Thứ tư, ngày 03 tháng 07 năm 2024 | 07:45 PM - Giới thiệu | Ý nghĩa logo
Tài liệu

Lm. Giuse Nguyễn Trọng Viễn, OP.

DẪN NHẬP

Đời sống thánh hiến nằm ngay ở giao điểm của sự đảo ngược Tin Mừng, nên có thể nói tất cả mọi “chi tiết” của đời sống thánh hiến đều phản ảnh một thách đố. Thật sự cuộc đời không đơn giản, mỗi chi tiết của cuộc đời lại gắn liền “giây mơ rễ má” tới những “chi tiết”khác và những “hệ thống” khác trong cuộc đời, trong đáy sâu tâm hồn và trong bề rộng xã hội. Cứ theo lý lẽ bình thường, ta có thể nói thách đố của đời sống thánh hiến “trùng trùng điệp điệp”.

Tuy nhiên, ta vẫn có thể ráng “bắt mạch” để thử khám phá ra căn bệnh căn bản của đời sống thánh hiến nói chung và đời sống thánh hiến trong Giáo Hội Việt Nam.

I. BỆNH “CÔ BÉ CHOÀNG KHĂN ĐỎ”

Những câu chuyện cổ tích nổi tiếng thường là những ngụ ngôn bao hàm những ý nghĩa khái quát sâu xa. Chuyện cô bé choàng khăn đỏ hình như diễn tả một thực trạng vừa phổ biến, vừa sâu xa; gần giống như điều cha ông ta thường gọi là “cây che mất rừng” hoặc “bỏ mồi bắt bóng”...

1. Chuyện đời thường

Nhiều khi ta thấy: một nhóm bạn trẻ bàn chuyện đi chơi Vũng Tàu để giải trí, rồi bàn cách thức đi, bàn chuyện ăn uống thế nào... rồi sinh ra chuyện tranh luận, cãi vã...; thế là chuyện giải trí bị biến thành chuyện căng thẳng.

Chúng ta cũng thấy có những thanh niên Công Giáo, đi tham dự thánh lễ và quý trọng mọi ca đoàn. Khi anh/chị ấy sốt sắng hơn, muốn tham dự vào đời sống giáo xứ, gia nhập vào một ca đoàn,... rốt cuộc anh/chị ấy không còn nhìn các ca đoàn khác ca đoàn của mình với con mắt thiện cảm như trước.

Cũng y như thế, một người giáo dân quý trọng mọi Dòng tu. Rồi khi muốn dấn thân sâu hơn và Giáo Hội, anh/chị vào một Dòng tu, và một thời gian sau thì không còn quý trọng các Dòng tu khác như trước kia nữa.

Những chuyện nhỏ nhưng thế cho thấy con người khá dễ bị lạc lối, lạc lối vì những chuyện hấp dẫn trước mắt, và lạc lối vì tính tản mạn ấu trĩ vốn có trong con người...

2. Thời đại “mất căn tính”

Khi thời cuộc đưa đến những hoàn cảnh nhiễu loạn, thì căn bệnh cô bé choàng khăn đỏ không còn là chuyện đời thường nữa mà trở nên một căn bệnh của thời đại. Thời đại chúng ta đang sống được gọi là “thời đại mất căn tính”. Ta có thể mô tả đại khái như sau:

- Trước đây, một người thợ mộc có tay nghề và có lương tâm nghề nghiệp (1)

- Anh ta làm ra cái bàn (2);

- Rồi anh ta mang cái bàn để bán lấy tiền (3),

- Và dùng tiền bán cái bàn để mua những sản phẩm khác (4).

Khi xã hội còn trong lành, người thợ ý thức rõ “cái là” của mình, anh ta tìm được một giá trị về mình để “tự hào”. Khi làm một cái bàn kém phẩm chất hoặc sai quy cách, anh ta không thể chấp nhận được (tao là thợ mộc, chẳng lẽ đóng cái bàn như thế à!). Anh thợ mộc chân chính thà bỏ cái bàn sai quy cách, đóng cái khác, cho dù bị lỗ. Trong bầu không khí này, người thợ mộc ý thức và sống được căn tính của bản thân mình (1 gắn liền với 2).

Nhưng trong thời kinh tế thị trường phát triển; khi mà thế giới có quá nhiều hàng hóa phong phú, mới lạ; khi mà não trạng chung của những người trong xã hội không còn nhận ra giá trị của mỗi người nơi chính bản thân mà chỉ đánh giá con người theo những hàng hóa mà người ta có được (nhà sang, điện thoại xịn...); thì người thợ dễ dàng rơi vào nguy cơ đánh mất căn tính. Nếu làm cái bàn kém phẩm chất, hoặc sai quy cách, anh ta dễ giải quyết bằng cách lấp liếm, miễn sao bán được tiền để có thể mua được những hàng hóa tô điểm hào nhoáng cho bản thân (1-3 hoặc 1-4).

