họ, nhờ đó họ góp phần vào việc canh tân xã hội.[19]

Với Giáo Huấn Xã Hội của mình, Giáo Hội tìm cách công bố Tin Mừng và làm cho Tin Mừng hiện diện trong hệ thống phức tạp các môi quan hệ xã hội. Không chỉ là làm sao đem Tin Mừng đến được với con người trong xã hội - con người là kẻ tiếp nhận Tin Mừng được công bố - mà còn làm sao cho xã hội được thấm nhuần Tin Mừng và được phong phú lên nhờ Tin Mừng.[20]

Giáo Huấn Xã Hội của Giáo Hội Công Giáo vừa bắt nguồn từ Kinh Thánh, vừa tích lũy những suy tư và kinh nghiệm của Giáo hội suốt dọc lịch sử, vừa trung thành với sứ vụ muôn thuở của Kitô giáo, vừa thích nghi và đổi mới không ngừng để trả lời cho những thách đố của mỗi thời đại. Hơn nữa thế kỷ vừa qua, Giáo Huấn Xã Hội của Giáo Hội Công Giáo đã chứng tỏ cho mọi người thấy rằng ước muốn đọc những dấu chỉ thời đại dưới ánh sang Tin Mừng và quyết tâm đối thoại với nhân loại hôm nay là một trong những mục tiêu của Hội Thánh trong thời hiện đại.[21]

Do đó, chúng ta nên nhớ lại những đặc điểm của ba loại ơn gọi mà Tông huấn Đời Thánh Hiến nói đến: “Bậc giáo dân, vì lẽ tính chất trần thế của ơn gọi của họ, phản ánh cách riêng mầu nhiệm ngôi Lời Nhập thể, trong mức độ Ngài là Khởi đầu và cùng đích của thế giới, nền tảng và là mức độ của giá trị của các vất thọ tạo. Các thừa tác vụ thánh thì có phận vụ là những hình ảnh sống động của Đức Kitô, Đấng là Thủ lãnh và Mục tử hướng dẫn dân Ngài trong thời gian “đã và còn chưa đến” này, khi người ta còn đang đợi việc ngài đến trong vinh quang. Còn đời sống thánh hiến thì được trao phó nhiệm vụ cho thấy Con Thiên Chúa Nhập thể chính là mục tiêu cánh chung mà mọi sự phải vươn tới, là sự rực rỡ mà mọi ánh sáng so với nó chỉ là mờ nhạt, là vẻ đẹp mà chỉ cần một mình nó đã là đủ để hoàn toàn thỏa mãn trái tim con người”.[22] Từ những lời trên, chúng ta có thể rút ra hai hệ quả có liên hệ với giáo huấn xã hội của Hội Thánh.

Hệ quả thứ nhất chính là “những trách nhiệm liên quan đến việc xây dựng, tổ chức và bước hoạt động của xã hội […] cách riêng thuộc về trách nhiệm của giới giáo dân, vì lý do điều kiện trần thế của ơn gọi của họ: qua các trách nhiệm đó, các người giáo dân đem giáo huấn xã hội vào hành động và hoàn tất sứ mệnh trần thế của Hội Thánh”.[23]

Hệ quả thứ hai liên quan đến hạt nhân của mối liên hệ này: đó là mối tương quan giữa đời thánh hiến và Giáo huấn xã hội công giáo xuất phát từ các mối dây liên kết hiện có giữa thực tại xã hội trong mỗi thời điểm của lịch sử và đích nhắm cánh chung. Những mối dây liên kết này thật rất chặt chẽ bởi lẽ chúng thuộc về chân lý toàn diện của con người, như giáo thuyết Kitô giáo đã dạy và kinh nghiệm của con người đã cho thấy. Xét về quan điểm giáo thuyết, chúng ta chỉ cần nhớ đến giáo huấn của Công Đồng Vatican II: cuộc sống trần thế có một sự giới hạn; tuy nhiên chúng ta biết được rằng Thiên Chúa chuẩn bị một nơi cư ngụ mới và một đất mới, trong đó sự công chính cư ngụ, và hạnh phúc của nó sẽ làm thỏa mãn cách dư tràn tất cả mọi khát vọng hòa bình nẩy sinh trong lòng con người. Tuy nhiên việc chờ đợi một đất mới không được phép làm yếu đi, mà trái lại nó phải kích thích mối quan tâm đến công việc có liên hệ đến trái đất hiện nay, nơi một cơ thể nhân loại mới tăng trưởng, một nhân loại cống hiến một hình ảnh báo trước tỏa bóng của một thế giới mới. Dù cho chúng ta vẫn còn phải phân biệt một cách chính xác giữa tiến bộ trần gian với sự phát triển của Nước Chúa Kitô, tuy nhiên một bước tiến bộ trần thế nêu ở trên, trong mức độ nó góp phần để sắp đặt một trật tự tốt hơn cho xã hội của con người, quả có một tầm mức quan trọng rất lớn cho Vương Quốc của Thiên Chúa.[24]

Ngay cả kinh nghiệm cụ thể cũng nêu rõ thực tại của các mối dây liên kết này; chúng ta có thể nhìn từ hai góc nhìn bổ sung cho nhau: một bên là tiêu cực, là những xáo trộn của xã hội xuất phát từ sự lơ là đối với chúng; còn bên kia là phía tích cực, tức là các hiệu năng có lợi của việc nhìn nhận chúng và thi hành chúng. Xét về phương diện tiêu cực, bằng chứng hiển nhiên của lịch sử và giáo huấn bền bỉ của Huấn Quyền cho thấy nền vô thần là một trong những hiện tượng nghiêm trong hơn cả của thời đại chúng ta, nó tạo nên những hậu quả nghiêm trọng nhất cho đời sống xã hội.[25] Một nền nhân học không biết đến sự mở ra cho siêu việt tính của nhân vị tất không nhận biết được yếu tố quan trọng nhất: đó là tinh thần. Khi điều đó xẩy ra, thì mọi sự tăng trưởng nhân bản và xã hội đều được phó thác cho tiến bộ kỹ thuật và đi đến kết cuộc là quay trở lại chống đối con người. Kết luận hiển nhiên nhất của nó chính là kế hoạch về một xã hội thực sự nhân bản phải phát xuất từ những giá trị siêu việt, để rồi đi xuống các giá trị xã hội và vật chất. Việc không chịu xây dựng xã hội theo cách thế như vậy tất sẽ kéo theo “những sự mất trật tự” hiển nhiên trong thế giới hiện tại: Nếu chúng ta bỏ Thiên Chúa ra bên ngoài, thì tất chỉ còn có quyền hành quá đáng, sự ép buộc conngười về mặt thể xác hoặc tinh vi hơn, dươi hình thức của các áp đặt hay giới hạn khác nhau về diện kinh tế – xã hội và về phương diện truyền thống. Điều này hiển nhiên trong lịch sử mới đây cũng như hiện tại: một khi các căn rễ tôn giáo của một nhóm bị đánh mất đi, thì các mối tương quan giữa các thành phần của nhóm trở thành căng thẳng và đầy bạo lực, bởi vì khi đó sức mạnh luân lý để mà hành động sẽ bị suy giảm hay phân tán mất. Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII đã nói như vậy: “Khía cạnh thê thảm đặc trưng của thời đại tân thời nằm ở trong nỗ lực phi lý muốn tái thiết lập một trật tự trần thế vững mạnh và phong phú trong khi không lý gì đến Thiên Chúa, Đấng là nền tảng độc nhất dựa trên đó họ mới có thể đứng vững; và muốn cử hành sự vĩ đại của con người bằng cách làm khô cạn nguồn mạch làm vọt trào lên và nuôi dưỡng chính sự vĩ đại của nó, nghĩa là bao có thể kìm hãm, hoặc nếu có thể tiêu diệt sự hít thở của con người vươn tới Thiên Chúa. Chẳng phải là kinh nghiệm của mỗi ngày tiếp tục chứng minh, giữa những sự vỡ mộng cay đắng nhất và không hiếm khi kể cả sự đổ máu nữa, tất cả những gì mà sách mặc khải đã nói: “Nếu Thiên Chúa không xây dựng nhà cửa, thì thợ nề làm việc cũng uổng công thôi” (Tv 126:1)”.[26] Các Đức Giáo Hoàng Phaolô VI,[27] Gioan Phaolô II,[28] và Benedicto XVI[29] cũng đều lên tiếng như vậy. Điều trên cắt nghĩa tại sao Huấn Quyền đã nhắc đi nhắc lại rằng, sự tách lìa giữa đức tin và cuộc sống hằng ngày chính là một trong những lầm lạc nghiêm trọng nhất của thế giới hiện nay.