Rõ ràng bầu khí xã hội có tác động không nhỏ. Khi mà kinh tế thị trường, được sự hỗ trợ của công nghệ quảng cáo,... thì một phần lớn con người trong xã hội ấy dễ dàng rớt vào tình trạng mất căn tính. Đây là lúc căn bệnh cô bé choàng khăn đó trở thành như một bệnh dịch.

3. Ở mức độ siêu hình

Thật ra nguồn cội của căn bệnh “cô bé choàng khăn đỏ” nằm trong chính vị thế siêu hình của con người. Con người là tinh thần nhập thể, con người không phải là thiên thần mà cũng không phải là con vật; con người không thể chỉ là “vật” mà cũng không thể chỉ là “tâm”... Có nhiều khi yếu tố “vật” ảnh hưởng sâu xa; và cũng có khi yếu tố “tâm” giúp người nào đó vượt thắng được thách đố khó khăn. Mỗi người có trải nghiệm riêng của mình và không dễ tìm được một thái độ đúng đắn trong nền tảng siêu hình của phận người.

Thực sự, nơi con người, vẫn có một sự “tôn nghiêm” sâu ẩn. Chỉ có yếu tố “tâm” mới gợi mở được cho sự “tôn nghiêm” nơi phẩm giá con người, nên “tâm” luôn phải quan trọng hơn “vật”. Tuy vậy, với niềm tin Kitô giáo, “tâm” của con người không phải toàn quyền tự do sáng tạo ý nghĩa cách vu vơ, theo kiểu tự do ngẫu hứng, vì trong con người còn có yếu tố “linh”. Con người là “hình ảnh Thiên Chúa” và con người cần khám phá ý nghĩa chân thực mà Chúa đã ghi khắc trong chính mình và nơi sự vật.

Sức sống đích thực của con người lệ thuộc nhiều vào cách tìm được giao điểm chính xác giữa “tâm” và “vật”; hay đúng hơn là tìm được một phương thức thích hợp của thể chất để diễn tả được đường nét của tinh thần. Ở đây, căn bệnh cô bé choàng khăn đỏ thường là thái độ “quên đi phần ý nghĩa của tâm”, lạc vào tính thực dụng của yếu tố “vật”. Điểm chính gây nên sự lệch lạc này là do sự rõ rệt như thể hiển nhiên của yếu tố không gian và thời gian mà thân xác kinh nghiệm được. Do có thân xác, con người sống trong trong một không gian nhất định, và dễ rơi vào quy luật “thứ nhất cự ly”. Sống trong dòng thời gian, con người dễ đánh mất lòng “trung thành với quá khứ”, để bị lôi cuốn vào giải pháp thực dụng của hiện tại. Thật ra, điều mà thân xác con người kinh nghiệm được là không gian và thời gian vật lý, được xác định do những yếu tố bên ngoài của “vật”.

Ở Tây phương, từ thế kỷ XVIII, khi mà khái niệm “khoa học” bị thay đổi ý nghĩa, đi từ thái độ “mô tả để chiêm ngắm” biến thành “đo lường để khai thác”, thì thế giới Tây phương (sau đó là cả thế giới) đã nghiêng về “vật” nhiều hơn, chỉ nhận ra yếu tố “lượng” mà dần dần làm yếu đi hoặc quên đi giá trị của “phẩm”. Thái độ nghiêng quá về “vật” sẽ đưa tới những kết quả mau lẹ, nhưng với thời gian, lập trường ấy sẽ làm mất ý nghĩa chân chính và đưa đến những khủng hoảng sâu xa hơn. Qui luật của lịch sử, trong những bước khởi đầu, hình như không phải là chính nghĩa thắng bạo tàn, nhưng là bạo lực, man rợ, võ biền, quỉ quyệt sẽ thắng. “Vật” vẫn thường thắng “tâm” nhiều hơn. “Tâm” thường chỉ thắng “vật” bằng một sự biến cải bản chất của đối thủ từ bên trong, một thứ chiến thắng âm thầm, chậm chạp và sâu xa. Người nào quá sốt ruột với tính hiệu năng, đặt tầm quan trọng quá đáng đến phương pháp, sẽ khó lòng thoát khỏi cám dỗ lệnh lạc của “vật”.

Sâu xa hơn, vị thế siêu hình hồn-xác hình thành nên một quy chế sống đặc biệt, con người trong sử tính. Con người có thân xác, nên có mối tương quan hữu cơ với thế giới và cấu tạo bản chất của mình qua những trải nghiệm trong dòng thời gian. Nhưng bản chất người không phải là những phản ứng thực nghiệm rời rạc trước các khích động của ngoại giới; và cũng không phải là những tư tưởng ngẫu hứng, tùy tiện. Con người không thể nào loại bỏ đi kinh nghiệm thật trong thân xác, mà cũng không bị quy định cách tất yếu do những khích thích của thế giới bên ngoài. Con người trở nên chính mình trong lịch sử, đó là con người, với yếu tố tinh thần, có khả năng nối kết các yếu tố rời rạc của kinh nghiệm để hình thành nên một câu chuyện, câu chuyện đầy tính ngã vị, trong tự do và như một “hữu thể tại thế”. Mỗi khi kết cấu được hai hoặc vài tình huống, vài sự kiện với nhau trong một câu chuyện đời (không phải là sự kết nối nhân quả của khoa học thực nghiệm) là con người đã nhân-hóa bản thân mình và nhân hóa thế giới... Sống kiếp người là sống lịch sử của mình. Mỗi người có một lịch sử riêng, lịch sử ấy làm nên nét đặc trưng của mỗi hiện hữu người, con người là sử tính của chính mình. Nhìn ra được lịch sử, nhìn ra được câu chuyện đời người trong lịch sử, đó mới là sứ mệnh của con người.

Thực sự, vị thế con người như tinh thần sống trong thân xác đưa đến biết bao nhiêu khả thể phức tạp và tế nhị... Căn bệnh cô bé choàng khăn đỏ ở đây là thái độ lệch lạc, hoặc quá “duy-tâm”, hoặc quá “duy vật”; hoặc chỉ có những phản ứng bị quy định do những khích thích bên ngoài, giống như một con dế, con gà đá hay con cá đá; hoặc cấu tạo nên những câu chuyện tưởng tượng hoàn toàn không có căn bản trên thực tại.

4. Trên bình diện cứu độ

Trên bình diện ơn cứu độ, theo Thánh Kinh và truyền thống Kitô giáo, vị thế con người còn có một sự tế nhị đặc biệt khác - sự tế nhị cần phân biệt nhưng lại không được tách biệt - giữa trật tự siêu nhiên và trật tự tự nhiên nơi con người. Đứng trước hai khuynh hướng, khuynh hướng bi quan của thần học Tin Lành và khuynh hướng duy tự nhiên của thế giới hiện đại, thần học Công Giáo khẳng định vận mạng con người thiết yếu cần được cứu độ do ơn huệ tặng không có tính siêu nhiên của Thiên Chúa (ân sủng); ơn huệ siêu nhiên ấy không phản lại tự nhiên, nhưng bổ túc và hoàn thiện đối với tự nhiên.

Trong đời sống của người Kitô hữu, chắc chắn cần phải đề cao ơn huệ tặng không và tính ưu việt của ân sủng; nhưng điều đó không có nghĩa phải hạ thấp trật tự tự nhiên. Người Kitô hữu và cũng không được coi trật tự siêu nhiên như một yếu tố xa lạ, bên ngoài hoặc bên cạnh trật tự tự nhiên; cũng như không được lấy siêu nhiên thay thế tự nhiên. Thực ra không thể có siêu nhiên nếu không dựa trên tự nhiên...

Đây cũng là một vị thế vô cùng tế nhị của “thân phận” con người... Đã có thời người ta “làm thánh mà quên làm người”; rồi người ta lại thay đổi để “làm người trước khi làm thánh”, như thể con người có thể làm người được mà không cần tới sức mạnh của ân sủng... Không ít trường hợp người tín hữu lựa chọn, tính toán cuộc đời mình hoàn toàn theo lẽ tự nhiên; và cũng không ít hơn những trường hợp người ta lạc vào yếu tố siêu nhiên mà quên đi thực tại tự nhiên, biến đạo của Chúa thành một thứ “đạo thiêng liêng”...

Như thế, trong hành trình đức tin, người Kitô hữu vừa phải rất tôn trọng những quy luật trong trật tự tự nhiên, lại vừa khao khát, luôn mở ra với những khao khát siêu nhiên mà tự sức con người không thể đạt tới được. Người Kitô hữu vừa phải nỗ lực, tập nhân đức, giữ luật lệ,... nhưng lại vẫn luôn mong chờ “thời cơ” (kairos) Chúa ban, mở ra với huyền nhiệm của ân sủng nơi cộng đoàn cũng như nơi cá nhân mỗi người.

Những vị thế vô cùng tế nhị của đời sống con người và đời sống người Kitô hữu như thế đưa đến rất nhiều những thách đố hoặc những cạm bẫy trên hành trình cuộc đời, tạo nên tình huống chênh vênh giữa những cặp đối lập: cái chung hoặc cái riêng; cái chân hoặc cái thật; cái bảo thủ hoặc cái cấp tiến; phương pháp hoặc tinh thần; nhân trị hoặc pháp trị; vương đạo hoặc bá đạo; trung tâm hoặc ngoại biên; hòa-nhi hoặc đồng-nhi; làm thánh mà quên làm người hoặc làm người trước khi làm thánh;...

Nói chung, con người thường rơi vào căn bệnh cô bé choàng khăn đỏ do sự tản mạn ấu trĩ (chuyện đời thường); do sự nhẹ dạ hời hợt (mất căn tính); do thái độ nóng vội tìm hiệu năng (vị thế siêu hình); và do thái độ sính sự hợp lý nội tại của qui luật tự nhiên (trên bình diện cứu độ).