Hệ quả lập tức của sự đánh mất cảm thức về Thiên Chúa chính là sự mất cảm thức về tội và tính cách tiêu cực của cuộc sống xã hội. Rõ ràng là bất chấp tiến bộ mà xã hội đã kinh nghiệm được, hoàn cảnh hiện tại thật rất xa với việc làm thỏa lòng mong ước: còn có hằng triệu những con người không có được cả đến những của điều căn bản, đang chịu đối xử tàn tệ, không được hưởng hòa bình và tự do xã hội sơ yếu nhất. Kết quả này chính là một hậu quả rất hợp lý của tội lỗi: “Tội của con người, tức là sự đoạn tuyệt của họ với Thiên Chúa, chính là lý lẽ tận căn của những thảm cảnh đánh dấu lịch sử của sự tự do”.[30] Chuyện là như vậy bởi vì sự rối loạn luân lý đưa đến sự mất trật tự về mặt nhân bản cũng như về mặt thể lý: Con người “trong khi từ chối kế hoạch tình yêu của Thiên Chúa, đã tự lừa dối chính mình, trở thành nô lệ của tội lỗi. Sụ tha hóa thứ nhất này sản sinh ra muôn vàn sự tha hóa khác. Lịch sử nhân loại, khởi sự từ những lúc khởi nguồn, đã làm chứng cho những bất hạnh và những sự đàn áp phát sinh từ trái tim con người, là kết quả của việc sử dụng sai trái sự tự do”.[31] Đàng khác, các tội cá nhân hướng đến việc thể chế hóa các “cơ cấu của tội lỗi”,[32]là những cái trong khi tác động sai trái tới hạnh kiểm của con người –tuy vẫn không lấy đi sự tự do của họ – trở thành nguồn mạch của các tội lỗi khác.[33] Cho nên căn rễ của các sự dữ của xã hội và cái tâm địa chấn của “vấn đề xã hội” chính là số lượng và sự nghiêm trọng của các tội thế gian.

Chắc chắn “tội lỗi” và “các cơ cấu tội lỗi” là những phạm trù không được thường xuyên áp dụng vào hoàn cảnh của thế giới hôm nay. Tuy nhiên, “chúng ta sẽ không dễ dàng hiểu được một cách sâu xa về thực tại diễn ra trước mắt chúng ta nếu không trao bao một cái tên cho cái căn rễ của những sự dữ đang làm khổ chúng ta”.[34] Hơn nữa môt sự chẩn đoán xã hội mà không lưu ý đến mầu nhiệm sự dữ tất yếu sẽ là một sự chẩn đoán hời hợt trong đó nhân loại đầy dẫy nỗi bất an, khốn đốn, nhưng lại chẳng biết được chuyện gì đã xẩy ra, thậm chí chẳng tìm ra được phương dược trị bệnh. Theo nghĩa đó, quan trọng là trong nỗ lực làm cho xã hội trở nên tốt lành hơn, chúng ta không được quên thực tại của tội lỗi và sự bất lực trong việc xây dựng một trật tự xã hội vững bền và xứng đáng với con người một khi mình sao nhãng những gí trị luân lý và những nhân đức có liên hệ đến chúng.[35] Một lý do nữa chính là “khi mình chẩn đoán cái dữ như vậy có nghĩa là mình nhận ra một cách chính xác trên bình diện hạnh kiểm của con người một hành trình mà mình phải theo đuổi để vượt thắng được nó”.[36]

Nếu bây giờ chúng ta chuyển sang quan điểm tích cực, chúng ta cần phải nhấn mạnh tới sự cần thiết là trật tự xã hội phải có một nền tảng vững chắc, để không trở thành con mồi cho những quan điểm hay thay đổi hay những trò chơi quyền lực: và chỉ có Thiên Chúa mới là nền tảng tuyệt đối đó.[37] Quả vậy, “chính mầu nhiệm Thiên Chúa, Tình yêu Ba ngôi, tạo thành nền tảng cho ý nghĩa và giá trị của con người, của xã hội và của hành động của con người trong thế giới, như đã được mặc khải và được thông ban cho nhân loại qua Đức Giêsu Kitô, trong Thần Khí của Ngài”.[38] Bởi thế, chúng ta phải tránh tách lìa, nhất là còn phải tránh đem đối lập giữa trật tự tôn giáo và trật tự xã hội, là những cái bao hàm lẫn nhau và cổ xúy cho nhau.[39] Trái lại, cần phải sống hài hòa với cả hai lãnh vực thuộc chân lý của con người: tức là mối liên hệ vô điều kiện cùng Thiên Chúa[40] và sự quan tâm đến đồng loại và thế giới là cái không bị hư vô hóa, trái lại còn được củng cố chắc chắn nhờ vào bình diện của sự tập trung vào Thiên Chúa, bởi lẽ có một sự liên kết bất khả phân “giữa mối liên hệ mà con người được gọi để có với Thiên Chúa và trách nhiệm đối với đồng loại, trong các hoàn cảnh cụ thể lịch sử”.[41]

Chúng ta có thể rút ra từ những gì đã nói đến là đời sống thánh hiến có một vai trò đáng kể trong việc xây dựng thế giới này. Công Đồng Vatican II đã nhắc nhở tới điều này: “Đừng có ai nghĩ rằng các tu sĩ với việc thánh hiến của họ trở thành xa lạ với con người hay vô ích trong xã hội trần thế. Bởi vì ngay cả khi họ không trực tiếp hiện diện bên cạnh những người dương thời của họ, thì họ vẫn còn hiện diện một cách thâm sâu hơn bằng sự dịu dàng của Chúa Kitô, và cùng với những người đó, họ cộng tác cách thiêng liêng, để cho việc xây dựng xã hội trần thế luôn luôn được đặt nền tảng trong Chúa, và được hướng đến Ngài, để cho những người đang xây dựng nó không làm việc luống công”.[42] Rốt cuộc, sự kết hiệp hài hòa và đúng theo phẩm trật giữa bình diện cánh chung và bình diện trần thế của cuộc sống Kitô hữu nêu rõ rằng lãnh vực thứ nhất của sự dấn thân xã hội của các người thánh hiến chính là làm cho thấy được xuyên qua đời sống của họ, cái thực tại cánh chung và kế hoạch đầy yêu thương của Thiên Chúa cho con người và cho thế giới. Đó sẽ là nhiệm vụ xã hội chính yếu của các người được thánh hiến, bởi như công đồng đã dạy, các công việc tông đồ sẽ không hữu hiệu nếu không được sinh động hóa bởi một sự canh tân thiêng liêng.[43]

III. ĐỌC CÁC DẤU CHỈ CỦA THỜI ĐẠI

“Những niềm vui và hy vọng, những buồn đau và lo lắng của con người hôm nay, nhất là của những người nghèo và của tất cả những ai đau khổ, cũng chính là những niềm vui và hy vọng, những nỗi sâu buồn và âu lo của các môn đệ Đức Kitô, và không có bất cứ cái gì thuộc về con người một cách chân chính mà lại không có vang âm trong cõi lòng của họ”.[44]

Đây có lẽ là một vài lời trong số những lời được nêu lên nhiều nhất của Công Đồng Vatican II, và đó là lời khai đề của Hiến chế mục vụ về Hội Thánh trong thế giới hiện tại.

Và số 4 của Hiến chế này còn tiếp tục: “… Và bổn phận còn đó mãi của Hội Thánh chính là tìm hiểu các dấu chỉ của các thời đại và cắt nghĩa chúng trong ánh sáng của Tin Mừng, để sao cho thích hợp với mỗi thời đại, Hội Thánh có thể đáp ứng được cho các câu hỏi luôn tồn tại của con người về ý nghĩa của đời sống hiện tại và tương lai và về mối tương quan lẫn nhau giữa chúng. Quả thực cần phải biết và hiểu thế giới trong đó chúng ta sống, các nỗi mong chờ, các khát vọng và tính chất bi kịch của nó. Đó chính là cách thức để có thể phác họa ra các đặc tính nổi bật của thế giới hiện tại”.[45]

Chúng ta phải luôn nhắc nhở lại trong trí nhớ (khơi dậy lại, gợi lại trong đáy lòng, trong con tim) rằng yếu tố thiết yếu của hành trình Kitô hữu chính là khả năng bền bỉ biết thăm dò các dấu chỉ của các thời đại và cảm nghiệm chúng trong ánh sáng của Tin Mừng.