II. THÁNH ĐỐ CỦA ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN

1. Quá trình phát triển

Mang thân phận con người, sống trong thế giới “có thời gian”, con người luôn phải đối diện với các thách đố; và vượt qua thách đố chính là phương thức để con người có thể lớn lên, đạt đến mức trưởng thành. Sự trưởng thành của đời người không phải chỉ do ý thức, không phải chỉ do một năng lực có sẵn và đạt được sự vững bền một lần thay cho tất cả. Những “đối kháng chân thật” luôn là điều cần thiết cho tiến trình trưởng thành trải dài suốt cả đời người.

Tiến trình phát triển chân thực được thể hiện khi những đối kháng trở nên như cơ hội để nguyên lý sống được thử luyện và được mạnh mẽ hơn. Chẳng hạn một thầy giáo, phải đối diện với những học sinh cứng đầu, biết tìm lại những nguyên tắc căn bản của giáo dục, và trở nên dày dạn kinh nghiệm trong nghề nghiệp của mình...

Trong đời sống thánh hiến, người tu sĩ càng phải hiểu rằng “thường huấn” là điều phải kiên trì cả đời; nghĩa là vẫn luôn phải chấp nhận thách đố trên hành trình cuộc đời và vẫn luôn trung tín với nguồn mạch căn bản để lại vượt qua được những thách đố ấy.

“Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần”(Ga 17,15).

Điều quan trọng là, hành trình “thường huấn” ấy luôn phải có tính “tiệm tiến” và “toàn diện”. Cũng như những tu sĩ trong thời gian đào tạo, cần nhận được một tiến trình đào tạo “tiệm tiến và toàn diện”, thì người tu sĩ đã trưởng thành vẫn luôn cần tiếp tục được đào tạo, theo một nghĩa nào đó, cách “tiệm tiến và toàn diện”. Cần “toàn diện” nghĩa là không được bỏ quên hoặc làm phương hại một yếu tố nào trong những yếu tố căn bản của đặc sủng Dòng; và cần “tiệm tiến”, bởi vì khi người ta nóng vội muốn có ngay sự thành công trong một lãnh vực nào đó, thì chắc chắn người ấy sẽ đánh mất tính toàn diện và sẽ để lại nhiều nguy hại về sau. Việc đào tạo, dù là được đào tạo hay tự đào tạo, khác với việc huấn luyện một kỹ năng chuyên môn nào đó.

Vai trò của người lãnh đạo tương tự như một huấn luyện viên đội bóng đá; đôi khi phải có những bài tập riêng cho một thành viên, có lúc cần được dễ dãi để giảm stress và có lúc lại cần phải gia tăng áp lực... Tuy vậy, việc gia giảm những biện pháp không bao giờ được đánh mất tầm nhìn về sự phát triển toàn diện. Dĩ nhiên ta không thể chọn lập trường cứ cầu nguyện mà không cần lao động; nhưng ta cũng cần nhận ra đến mức độ nào một chương trình kinh tế còn để chỗ cho tinh thần phó thác; ta không thể không học hành và giữ kỷ luật, nhưng lại luôn cẩn trọng để những thúc ép ấy không làm mất đi bản chất căn cốt của đời sống tu trì.

2. Những đối kháng giả tạo

Không hiếm những trường hợp bầu khí cộng đoàn có nhiều hoặc quá nhiều “đối kháng giả tạo”. Chẳng hạn một lớp học mà mọi học sinh cần giải quyết nỗi uẩn ức phải học thêm với thầy; chẳng hạn một giáo phận mà, các linh mục không thể không tìm vây cánh để có thể an ổn; chẳng hạn trong cộng đoàn mà yếu tố gốc gác địa phương trở thành vấn đề căng thẳng lớn... (Dĩ nhiên, vẫn có thể có ai đó sẽ trưởng thành hơn ngay cả khi đối diện với những đối kháng hoàn toàn giả tạo. Mọi sự đều nên tốt đối với người yêu mến Chúa... Điều đó cho thấy tính ưu việt của “tâm” trên “vật” và nhất là tính ưu việt của siêu nhiên trên tự nhiên).

Mặt khác, cũng có nhiều đối kháng, xét về bản chất, là đối kháng chân chính, nhưng trong một hoàn cảnh thực tế nào đó, lại thường đưa đẩy đến những phản ứng sai lạc. Nói chung, một đối kháng giả tạo, hoặc trở thành giả tạo, khi mà người ta có thể thấy, một cách phổ biến, nó làm cho người ta đánh mất hoặc giảm thiểu nguyên lý sống ở cội nguồn. Một người sống đời sống thánh hiến, nhưng phải giữ kỷ luật sao đó để rồi cuối cùng trở thành một người “đạo đức đáng kính-sợ” chứ không phải là người sống đời sống “tâm linh dễ thương”; hoặc người sống đời sống thánh hiến, phải đi học, nhưng cuối cùng việc học trở thành tiêu chuẩn chính cho bản sắc tu trì của mình...

Theo nguyên tắc luân lý, các nhân đức thì thông hiệp với nhau thì ngược lại, không thể có tu sĩ “chuyên môn sống khó nghèo”, nhưng lại coi thường sự vâng phục... Nếu có sự lệch lạc như thế, có lẽ yếu tố tự nhiên đã loại trừ sự sống siêu nhiên mất rồi...