Nếu đây là chuyện đúng cho mọi người đã được rửa tội, thì lại càng đúng cách đặc biệt cho những ai đã tuyên khấn muốn đi theo sát hơn Đấng Kitô chịu đóng đanh và sống lại khiết tịnh, nghèo khó và vâng phục. Như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nhắc nhở trong Tông huấn Đời Sống Thánh Hiến: “Trên hết một đời sống thánh hiến cần phải để cho nó liên tục bị chất vấn bởi Lời Thiên Chúa đã được mặc khải và bởi các dấu chỉ của các thời đại…Việc Truyền bá Tin Mừng mới đòi hỏi các người được thánh hiến nam nữ một ý thức đầy đủ về ý nghĩa thần học của các thách đố của thời đại chúng ta. Những thách đố này phải được đem ra xét nghiệm với một sự biện phân chăm chú và tập thể, nhằm canh tân sứ mạng”.[46]

Thật vậy, chính các biến cố của cuộc sống đánh dấu một thời đại nhất định của lịch sử; xuyên qua những biến cố này, người Kitô hữu, nhất là người Kitô hữu thánh hiến, cảm thấy mình được chất vấn bởi Thiên Chúa và được gọi cống hiến một sự đáp trả Tin Mừng. Chúng ta phải để cho mình bị chất vấn bởi các dấu chỉ của các thời đại, bị đánh động, và bị làm cho bất an…

“Có biết bao các nhu cầu khẩn thiết! Nạn đói, bệnh tật, nạn thất nghiệp, những bất an đủ loại. Có biết bao nhiêu những vết thương: những bất công, sự thiếu dân chủ và tự do, sự thiếu văn hóa. Hơn thế: các trẻ thơ là nạn nhân của bạo lực và của các sự đàn áp, các phụ nữ thiếu các quyền bình đẳng của thế giới trong cảnh không thể chịu nổi. Chính cuộc sống quá thường xuyên trở thành nhàm chán, tầm thường, khiến cho chúng ta phải sáng tạo ra các kiểu nói “dễ nghe” để có thể biến chúng thành những vùng có thể làm an ổn những nỗi day dứt của lương tâm chúng ta: thế nên ngày nay người ta nói đến “điều hòa kinh nguyệt” và “cái chết êm dịu” như thể bằng cách ấy họ làm cho con người thoát được cái ách đè nặng của sự thánh thiêng của sự sống và của nhân vị con người mà con người vi phạm. Thế nhưng đó chính là những cái chết của thai nhi, của người già được hoạch định và được thi hành một cách bi thảm!

Thế rồi thế giới của chúng ta liên tục bị thách thức bởi một sự thờ ơ ngày càng gia tăng đối với những đau khổ. Chúng ta đã trở nên quá quen nhìn những nỗi đau khổ, bệnh tật và nạn đói khiến cho chúng ta ngày nay vẫn có thể đi cách lạnh lùng ngay bên cạnh một hoàn cảnh ghê gớm nhất trong các hoàn cảnh mà không hề nháy mắt. Chúng ta đã trở thành quen đi với việc ngắm những tòa nhà chọc trời xừng xững đứng bên cạnh các khu ổ chuột bi thảm. Nền văn hóa đương thời của chúng ta đầy dẫy những ví dụ như thế. Ngày nay các phương tiện truyền thông trực tiếp đem tới nhà chúng ta những cảnh rùng rợn của chiến tranh và bạo lực, của đói khổ và nghèo nàn, của bệnh tật và bất ổn, các hình ảnh của những thảm họa tự nhiên như lụt lội và động đất. Chúng ta đang gặp nguy cơ bị mắc bẫy vào một nền văn hóa bị cai quản bởi sự thụ động, không có hoạt động và hờ hững. Thay vì là những người hành động, chúng ta chỉ còn là những kẻ bàng quang đứng nhìn”.[47]

IV. DẤN THÂN CHO CÔNG LÝ VÀ HÒA BÌNH: CÔNG BỐ TIN MỪNG

Trong một thế giới đầy dẫy những bất công và nghèo đói, các tu sĩ được mời gọi dấn thân loan báo Tin Mừng và làm việc không ngừng cho công lý và hoà bình để thăng tiến phẩm giá của những người nghèo khổ, kém may mắn. việc noi gương Chúa Giêsu yêu thương và phục vụ sẽ là nguồn an ủi lớn lao cho mọi người, nhất là những người đang phải chịu nghịch cảnh trong cuộc sống và cổ vũ một nền hoà bình và công lý cho xã hội hôm nay, trước hết là mang khuôn mặt yêu thương của Chúa Kitô đến với mọi người.[48]

Sự dấn thân cho công lý và hòa bình nhất thiết gắn liền với việc công bố Tin Mừng, không chỉ trong tư thế ‘của việc tiền loan báo Tin Mừng’, mà còn là chiều kích nền tảng của đời sống của mỗi Kitô hữu.[49] Vì sự hiện diện và dấn thân trong mọi lãnh vực cuộc sống của Giáo Hội và xã hội, các người thánh hiến xứng đáng với lòng biết ơn của cộng đồng Giáo Hội. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II diễn tả lòng biết ơn đó khi cầu nguyện với Thiên Chúa như sau: “Chúng con tạ ơn Cha vì món quà đời sống thánh hiến. Họ hằng tìm kiếm Cha trong đức tin và mời gọi mọi người đến gần Cha, nhờ sứ mạng của họ trên khắp hoàn vũ”.

Đức nguyên Giáo Hoàng Benedicto XVI cũng chia sẻ tư tưởng ấy khi nói về ba mục đích của Ngày thế giới Đời sống Thánh Hiến 2010: “Ca tụng và tạ ơn Chúa về ân huệ đời sống thánh hiến; Thăng tiến sự hiểu biết và lòng quý trọng của Dân Chúa đối với đời sống thánh hiến; Mời gọi những ai hiến dâng cuộc đời cho Tin Mừng cử hành những điều kỳ diệu Chúa đã làm nơi mình. Cha chào đón và cám ơn từng người các con với một niềm yêu thương lớn lao, Cha thân ái gần gũi và tán dương những điều tốt lành các con đã phục vụ Dân Chúa”.

Thông điệp “Thiên Chúa là tình yêu” còn khẳng định: “Bản chất thâm sâu của Giáo Hội được diễn tả trong ba nhiệm vụ: loan báo Lời Thiên Chúa, việc cử hành các Bí tích, và việc phục vụ của đức ái. Đó là những nhiệm vụ tương quan lien đới cần thiết và không có thể tách rời khỏi nhau. Đối với Hội Thánh, Đức Ái không chỉ là một loại hoạt động cứu trợ xã hội mà ta có thể đẩy sang cho người khác, mà thuộc về chính bản chất của Hội Thánh, là biểu hiện không thể từ bỏ được của chính yếu tính của Hội Thánh”.[50] Ngài cũng nêu bật rất nhiều những gương sống của các dòng tu đã được thiết lập vào thế kỷ XIX để bước vào mặt trận chống sự nghèo khó, bệnh tật và những hoàn cảnh thiếu thốn trên lãnh vực giáo dục và phát triển cuộc sống.[51]

Chúng ta trải qua một cảm nghiệm sâu sắc với những thăng trầm kể từ Sắc lệnh “Đức Ái Hoàn Hảo” của Vatican II, tại đó hạn từ “công lý” không được nói tới, cho đến ngày hôm nay. Theo hướng này, sợi dây liên kết chặt chẽ giữa đời sống tu sĩ và hoạt động cho công lý và hòa bình đã được nhấn mạnh đến trong Tóm lược giáo huấn xã hội công giáo: “Ơn tận hiến bản thân của các tu sĩ cũng được đề ra cho suy tư chung như là dấu chỉ đặc trưng và ngôn sứ của Giáo huấn xã hội, xuyên qua việc người tu sĩ đặt mình hoàn toàn vào trong việc phục vụ mầu nhiệm đức ái của Chúa Kitô đối với loài người và đối với thế giới. Các tu sĩ thi hành và tỏ lộ ra trong đời sống của họ một vài nét của nhân loại mới mà Giáo huấn xã hội muốn khích lệ”.[52]

Đời sống thánh hiến nơi các tu sĩ sẽ ý nghĩa hơn khi họ biết sống đúng bình diện thiêng liêng bằng hoạt động cho Công lý một cách sâu xa hơn nhiều so với các nhóm khác. Về điểm này tài liệu Khởi sự lại từ Đức Kitô quả quyết như sau: “Một cuộc sống được biến đổi hình dạng bởi các lời khuyên Phúc âm tất nhiên trở thành chứng tá ngôn sứ và thinh lặng, và đồng thời cũng là một dấu chứng phản hồi hùng hồn chống lại một thế giới bất nhân. Cuộc sống như vậy dấn mình thăng hoa cho con người và làm thức tỉnh một ý thức phong phú hơn trong việc thể hiện đức ái. Sự việc này biểu lộ ra không chỉ trong sự hữu hiệu của việc phục vụ, mà nhất là trong khả năng biến bản thân mình nên liên đới với những ai phải chịu đau khổ, nhờ thế mà cử chỉ giúp đỡ được cảm nhận như là một sự đồng chia sẻ huynh đệ. Hình thức thông truyền Tin Mừng này vốn được thực hiện xuyên qua tình yêu và sự tận tụy hy sinh trong các công việc, đảm bảo một chứng tá sáng ngời cho đức ái diễn tả không chỉ bằng lời lẽ mà bằng chính đời sống chứng nhân Tin Mừng”.[53]

Sứ mạng trước hết chính là việc phục vụ cho phẩn giá của con người trong một xã hội đã bị biến thành vô nhân, bởi lẽ sự nghèo khó thứ nhất và nghiêm trọng nhất của thời đại chúng ta chính là việc chà đạp lên các quyền con người bởi cả một sự dửng dưng. Với năng động lực của đức ái, của tha thứ, của hòa giải, các người thánh hiến nam hay nữ cùng với tất cả các thành phần của cộng đồng Hội Thánh, đều được gọi xây dựng một thế giới trong công bình, đủ khả năng cống hiến những khả thể mới và tốt đẹp hơn cho sự sống và cho sự phát triển của con người.[54]

Các tin khác

VIDEO

  Bài 2: HIỆP HÀNH: Hiệp Thông - Tham Gia - Sứ Vụ | Thường huấn linh mục GP Ban Mê Thuột 2023

  Bài 1: Tầm Nhìn Hoàn Vũ | Thường huấn linh mục GP Ban Mê Thuột 2023

  ĐỨC TIN | Tròn Đầy & Trong Sáng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh

  Mục Vụ Văn Hóa: DANH - LỢI - NGHĨA | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh

  Cử Hành Phụng Vụ | Gặp Gỡ Chúa Kitô - Loan Báo Tin Mừng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn văn Hinh

  Thần Học Mục Vụ & Công đồng Vatican II: Con người - Giáo hội - Môi trường

  Hiệp Hành Hội Ý Dựng lại Mùa Xuân | Người Giáo dân Thiên niên kỷ mới

  Bài 4: Văn Hóa Tổ Chức - Đời Sống Cá Nhân

  Hiệp Hành Kín Đáo và Minh Bạch

  Văn Hóa Tổ Chức - Tổ Chức Cộng Đồng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh (Phần 3)

  Tìm hiểu về văn hóa (Phần 2) - Lm Gioan Kim Nguyễn Văn Hinh

  Tìm hiểu về văn hóa (Phần 1) - Lm Gioan Kim Nguyễn Văn Hinh

  TRỰC TUYẾN BÀI 29: MỤC VỤ THÁNH THIỆN THUẬN THEO

  TRỰC TUYẾN BÀI 28 : MỤC VỤ TÍCH HỢP VĂN HÓA ĐÔNG TÂY

  TRỰC TUYẾN BÀI 27 : MỤC VỤ LỜI CHÚA NGÀY NAY

  TRỰC TUYẾN BÀI : TÌM HIỂU VỀ VĂN HÓA VÀ BẢN SẮC VĂN HÓA VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 26: MỤC VỤ ĐẠO ĐỨC KINH TẾ DỊCH VỤ

  TRỰC TUYẾN BÀI 25: MỤC VỤ TUẦN THÁNH UY VÀ ĐỨC

  TRỰC TUYẾN BÀI 24: MỤC VỤ GIA TÀI CỦA MẸ

  TRỰC TUYẾN BÀI 23: MỤC VỤ BỔ VÀ TẢ

  mvgd20162016

  TRỰC TUYẾN BÀI 21: MỤC VỤ LUẬT CÂN BẰNG

  TRỰC TUYẾN BÀI 20: TRUY TÌM MÃNH LỰC

  TRỰC TUYẾN BÀI 19: THẾ GIỚI HÔM NAY CẦN NHỮNG NGƯỜI CHA NHÂN HẬU LÝ TƯỞNG VÀ THỰC TIỄN

  TRỰC TUYẾN BÀI 18: NĂM THÁNH THÁNH CẢ GIUSE LÃNH ĐẠO VÀ NIỀM TIN

  TRỰC TUYẾN BÀI 17: MỪNG XUÂN TÂN SỬU 2021 - LÒNG BIẾT ƠN TIN VUI ĐẠO ĐỨC VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 17: MỪNG XUÂN TÂN SỬU 2021 - LÒNG BIẾT ƠN TIN VUI ĐẠO ĐỨC VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 16: ĐỀ TÀI ĐIỂM TỰA

  TRỰC TUYẾN BÀI 14: VĂN HÓA KHÔNG NHẬN SAI NHƯNG SỬA SAI

  TRỰC TUYẾN BÀI 13: VUN TRỒNG NỀN VĂN HÓA “TÂM LINH – KHOA HỌC”

  TRỰC TUYẾN BÀI 12: NĂM MỚI 2021 XÂY DỰNG NỀN VĂN MINH TÂM LINH & KHOA HỌC

  TRỰC TUYẾN BÀI 11: GIÁNG SINH 2020 - LÀM NGƯỜi - GIÊSU

  TRỰC TUYẾN BÀI 10: PHÍA ĐẰNG SAU TÂM LINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 9: ĐỂ CÓ CHÚA THÁNH THẦN

  TRỰC TUYẾN BÀI 8: LOAN BÁO TIN MỪNG

  TRỰC TUYẾN BÀI 7: PHÒNG ĐÀO LUYỆN TÂM LINH CỦA TÍN HỮU DÂN CHÚA

  TRỰC TUYẾN BÀI 6: ĐÀO LUYỆN TÍN HỮU DÂN CHÚA

  TRỰC TUYẾN BÀI 5: TẦM NHÌN THIÊN NIÊN KỶ MỚI

  TRỰC TUYẾN BÀI 4: ĐÀO LUYỆN TÂM LINH BẮT ĐẦU TỪ THÁNH THỂ HAY THÁNH KINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 3: PHƯƠNG THỨC CẦU NGUYỆN CẢM NGHIỆM- SỐNG THÁNH GIỮA ĐỜI

  TRỰC TUYẾN: BÀI 2: GIẢI THÍCH ĐÀO LUYỆN TÂM LINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 1: ĐÀO LUYỆN TÂM LINH