Dĩ nhiên sự sống siêu nhiên không hẳn mang khuôn mặt của “sự lạ”. Đó là lập trường của Công Đồng Vatican II khi chọn theo lập trường của Hồng Y Suenens (đoàn sủng như “thường sủng”) chứ không theo lập trường của Hồng Y Rufuni (đoàn sủng như “đặc sủng”)[1]... Nhưng ta vẫn có thể nhận ra được nét chân thực của sự sống siêu nhiên, khác với nét “cuồng tôn giáo”. Chẳng hạn một sự sống tâm linh đích thực sẽ biểu lộ nét “sống với ai” chứ không phải “sống thế nào”; không thể không biểu lộ tình yêu (đức Mến), đặc biệt là biểu lộ lòng từ bi thương xót của Chúa; không thể không biểu lộ lòng trân trọng những anh chị em bé mọn. Đoạn thư Cl 3,12-15 mô tả tuyệt diệu những đường nét ấy:

“Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau. Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo. Ước gì ơn bình an của Đức Kitô điều khiển tâm hồn anh em, vì trong một thân thể duy nhất, anh em đã được kêu gọi đến hưởng ơn bình an đó. Bởi vậy, anh em hãy hết dạ tri ân”.

3. Những hậu quả thấy được

Trung tâm của những thách đố trong đời sống thánh hiến hiện nay có lẽ thế này: ý nghĩa căn bản của đời sống thánh hiến là sống trước mầu nhiệm Nước Trời; lựa chọn ấy là một sự dấn thân, làm chứng về “giải pháp Nước Trời” cho thế giới con người trong thời đại của mình. “Đối thủ” chính yếu của Nước Trời chính là “tính thế gian” mà nguyên lý của nó không là gì khác hơn Satan. Nếu Satan chưa chết và chưa về hưu, thì mục tiêu lớn nhất của nó có lẽ chính là thổi vào thế gian căn bệnh cô bé choàng khăn đỏ, nghĩa là lừa dối về sự hiện hữu của chính nó, đồng thời của lừa dối về sự hiện hữu của “đối thủ Nước Trời”. Đánh mất tầm nhìn ấy của đức tin, người sống đời sống thánh hiến không thấy mình đang chiến đấu dưới ngọn cờ Nước Trời và đang chiến đấu với Satan cùng tính thế gian của nó. Sự lệch lạc ấy che dấu ý nghĩa căn bản và đánh mất sinh lực chính yếu của đời sống thánh hiến. Với Công Đồng Vatican II, Nước Trời không tách biệt khỏi Giáo Hội hữu hình, nhưng cũng không đồng nhất với Giáo Hội hữu hình. Giáo Hội là “bí tích Nước Trời”. Không ít trường hợp, người sống đời sống thánh hiến, cá nhân hoặc cộng đoàn, lo tìm một cái gì đó không còn bóng dáng Nước Trời; rồi lại sử dụng chính phương tiện thế gian để đạt được những thành quả có tính thế gian nào đó: một cộng đoàn đông đảo, nề nếp ổn định, có nhiều người nổi tiếng, được xếp hạng danh giá trong Giáo Hội hoặc xã hội... Cuối cùng thì bóng dáng Nước Trời biến mất hoặc biến dạng.

Có lẽ một tu sĩ ngập ngụa trong vũng bùn nhưng vẫn dương cao ngọn cờ Nước Trời, còn mang dáng dấp Kitô giáo nhiều hơn ai khác, dù vẫn đứng vững hiên ngang nhưng không còn mầu cờ sắc áo của Nước Trời. Đây chính là đường nét lớn trong Tin Mừng của đức Giêsu Kitô, “người chót hết sẽ nên đầu hết”… Đức Giê-su nói với họ: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông. Vì ông Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy ; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy (Mt 21, 31-32).

Quả thật, trong bầu khí chung của Giáo Hội Việt Nam, người ta có thấy không ít những lệch lạc: người tín hữu ít nhận ra Giáo Hội trong chiều kích Đức Maria, so với Giáo Hội trong chiều kích Phêrô; ít nhận ra giá trị thánh hiến trong đời sống đan tu, ít tôn trọng các nữ tu và các “thầy già”, so với linh mục, giám mục,... Trong nhiều vấn đề cụ thể, ta có thể thấy: nhiều linh mục coi xứ như một nhà quản trị chứ không phải mục tử; nhiều hội đoàn đào tạo nên “công chức tôn giáo” chứ không phải là những người tông đồ của Chúa; việc học trong Giáo Hội trở nên như phương thức “trang bị kỹ năng” và tạo nên những nhà quan niệm chứ không phải nhà suy tư (phân biệt của G. Marcel)...

Cũng thế, có vẻ như ý nghĩa “thánh hiến” bị mờ nhạt khá nhiều trong các cộng đoàn mang danh đời sống thánh hiến. Sức sống của các cộng đoàn không biểu lộ được sự sống siêu nhiên, không diễn tả được khuôn mặt của Tin Mừng Nước Trời. Người tu sĩ thường giữ đúng luật về ba lời khuyên Tin Mừng nhưng vẫn không phải là “con người của Tin Mừng”; những người đức độ thì thường là nhà đạo đức đáng kính (sợ) chứ không phải người sống tâm linh dễ thương; các vị hữu trách thường lầm lộn giữa đời sống chung và phẩm tính huynh đệ trong cộng đoàn.