  TintucVatican

  Thánh Lễ Tuyên Thánh Jacinta và Francisco Marto

  Muối và ánh sáng

  Thế Giới Nhìn Từ Vatican

  Nghi thức đóng Cửa Thánh

  Xin Mẹ Thương

  Thế Giới Nhìn Từ Vatican

  Suy Niệm với Đức Thánh Cha Phanxicô

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__3

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__1

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__2

  Thường huấn HĐMVGX Ban Mê Thuật

  Quốc tế thiếu nhi 01-6-2014

  Thể dục Dưỡng Sinh

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  CƠM TRƯA TRUNG THU 2013

  Thi đấu thăng cấp sơ đẳng Vovinam

  Khai mạc kỳ thi thăng cấp Vovinam

  Vovinam

  Đào luyện tâm linh

  Nghệ thuật cân bằng

  Đào Luyện Tinh Thần

  Đào Luyện Thể Chất

Bài viết mới
BÀI GIẢNG ĐỨC THÁNH CHA - CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN NĂM B
BÀI GIẢNG ĐỨC THÁNH CHA - CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN NĂM B.
ỦY BAN GIÁO DÂN - THƯỜNG HUẤN THÁNG 07/2024: TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN - MUỐI VÀ ÁNH SÁNG CHO THẾ GIỚI avatar Ủy ban Giáo dân 01/07/2024 Giáo hội là Dân Thiên Chúa, nơi mỗi người tín hữu, dù là giáo sĩ hay giáo dân, đều đóng góp vai trò không thể thiếu trong sứ mạng loan báo Tin Mừng. Chủ đề “Tông đồ giáo dân: Muối và ánh sáng cho thế giới” tập trung vào việc khai triển và cổ võ vai trò của giáo dân trong việc trở thành muối ướp mặn đời và ánh sáng soi sáng trần gian. Ủy ban Giáo dân Hội đồng Giám mục Việt Nam THƯỜNG HUẤN THÁNG 07/2024: TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN: MUỐI VÀ ÁNH SÁNG CHO THẾ GIỚI BÀI 1: HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN DỰA TRÊN LỜI CHÚA - Phanxicô Xaviê Nguyễn Thái BÀI 2: SỐNG TIN MỪNG TRONG ĐỜI THƯỜNG – Lm. Antôn Hà Văn Minh BÀI 3: BIẾN ĐỔI THẾ GIỚI TỪ BÊN TRONG - Lm. Tôma Vũ Ngọc Tín, S.J. BÀI 4: LÒNG CAN ĐẢM VÀ SỰ KHÔN NGOAN KHI DẤN THÂN VÀO ĐỜI SỐNG TRẦN THẾ - Lm. Tôma Vũ Ngọc Tín, S.J. BÀI 1: HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN DỰA TRÊN LỜI CHÚA - Phanxicô Xaviê Nguyễn Thái “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. “Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá. Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành” (Mt 7, 21.24 – 27). Đọc đoạn Tin Mừng trên cho chúng ta thấy: sống Tin Mừng trong đời thường là một hành trình đức tin mà qua đó, người Kitô hữu áp dụng lời dạy của Chúa Giêsu vào cuộc sống hàng ngày. Yêu Chúa không chỉ là tham dự các thánh lễ, các giờ kinh, mà phải thi hành ý muốn của Chúa Cha qua việc lãnh nhận các bí tích thường xuyên và qua cách chúng ta tương tác với mọi người xung quanh, cách chúng ta hành xử với thử thách và cách thực hiện các quyết định. Dưới đây là một số suy tư của giáo dân và một số cách để sống Tin Mừng trong đời thường: 1. Suy niệm và cầu nguyện với Lời Chúa: chúng ta không thể kết hiệp mật thiết với Chúa mà không cầu nguyện với Ngài. Việc dành thời gian mỗi ngày để suy niệm và cầu nguyện với Lời Chúa giúp nuôi dưỡng tâm hồn chúng ta ngày càng trở nên thánh thiện hơn, yêu Chúa nhiều hơn và được Chúa hướng dẫn hành động. 2. Yêu thương tha nhân là yếu tố quan trọng khi ta sống theo Tin Mừng. Yêu thương mọi người xung quanh mình, cho dù họ là ai, tôn giáo nào, giàu hay nghèo. “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” ( Ga 15, 12 ). Điều này áp dụng qua việc giúp đỡ những người nghèo khó, an ủi những người đang gặp khó khăn, và chia sẻ cho cộng đồng đang cần đến tình thương của mình. 3. Hiền lành và khiêm nhường: là ứng xử một cách nhẹ nhàng, không gây ra xung đột, luôn lắng nghe và tôn trọng ý kiến của người khác, và tìm cách giải quyết mọi vấn đề một cách dịu dàng và an bình. Tuy nhiên, hiền lành và khiêm nhường không đồng nghĩa với sự yếu đuối, mà chính là một cách để thể hiện sự mạnh mẽ và tự tin của bản thân thông qua sự kiểm soát cảm xúc và nhận thức. 4. Sống công bằng và bác ái: cố gắng sống công bằng với mọi người, không phân biệt đối xử, không chỉ dựa trên sự thỏa thuận mà dựa trên giá trị cốt lõi là phẩm giá con người, và thực hiện các hành động bác ái, như viếng thăm người đau yếu, quyên góp cho từ thiện, chia sẻ Chúa cho anh em, tham gia phục vụ cộng đồng dân Chúa cũng như cộng đồng xã hội. 5. Kiên nhẫn tha thứ: sống theo Tin Mừng đòi hỏi lòng kiên nhẫn và sẵn lòng tha thứ, dù trong những hoàn cảnh khó khăn nhất. Tha thứ đến cùng, tha thứ không giới hạn cho những lỗi lầm của người khác. Lý do chính mà chúng ta làm là vì Chúa đã tha thứ cho mỗi người chúng ta. 6. Chia sẻ niềm vui: sống vui tươi, dịu dàng với mọi người qua lối sống khó nghèo, tìm kiếm sự hài lòng, phấn khởi trong những điều giản dị và ý nghĩa của cuộc sống. 7. Sống Tin Mừng trong đời thường là chúng ta làm chứng về một Đức Giêsu con Thiên Chúa đã xuống trần gian, chịu chết và sống lại cho chúng ta được sống và được sống lại. Chứng nhân không chỉ trong một giai đoạn của cuộc sống nhưng là một đời Kitô hữu được kết hiệp với Chúa, bằng nguồn sống của Chúa. Qua hành động và lời nói hàng ngày, qua cách sống và tương tác với tha nhân làm sao bày tỏ được tình yêu và lòng thương xót của Chúa. Những suy tư Sống Tin Mừng trong đời thường không chỉ là làm một số việc đạo mà là cách sống thánh thiện và yêu thương mọi người xung quanh. Mỗi người cần gìn giữ và phát triển niềm tin của mình để sống đúng lý tưởng và hạnh phúc theo tinh thần của Tin Mừng. Sống Tin Mừng trong đời thường không phải lúc nào cũng dễ dàng, mỗi người giáo dân có cách sống Tin Mừng trong cuộc sống của họ một cách khác nhau. Nhiều giáo dân chưa mở lòng nên không nhận được ơn Chúa. Họ sống khép kín, không tham gia vào giáo xứ hoặc nếu có cũng chỉ là hình thức. Có những người không biết về Tin Mừng hoặc có biết qua loa thì cũng chưa áp dụng Tin Mừng vào cuộc sống, có khi còn không dám cho người khác biết mình là người Công Giáo, không dám sống đức tin của mình. Những người giáo dân khác sống theo lời dạy của Chúa Giêsu và thực hành lòng nhân từ, yêu thương và tha thứ. Trong khi một số khác có thể gặp khó khăn trong việc áp dụng những giá trị đạo đức từ Tin Mừng vào cuộc sống hàng ngày. Tuy nhiên, quan trọng nhất là họ luôn cố gắng học hỏi và phát triển trong đức tin của mình để trở thành những người sống theo Tin Mừng mẫu mực. Được như thế là giáo dân cũng đang tham gia vào đời sống của Giáo Hội, dần dần góp phần xây dựng một Giáo Hội hiệp hành và một thế giới tốt đẹp hơn. Hồi Tâm 1/ Làm cách nào giúp mọi người Công Giáo, hay ít nhất là những người đi lễ mỗi tuần có thể học, suy niệm và cầu nguyện với Tin Mừng? Nếu đang làm việc trong Hội đồng mục vụ giáo xứ hay trong các Hội đoàn Công giáo tiến hành, bạn sẽ làm gì? 2/ Chứng nhân Tin Mừng trong đời thường là phương cách hữu hiệu giúp người khác dễ dàng sống theo gương, bạn có thể chia sẻ chứng nhân trong những buổi họp, hay những lúc riêng tư cho những người chung quanh không? 