Trong cách thức giải quyết các vấn đề đời thường như: khi có khác biệt hoặc mâu thuẫn trong đời sống anh/chị em, khi gặp những chuyện trái ngang trong Giáo Hội; khi đụng những tình huống bất công trong công tác mục vụ;... ta không thấy được sự can dự của ánh sáng đức Tin, không nhận ra được lý tưởng của Tin Mừng, không cảm nhận được thứ tình cảm của một người có Chúa.

Nhiều bạn trẻ, mới bước vào Dòng tu, như thể buộc phải chuyển đổi từ một thứ văn hóa chân chính Kitô giáo, mặc dù còn luộm thuộm, văn hóa “sống-với-ai”, trở thành thứ văn hóa ngoại giáo, văn hóa “sống thế nào” cách nghiêm cẩn. Sống trong gia đình, người thanh niên tốt thường tìm thấy động lực sống và làm việc vì những người thân trong gia đình. Điều không hiếm xẩy ra là khi người thanh niên ấy bước vào đời sống thánh hiến, sẽ phải rèn luyện cách sống thế nào cho đúng và được đánh giá cũng như tự đánh giá mình do cách sống nghiêm cẩn “thế nào”. Nền văn hóa “sống thế nào” ấy cản trở sự sống tâm linh đích thực, tức mối tương quan ngã vị với Chúa... Kết quả không hiếm xẩy ra là, khi về già, lúc đau bệnh, người sống trong gia đình thường có khả năng xử lý bệnh tật của mình vì ai; trong khi những người tu sĩ, linh mục bệnh tật lại thường xử lý bệnh tật vì mình. Ta có thể thấy khá rõ điều đó nơi các nhà hưu dưỡng.

Quả thật nhiều lúc ta phải giật mình vì sự vắng bóng lạ lùng về ý nghĩa siêu nhiên, về lời chứng cho tình yêu và quyền năng của Chúa trong một Giáo Hội khá sầm uất và phát triển. Đôi khi ta còn thấy sự hiện diện trâng tráo của cách tính toán quá tự nhiên ngay trong điều thánh thiêng nhất!!!

Khi mà đời sống thánh hiến nói chung không còn biểu lộ được giá trị Nước Trời, được tỏ bày như một giải pháp về chính cuộc sống trần thế nhưng lại khác với giải pháp trần thế, đặc biệt là trong những khía cạnh cốt yếu của đời sống con người - chính trị, tình yêu và kinh tế - thì quả thực người ta có quyền đặt dấu hỏi về căn tính của đời sống thánh hiến.

Khi mà bầu khí tu viện không còn sáng lên phẩm giá người tu sĩ, và phẩm tính của đời sống thánh hiến, nhưng nghiêng ngả về chiều kích danh giá, hoặc năng lực, hoặc tất cả những gì mang tính thế gian, thì người ta cũng có thể đặt dấu hỏi về căn tính của đời sống cộng đoàn.

Nếu theo nguyên tắc: điều gì là cứu cánh thì cũng là nguyên lý; và điều gì là nguyên lý thì cũng là cứu cánh, thì chúng ta có thể “ngờ ngợ” rằng: nhiều nguyên lý chi phối nề nếp tu trì cũng như cách ứng xử của tu sĩ Việt Nam hiện nay không còn hướng tới cứu cánh Nước Trời nữa.

Các tin khác

VIDEO

  Bài 2: HIỆP HÀNH: Hiệp Thông - Tham Gia - Sứ Vụ | Thường huấn linh mục GP Ban Mê Thuột 2023

  Bài 1: Tầm Nhìn Hoàn Vũ | Thường huấn linh mục GP Ban Mê Thuột 2023

  ĐỨC TIN | Tròn Đầy & Trong Sáng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh

  Mục Vụ Văn Hóa: DANH - LỢI - NGHĨA | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh

  Cử Hành Phụng Vụ | Gặp Gỡ Chúa Kitô - Loan Báo Tin Mừng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn văn Hinh

  Thần Học Mục Vụ & Công đồng Vatican II: Con người - Giáo hội - Môi trường

  Hiệp Hành Hội Ý Dựng lại Mùa Xuân | Người Giáo dân Thiên niên kỷ mới

  Bài 4: Văn Hóa Tổ Chức - Đời Sống Cá Nhân

  Hiệp Hành Kín Đáo và Minh Bạch

  Văn Hóa Tổ Chức - Tổ Chức Cộng Đồng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh (Phần 3)

  Tìm hiểu về văn hóa (Phần 2) - Lm Gioan Kim Nguyễn Văn Hinh

  Tìm hiểu về văn hóa (Phần 1) - Lm Gioan Kim Nguyễn Văn Hinh

  TRỰC TUYẾN BÀI 29: MỤC VỤ THÁNH THIỆN THUẬN THEO

  TRỰC TUYẾN BÀI 28 : MỤC VỤ TÍCH HỢP VĂN HÓA ĐÔNG TÂY

  TRỰC TUYẾN BÀI 27 : MỤC VỤ LỜI CHÚA NGÀY NAY

  TRỰC TUYẾN BÀI : TÌM HIỂU VỀ VĂN HÓA VÀ BẢN SẮC VĂN HÓA VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 26: MỤC VỤ ĐẠO ĐỨC KINH TẾ DỊCH VỤ

  TRỰC TUYẾN BÀI 25: MỤC VỤ TUẦN THÁNH UY VÀ ĐỨC

  TRỰC TUYẾN BÀI 24: MỤC VỤ GIA TÀI CỦA MẸ

  TRỰC TUYẾN BÀI 23: MỤC VỤ BỔ VÀ TẢ

  mvgd20162016

  TRỰC TUYẾN BÀI 21: MỤC VỤ LUẬT CÂN BẰNG

  TRỰC TUYẾN BÀI 20: TRUY TÌM MÃNH LỰC

  TRỰC TUYẾN BÀI 19: THẾ GIỚI HÔM NAY CẦN NHỮNG NGƯỜI CHA NHÂN HẬU LÝ TƯỞNG VÀ THỰC TIỄN

  TRỰC TUYẾN BÀI 18: NĂM THÁNH THÁNH CẢ GIUSE LÃNH ĐẠO VÀ NIỀM TIN

  TRỰC TUYẾN BÀI 17: MỪNG XUÂN TÂN SỬU 2021 - LÒNG BIẾT ƠN TIN VUI ĐẠO ĐỨC VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 17: MỪNG XUÂN TÂN SỬU 2021 - LÒNG BIẾT ƠN TIN VUI ĐẠO ĐỨC VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 16: ĐỀ TÀI ĐIỂM TỰA

  TRỰC TUYẾN BÀI 14: VĂN HÓA KHÔNG NHẬN SAI NHƯNG SỬA SAI

  TRỰC TUYẾN BÀI 13: VUN TRỒNG NỀN VĂN HÓA “TÂM LINH – KHOA HỌC”

  TRỰC TUYẾN BÀI 12: NĂM MỚI 2021 XÂY DỰNG NỀN VĂN MINH TÂM LINH & KHOA HỌC

  TRỰC TUYẾN BÀI 11: GIÁNG SINH 2020 - LÀM NGƯỜi - GIÊSU

  TRỰC TUYẾN BÀI 10: PHÍA ĐẰNG SAU TÂM LINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 9: ĐỂ CÓ CHÚA THÁNH THẦN

  TRỰC TUYẾN BÀI 8: LOAN BÁO TIN MỪNG

  TRỰC TUYẾN BÀI 7: PHÒNG ĐÀO LUYỆN TÂM LINH CỦA TÍN HỮU DÂN CHÚA

  TRỰC TUYẾN BÀI 6: ĐÀO LUYỆN TÍN HỮU DÂN CHÚA

  TRỰC TUYẾN BÀI 5: TẦM NHÌN THIÊN NIÊN KỶ MỚI

  TRỰC TUYẾN BÀI 4: ĐÀO LUYỆN TÂM LINH BẮT ĐẦU TỪ THÁNH THỂ HAY THÁNH KINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 3: PHƯƠNG THỨC CẦU NGUYỆN CẢM NGHIỆM- SỐNG THÁNH GIỮA ĐỜI

  TRỰC TUYẾN: BÀI 2: GIẢI THÍCH ĐÀO LUYỆN TÂM LINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 1: ĐÀO LUYỆN TÂM LINH