3/ Trong đời thường, bạn làm gì để bày tỏ lòng yêu mến Chúa qua tha nhân? BÀI 2: SỐNG TIN MỪNG TRONG ĐỜI THƯỜNG – Lm. Antôn Hà Văn Minh Qua Bí tích Rửa tội, người tín hữu được dự phần vào sứ vụ của Chúa Giêsu. Sứ vụ đó chính làm cho mọi người nhận biết ơn cứu độ của Thiên Chúa Cha tỏ bày cho nhân loại qua Đức Giêsu Kitô. Thi hành sứ vụ chính là sống Tin Mừng giữa lòng thế giới, cụ thể trong cuộc sống thường ngày của mỗi tín hữu. Công Đồng nói về cảnh sống trần thế của giáo dân bằng cách trình bày cảnh sống ấy, trước tiên, như là môi trường trong đó họ được Thiên Chúa mời gọi: “Đó là nơi Thiên Chúa gọi họ” (LG số 31). Và thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã giải nghĩa: “nơi” được trình bày bằng những hạn từ có tính cách năng động: giáo dân sống giữa trần gian, nghĩa là dấn thân vào tất cả cũng như từng công việc và bổn phận của trần thế, giữa những cảnh sống thường ngày trong gia đình và ngoài xã hội, tất cả những điều đó như dệt thành cuộc sống của họ. Đó là những con người có một đời sống bình thường trong trần gian, học hỏi, làm việc, thiết lập những tương quan bạn bè, xã hội, nghề nghiệp, văn hóa”[1]. Sống Tin Mừng là gì? Trích dẫn Lời Chúa: “Chính anh em là muối cho đời… là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,13–14), Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã trình bày: “Lời mời gọi của Chúa Giêsu chính là sứ mạng của người tín hữu sống trong thế giới này. Người Kitô hữu không coi thế gian là địa ngục, là nơi giam cầm của những nỗi thống khổ, cũng như không coi thế gian là hạnh phúc vĩnh cửu cho cuộc đời mình, nhưng là nơi để Thiên Chúa tỏ lộ tình yêu của Ngài qua sự cộng tác của con người, và là nơi để con người được thực thi ơn gọi và sứ mạng Kitô hữu của mình trong một tình yêu dấn thân và thánh hóa thế giới: Tham dự vào lãnh vực trần thế, là phận vụ phát xuất từ bản tính nội tại và sứ mạng của mình”[2]. Vì thế, sống Tin Mừng chính là huấn luyện bản thân nhuần thấm Tin Mừng để có thể thực thi ơn gọi của mình cách trọn hảo. Thiên Chúa muốn người tín hữu trở thành muối, thành ánh sáng cho thế giới bằng chính đời sống Tin Mừng của mình, hay nói cách khác người tín hữu dấn thân phục vụ để trần gian nhận biết tình yêu của Ngài dành cho nhân loại, một tình yêu trọng đại đã được thánh Gioan diễn tả: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời” (Ga 3, 16). Nhưng để có thể sống Tin Mừng, dấn thân phục vụ cho Tin Mừng, đòi hỏi người tín hữu phải là người thấm đẫm Tin Mừng. Chỉ là men Tin Mừng khi người hữu phải đầy “chất” Tin Mừng. Vì thế, sống Tin Mừng trước tiên phải kết hợp mật thiết với Đức Kitô, vì Ngài chính là Tin Mừng. Vì thế, cuộc gặp gỡ với Tin Mừng là nền tảng cho việc sống Tin Mừng. Điều đó được thực hiện trước tiên chính là cuộc gặp gỡ Lời qua Kinh Thánh. Công đồng Vatican II trong hiến chế Mạc khải đã minh định: Chúa Cha muốn gặp gỡ con cái mình và ngỏ lời với họ qua Sách Thánh. Như vậy, tiếp cận với Lời Chúa, đọc Thánh Kinh là đi vào một cuộc gặp gỡ, tham gia một cuộc đối thoại với Thiên Chúa[3]. Quả thật việc đọc Thánh Kinh là cách thế tuyệt hảo để có được cuộc đối thoại với Thiên Chúa, vì “chúng ta ngỏ lời với Ngài khi cầu nguyện, và chúng ta nghe Ngài nói lúc chúng ta đọc các sấm ngôn thần linh”[4]. Trong Tông Thư “Khởi Đầu Ngàn Thứ Ba”, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II viết: “Lời Chúa phải trở nên một sự gặp gỡ ban sự sống, theo truyền thống xa xưa và luôn vững chắc về việc đọc Sách Thánh, cho phép rút ra từ bản văn Thánh Kinh Lời Hằng Sống, là lời chất vấn, hướng dẫn và hình thành cuộc sống chúng ta” (số 39)[5]. Người tín hữu chỉ có thể là men Tin Mừng, khi đời sống được đặt trên nền tảng Lời Chúa, không thường xuyên cầu nguyện với Lời Chúa không thể nào hoán cải cuộc đời để có thể làm cho đời mình trở thành men Tin Mừng. Dựa vào hoạt động của Giáo Hội tiên khởi được tường thuật trong sách Tông đồ công vụ, Đức Thánh cha Phanxicô nói: “Chúng ta khám phá động cơ mạnh mẽ của việc loan báo Tin Mừng chính là những buổi quy tụ cầu nguyện, nơi những người tham gia cảm nghiệm cách sống động sự hiện diện của Chúa Giêsu và được Chúa Thánh Thần đánh động. ...Lời cầu nguyện truyền lan ánh sáng và sự hăng hái: ân sủng của Chúa Thánh Thần làm nảy sinh trong lòng họ sự nhiệt thành”[6]. Dĩ nhiên việc tiếp cận Lời Chúa phải gắn chặt với Thánh Thể. Đức Thánh cha Phanxicô đã nói mạnh mẽ: Chỉ trong sự tôn sùng Thánh Thể, chỉ trước mặt Chúa, hương vị và sự say mê truyền giáo mới có thể được phục hồi. Lòng tôn sùng Thánh Thể là động lực giúp cho chúng ta vượt thắng những phong ba bão táp của cuộc đời, đặc biệt đó là nguồn khích lệ cho những người hết lòng chia sẻ Tin Mừng, chính vì trong Bí tích Thánh Thể, “chúng ta gặp gỡ Đấng đã ban mọi sự cho chúng ta” và đến lượt mình, chúng ta trở nên có khả năng chia sẻ tình yêu đó với người khác[7]. Để có thể sống Tin Mừng hầu trở thành men của Tin Mừng, chúng ta cần phải liên kết chặt chẽ với Chúa Kitô qua Lời Chúa, Thánh Thể và cầu nguyện và sống tình huynh đê. Bốn yếu tố: Lời Chúa, tìm kiếm tình hiệp thông huynh đệ, Thánh Thể và cầu nguyện, theo Đức Thánh Cha Phanxicô, chính là tiêu chuẩn để phân định một sự việc. Bất cứ trường hợp nào thiếu những yếu tố này điều thiếu tính Giáo hội, không phải của Giáo hội, yếu tố quan trọng để chứng thực chúng ta thực sự là Men của Tin Mừng.[8] Sống Tin Mừng giữa đời thường Nhìn vào thực tế, trăn trở lớn của Giáo Hội Việt Nam là vấn đề Loan Báo Tin Mừng. Thật vậy, con số tín hữu Việt Nam đến nhà thờ dâng lễ mỗi Chúa Nhật có thể nói cho đến lúc này vẫn đáng tự hào, thế nhưng niềm tự hào này có thực sự là niềm vui đích thực không? Bởi nhìn vào cánh đồng truyền giáo mỗi địa phương vẫn còn ngổn ngang, vẫn còn có qua nhiều người chưa được tiếp cận với Tin Mừng, vẫn còn đó nhưng lương dân là hàng xóm của các gia đình Công giáo, nhưng họ chẳng nghe nói về Chúa Giêsu, không một lần tiếp cận được với Tin Mừng. Câu trả lời được tìm thầy nơi lối sống của người tín hữu Công giáo. Là men Tin Mừng, nhưng họ lại không thể hiện lối sống Tin Mừng ngay trong môi trường mình sinh sống. Họ tách rời đức tin và cuộc sống thường ngày, họ đóng khung lối sống Tin Mừng trong nhà thờ, họ không làm cho men Tin Mừng được dậy lên trong người môi trường mình sống. Cha mẹ vẫn đi dâng lễ ngày Chúa nhật, nhưng chưa một lần hướng dẫn con cái về đời sống đức tin. Người tín hữu vẫn thường xuyên gặp gỡ bạn bè là lương dân, nhưng chưa một lần họ nghe về Chúa Giêsu, nhiều khi còn tệ hơn, để làm vui lòng bạn bè lương dân, người Công Giáo sẵn sàng bỏ đi lễ Chúa nhật; ngoài phố chợ, những chủ cửa hàng Công Giáo vẫn ngần ngại thể hiện lối sống Tin Mừng để giữ đức công bình và đức yêu thương... Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhấn mạnh: “Người tín hữu không được mời gọi rời bỏ vị thế họ đang sống nơi trần gian. Thực vậy, Bí tích Thánh Tẩy không kéo họ ra khỏi trần gian, như thánh Phaolô đã nhấn mạnh: ‘Thưa anh em, khi được kêu gọi ở địa vị nào, mỗi người cứ ở địa vị đó trước mặt Thiên Chúa’ (1 Cr 7,24); trái lại, Ngài trao cho họ một ơn gọi có liên hệ đích thực với tình huống của họ trong trần gian: thực vậy, giáo dân được ‘Thiên Chúa kêu gọi để, dưới sự hướng dẫn của tinh thần phúc âm, như men từ bên trong, họ thánh hóa thế giới bằng việc thi hành những nhiệm vụ của mình; và như thế, với lòng tin cậy mến sáng ngời, nhất là với chứng tá đời sống, họ tỏ lộ Chúa Kitô cho kẻ khác’ (Tông huấn Người Tín hữu Giáo dân, số 15) Cha Mến kể câu chuyện: Chứng nhân trong đời thường như sau: Nhà giáo dục vĩ đại Booker T. Washington có viết như sau trong cuốn tự thuật mang tựa đề: “Từ ách nô lệ đi lên” của ông: “Càng lớn tôi càng tin chắc rằng, không một sự giáo dục nào có thể gặt hái được từ sách vở, hay từ những dụng cụ đắt tiền, mà có thể sánh ví được với những gì ta có thể gặt hái được, do tiếp xúc với các bậc vĩ nhân”. Cách đây ít lâu, một phụ nữ Ấn độ giáo đã trở lại Công giáo, sau một thời gian nghe rao giảng Lời Chúa. Bà chịu nhiều gièm pha, đay nghiến từ người chồng và bao người thân, do việc bà trở lại đạo. Có lần cha xứ hỏi bà: “Khi chồng con nổi giận và hành hạ con, thì con làm gì”? Bà đáp: “Thưa Cha, con cố gắng nấu ăn ngon hơn. Khi ông than trách, con lau chùi nhà sạch hơn. Khi ông ăn nói cộc cằn, con trả lời ôn tồn nhỏ nhẹ. Con cố gắng để chứng tỏ cho ông ta thấy: Khi con trở lại đạo Chúa, con phải là người vợ và người mẹ tốt hơn”. Một thời gian sau, chính ông chồng cũng xin trở lại đạo Công giáo, không phải vì lời giảng của cha xứ, cho bằng chính nhờ gương sáng sống đạo của bà vợ đạo đức của ông.[9] Sắp tới đây Đức Thánh cha Phanxicô sẽ phong thánh cho chân phước Carlo Arcutis, một vị thánh trẻ, được gọi vị thánh thuộc thế hệ Y. Thánh nhân có gì đặc biệt? Không có gì đặc biệt ngoài việc ngài sống Tin Mừng giữa đời thường. Đức hồng y Vallini trong bài giảng lễ phong chân phước đã nói về Carlo Arcutis như sau: Carlo có lòng yêu mến Thánh Thể và gắn bó với Thánh Thể cách đặc biệt. Chúa Giêsu là Bạn, là Thầy, là Đấng Cứu Độ và là sức mạnh cho cuộc sống của Acutis và là động lực của mọi việc cậu làm. Từ đó, Carlo mong muốn mãnh liệt đưa người khác đến với Chúa và cậu làm điều này trên hết bằng gương mẫu cuộc sống. Carlo dùng mọi cách, cả cách thức hiện đại, với tài năng về tin học Chúa ban, để gặp gỡ và loan truyền các giá trị Kitô giáo cho người khác[10]. BÀI 3: BIẾN ĐỔI THẾ GIỚI TỪ BÊN TRONG - Lm. Tôma Vũ Ngọc Tín, S.J. Đời sống Kitô hữu giữa lòng trần thế như những hạt muối tinh tế thấm vào lòng đời, lặng lẽ làm biến đổi thế giới, như men trong bột làm dậy lên cả khối bột. Hành trình hy vọng nhưng cũng đầy thách đố này đòi hỏi sự biến đổi sâu sắc từ bên trong tâm hồn và đời sống mỗi người tín hữu. Khi mỗi người thay đổi từ nội tâm, họ trở thành ánh sáng lan tỏa, chiếu rọi khắp nơi, góp phần biến đổi thế giới bằng chính đời sống đức tin của mình. Theo Sắc Lệnh về Tông Đồ Giáo Dân, linh đạo tông đồ giáo dân không chỉ là sống đức tin một cách cá vị, mà còn là tham gia tích cực vào sứ mạng của Giáo Hội. Giáo dân được mời gọi trở thành những tông đồ giữa đời, mang Tin Mừng đến mọi nơi (Apostolicam Actuositatem-AA, 4). Linh đạo này giúp mỗi người giáo dân nhận ra rằng, họ có một vai trò đặc biệt trong việc xây dựng Nước Trời nơi trần thế, không chỉ qua lời nói mà còn qua hành động cụ thể trong cuộc sống thường ngày: “Bản chất riêng biệt của người giáo dân là sống giữa đời và làm việc đời nên chính họ được Thiên Chúa mời gọi để một khi tràn đầy tinh thần Kitô giáo, họ làm việc tông đồ giữa đời như men trong bột” (AA 2). Sống linh đạo tông đồ giáo dân như thế, trước hết người giáo dân gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu qua Lời Chúa và Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể là tâm điểm đời sống người tín hữu, nuôi dưỡng mỗi người trong hành trình Kitô hữu giữa đời, giúp mỗi người kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu và dấn thân phục vụ sứ mạng của Người: “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu, đó không chỉ là lời mời gọi, mà còn là một yêu cầu thiết yếu, để mỗi Kitô hữu có thể sống đức tin và thực thi sứ mạng của mình. Tham dự Thánh lễ, cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa,… là những phương thế giúp giáo dân nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của mình. Cầu nguyện giúp người giáo dân sống tình thân mật thiết với Chúa, trong khi suy niệm Lời Chúa giúp họ hiểu rõ hơn về ý nghĩa và sứ mạng của mình như được Chúa mời gọi. Kết hiệp với Chúa Giêsu qua Thánh Thể và Lời Chúa là những phương thế sống động để mỗi người trở nên men trong bột, biến đổi thế giới từ bên trong. Từ đời sống gắn kết với Chúa Giêsu, người giáo dân sống đức tin của mình qua những hành động cụ thể trong gia đình, nơi làm việc, và cộng đồng. Điều này có thể bao gồm việc tham gia vào các hoạt động xã hội, hỗ trợ người nghèo, bảo vệ môi trường, và tham gia vào các phong trào xã hội nhằm thúc đẩy công lý và hòa bình. Ý nghĩa của việc trở thành men trong bột là mỗi Kitô hữu đều có thể đóng góp một phần nhỏ nhưng quan trọng vào việc biến đổi thế giới xung quanh. Điều này đòi hỏi mỗi người phải sống đời sống đức tin một cách chân thật và nhiệt thành. Tình yêu và công lý là hai yếu tố không thể thiếu trong linh đạo giáo dân. Mỗi giáo dân được mời gọi sống yêu thương qua những hành động cụ thể, đồng thời nỗ lực thực thi công lý và xây dựng hòa bình. Các hoạt động xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc thực hành tông đồ giáo dân. Tham gia vào các hoạt động này không chỉ giúp mỗi người thực thi sứ mạng truyền giáo, mà còn góp phần xây dựng một xã hội công bằng và yêu thương hơn. Sau cùng, qua đời sống đức tin và dấn thân tông đồ, mỗi người góp phần xây dựng và phát triển cộng đoàn giáo xứ. Qua việc tham gia tích cực vào đời sống giáo xứ, giáo dân không chỉ đóng góp vào sự phát triển của cộng đoàn mà còn tạo ra một môi trường yêu thương và hiệp nhất. Một cộng đoàn yêu thương sẽ là nền tảng vững chắc để mỗi giáo dân có thể thực thi sứ mạng truyền giáo của mình một cách hiệu quả. Tóm lại, hành trình Kitô hữu giữa lòng trần thế là trở thành muối và men, âm thầm, trung kiên, nhẫn nại thấm vào mọi ngóc ngách của cuộc sống, làm biến đổi thế giới từ nội tại. Sống đức tin trong đời thường, thể hiện qua những hành động cụ thể trong gia đình, nơi làm việc và cộng đồng, là cách mỗi Kitô hữu trở thành men trong bột, biến đổi thế giới bằng tình yêu và công lý. Kết hiệp với Chúa qua cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa, cùng tham gia vào các hoạt động xã hội, là nền tảng để mỗi giáo dân góp phần xây dựng một xã hội công bằng và yêu thương, biến đổi thế giới từ bên trong. Hồi tâm 1/ Nhìn lại kinh nghiệm sống đạo, tôi thấy mình trở nên ánh sáng và muối và men trong môi trường sống như thế nào? Tôi có thể làm gì để thẩm thấu và lan tỏa tinh thần Kitô giáo trong gia đình, nơi làm việc, và cộng đồng của mình? 2/ Tôi cảm nghiệm thế nào về ơn gọi và sứ mạng Kitô hữu khi cầu nguyện và suy niệm lời Chúa? Làm thế nào tôi có thể biến những cảm nghĩ thiêng liêng ấy thành hành động cụ thể để xây dựng Nước Trời ngay cuộc sống đời thường của tôi? 3/ Khi đối diện với những thách thức trong cuộc sống và xã hội, tôi trải nghiệm thế nào về tình yêu và công lý như men trong bột, làm dậy lên sự thay đổi tích cực? Tôi có sẵn sàng dấn thân hơn nữa để trở thành người tông đồ truyền giáo giữa đời, lan toả tình yêu và công lý trong môi trường sống thường ngày? BÀI 4: LÒNG CAN ĐẢM VÀ SỰ KHÔN NGOAN KHI DẤN THÂN VÀO ĐỜI SỐNG TRẦN THẾ - Lm. Tôma Vũ Ngọc Tín, S.J. Lòng can đảm và sự khôn ngoan là hai phẩm chất quan trọng mà mỗi Kitô hữu cần có để sống và làm chứng cho đức tin trong đời sống trần thế. Lòng can đảm giúp chúng ta vượt qua những thử thách và khó khăn, dám đứng lên bảo vệ sự thật và công lý. Sự khôn ngoan, hướng dẫn chúng ta hành động một cách sáng suốt, biết phân định phải trái, đúng sai và chọn lựa đường hướng đẹp lòng Chúa. Trong một thế giới đầy biến động và thách thức, lòng can đảm và sự khôn ngoan trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Đối với giáo dân, hai phẩm chất này không chỉ giúp họ sống đức tin một cách mạnh mẽ và vững vàng mà còn đóng góp tích cực vào việc xây dựng một xã hội công bằng và nhân ái hơn. Lòng can đảm là một chủ đề được nhắc đến nhiều trong Kinh Thánh: “Mạnh bạo lên, can đảm lên! Đó chẳng phải là lệnh Ta đã truyền cho ngươi sao? Đừng run khiếp, đừng sợ hãi, vì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, sẽ ở với ngươi bất cứ nơi nào ngươi đi tới” (Gs 1,9). Lời khích lệ này không chỉ dành cho Thủ lãnh Giôsuê mà còn dành cho tất cả chúng ta, những người đang sống và làm chứng cho đức tin. Lòng can đảm giúp chúng ta đứng vững trước những thử thách, bảo vệ niềm tin và dám sống theo những giá trị Tin Mừng trong một thế giới đầy cám dỗ, bạo loạn và bất công. Sự khôn ngoan cũng là một đức tính quan trọng được Kinh Thánh đề cao: “Nếu ai trong anh em thiếu đức khôn ngoan, thì hãy cầu xin Thiên Chúa, Người sẽ ban cho. Vì Thiên Chúa ban cho mọi người cách rộng rãi, không quở trách” (Gc 1,5). Sự khôn ngoan giúp chúng ta biết phân định đúng sai, tốt xấu, lựa chọn đường hướng đẹp lòng Chúa và hành động một cách sáng suốt trong mọi hoàn cảnh. Nó không chỉ là tri thức mà còn là khả năng ứng dụng tri thức đó vào cuộc sống một cách đúng đắn và hiệu quả tốt đẹp. Mỗi người vẫn thường đối diện với những thách đố và nghịch cảnh trong đời sống. Điều quan trọng là cách chúng ta đối diện và vượt qua chúng. Cuộc sống trần thế có muôn vàn cảnh huống mà ở đó, người giáo dân thể hiện lòng can đảm và sự khôn ngoan khi luôn tin cậy Chúa và đối diện khó khăn, chẳng hạn như việc bảo vệ sự thật và công lý trong môi trường làm việc, nơi có thể gặp phải những áp lực và cám dỗ. Lòng can đảm giúp chúng ta không lùi bước, trong khi sự khôn ngoan giúp chúng ta chọn lựa cách hành động phù hợp và hiệu quả. Đời sống đức tin không dừng ở việc tham dự các cử hành phục vụ mà còn sống theo những giá trị Kitô giáo trong đời sống thường ngày. Giáo dân có thể thể hiện lòng can đảm và sự khôn ngoan bằng cách làm gương sáng trong môi trường làm việc, trong gia đình, và trong cộng đồng. Những hành động cụ thể như giúp đỡ người khó khăn, bảo vệ môi trường, và tham gia vào các hoạt động từ thiện đều là những cách thể hiện đức tin một cách sống động và thực tế. Trong nhiều hoàn cảnh, lòng can đảm và sự khôn ngoan của người giáo dân có thể thể hiện trong vai trò lãnh đạo cộng đồng. Trong hoàn cảnh đó, lòng can đảm và sự khôn ngoan không chỉ giúp giáo dân đối mặt với những thách thức mà còn giúp họ hành động một cách sáng suốt và hiệu quả. Sau cùng, giáo dục con cái về lòng can đảm và sự khôn ngoan là một nhiệm vụ quan trọng của các bậc cha mẹ Công Giáo. Giáo dân có thể giúp con cái hiểu và thực hành hai phẩm chất này qua gương sáng trò chuyện thường ngày trước những vấn đề thực tế trong đời sống, giúp con cái phát triển lòng can đảm và sự khôn ngoan trong cuộc sống. Tóm lại, lòng can đảm và sự khôn ngoan là những phẩm chất không thể thiếu để mỗi Kitô hữu sống đức tin trong đời sống trần thế. Những phẩm chất này hằng giúp chúng ta vượt qua thử thách, bảo vệ sự thật và công lý, và hành động minh bạch, tư duy độc lập sáng suốt, mang lại ích lợi chính đáng cho bản thân và cộng đồng. Trong một thế giới đầy biến động, giáo dân cần lòng can đảm để kiên vững vượt qua những trở ngại và sự khôn ngoan để phân định và lựa chọn đúng đắn. Đó là hai phẩm chất giúp người giáo dân dấn thân sống đức tin giữa lòng trần thế, góp phần xây dựng đời sống xã hội thấm đượm Tin Mừng. Hồi tâm 1/ Trong những tình huống cụ thể nào, tôi thường cần đến lòng can đảm để bảo vệ sự thật và công lý? Tôi đã từng phản ứng ra sao và kết quả như thế nào? 2/ Làm thế nào tôi có thể áp dụng sự khôn ngoan để phân định đúng sai và đưa ra quyết định sáng suốt trong các hoạt động và công việc tại giáo xứ của mình? 3/ Nhớ lại một trải nghiệm khi lòng can đảm và sự khôn ngoan của người Công giáo đã tạo ra sự khác biệt tích cực trong cộng đồng xã hội? Tôi cảm nghĩ thế nào về sự dấn thân của người giáo dân, với lòng can đảm và khôn ngoan, vào đời sống xã hội? ________ [1] Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Tông Huấn Người Tín Hữu Giáo dân (Christifideles Laici), số 15. [2] Nt. [3]X. Hiến chế Mạc Khải (Dei Verbum), số 21 [4] X Hiến chế Mạc Khải (Dei Verbum), số 25. [5] Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông thư Ngàn Năm Thứ Ba (Millennio Adveniente), số 39> [6] Đức Phanxicô, buổi tiếp kiến chung trực tuyến sáng thứ Tư 25/11/2020), nguồn Vatican News. [7] Nguồn: www.ncregister.com/commentaries/without-adoration-there-s-no-evangelization [8] Nguồn: www.vaticannews.va/vi/pope/news/2020-11/ [9] Nguồn: https://linhmucmen.com/news/kho-sach-quy/chung-nhan-giua-doi-thuong [10] Nguồn: https://www.vaticannews.va/vi/church/news/2020-10/le-phong-chan-phuoc-carlo-acutis.html
ỦY BAN GIÁO DÂN - THƯỜNG HUẤN THÁNG 07/2024: TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN - MUỐI ...
LINH ĐẠO DUNG NẠP
LINH ĐẠO DUNG NẠP