  TintucVatican

  Thánh Lễ Tuyên Thánh Jacinta và Francisco Marto

  Muối và ánh sáng

  Thế Giới Nhìn Từ Vatican

  Nghi thức đóng Cửa Thánh

  Xin Mẹ Thương

  Thế Giới Nhìn Từ Vatican

  Suy Niệm với Đức Thánh Cha Phanxicô

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__3

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__1

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__2

  Thường huấn HĐMVGX Ban Mê Thuật

  Quốc tế thiếu nhi 01-6-2014

  Thể dục Dưỡng Sinh

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  CƠM TRƯA TRUNG THU 2013

  Thi đấu thăng cấp sơ đẳng Vovinam

  Khai mạc kỳ thi thăng cấp Vovinam

  Vovinam

  Đào luyện tâm linh

  Nghệ thuật cân bằng

  Đào Luyện Tinh Thần

  Đào Luyện Thể Chất

Bài viết mới
BÀI GIẢNG ĐỨC THÁNH CHA - CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN NĂM B
BÀI GIẢNG ĐỨC THÁNH CHA - CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN NĂM B.
SỨ ĐIỆP ĐỨC THÁNH CHA NHÂN NGÀY THẾ GIỚI CẦU NGUYỆN CHO VIỆC CHĂM SÓC THỤ TẠO NĂM 2024: HY VỌNG VÀ HÀNH ĐỘNG VỚI THỤ TẠO
SỨ ĐIỆP ĐỨC THÁNH CHA NHÂN NGÀY THẾ GIỚI CẦU NGUYỆN CHO VIỆC ...
ỦY BAN GIÁO DÂN - THƯỜNG HUẤN THÁNG 07/2024: TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN - MUỐI VÀ ÁNH SÁNG CHO THẾ GIỚI avatar Ủy ban Giáo dân 01/07/2024 Giáo hội là Dân Thiên Chúa, nơi mỗi người tín hữu, dù là giáo sĩ hay giáo dân, đều đóng góp vai trò không thể thiếu trong sứ mạng loan báo Tin Mừng. Chủ đề “Tông đồ giáo dân: Muối và ánh sáng cho thế giới” tập trung vào việc khai triển và cổ võ vai trò của giáo dân trong việc trở thành muối ướp mặn đời và ánh sáng soi sáng trần gian. Ủy ban Giáo dân Hội đồng Giám mục Việt Nam THƯỜNG HUẤN THÁNG 07/2024: TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN: MUỐI VÀ ÁNH SÁNG CHO THẾ GIỚI BÀI 1: HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN DỰA TRÊN LỜI CHÚA - Phanxicô Xaviê Nguyễn Thái BÀI 2: SỐNG TIN MỪNG TRONG ĐỜI THƯỜNG – Lm. Antôn Hà Văn Minh BÀI 3: BIẾN ĐỔI THẾ GIỚI TỪ BÊN TRONG - Lm. Tôma Vũ Ngọc Tín, S.J. BÀI 4: LÒNG CAN ĐẢM VÀ SỰ KHÔN NGOAN KHI DẤN THÂN VÀO ĐỜI SỐNG TRẦN THẾ - Lm. Tôma Vũ Ngọc Tín, S.J. BÀI 1: HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN DỰA TRÊN LỜI CHÚA - Phanxicô Xaviê Nguyễn Thái “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. “Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá. Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành” (Mt 7, 21.24 – 27). Đọc đoạn Tin Mừng trên cho chúng ta thấy: sống Tin Mừng trong đời thường là một hành trình đức tin mà qua đó, người Kitô hữu áp dụng lời dạy của Chúa Giêsu vào cuộc sống hàng ngày. Yêu Chúa không chỉ là tham dự các thánh lễ, các giờ kinh, mà phải thi hành ý muốn của Chúa Cha qua việc lãnh nhận các bí tích thường xuyên và qua cách chúng ta tương tác với mọi người xung quanh, cách chúng ta hành xử với thử thách và cách thực hiện các quyết định. Dưới đây là một số suy tư của giáo dân và một số cách để sống Tin Mừng trong đời thường: 1. Suy niệm và cầu nguyện với Lời Chúa: chúng ta không thể kết hiệp mật thiết với Chúa mà không cầu nguyện với Ngài. Việc dành thời gian mỗi ngày để suy niệm và cầu nguyện với Lời Chúa giúp nuôi dưỡng tâm hồn chúng ta ngày càng trở nên thánh thiện hơn, yêu Chúa nhiều hơn và được Chúa hướng dẫn hành động. 2. Yêu thương tha nhân là yếu tố quan trọng khi ta sống theo Tin Mừng. Yêu thương mọi người xung quanh mình, cho dù họ là ai, tôn giáo nào, giàu hay nghèo. “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” ( Ga 15, 12 ). Điều này áp dụng qua việc giúp đỡ những người nghèo khó, an ủi những người đang gặp khó khăn, và chia sẻ cho cộng đồng đang cần đến tình thương của mình. 3. Hiền lành và khiêm nhường: là ứng xử một cách nhẹ nhàng, không gây ra xung đột, luôn lắng nghe và tôn trọng ý kiến của người khác, và tìm cách giải quyết mọi vấn đề một cách dịu dàng và an bình. Tuy nhiên, hiền lành và khiêm nhường không đồng nghĩa với sự yếu đuối, mà chính là một cách để thể hiện sự mạnh mẽ và tự tin của bản thân thông qua sự kiểm soát cảm xúc và nhận thức. 4. Sống công bằng và bác ái: cố gắng sống công bằng với mọi người, không phân biệt đối xử, không chỉ dựa trên sự thỏa thuận mà dựa trên giá trị cốt lõi là phẩm giá con người, và thực hiện các hành động bác ái, như viếng thăm người đau yếu, quyên góp cho từ thiện, chia sẻ Chúa cho anh em, tham gia phục vụ cộng đồng dân Chúa cũng như cộng đồng xã hội. 5. Kiên nhẫn tha thứ: sống theo Tin Mừng đòi hỏi lòng kiên nhẫn và sẵn lòng tha thứ, dù trong những hoàn cảnh khó khăn nhất. Tha thứ đến cùng, tha thứ không giới hạn cho những lỗi lầm của người khác. Lý do chính mà chúng ta làm là vì Chúa đã tha thứ cho mỗi người chúng ta. 6. Chia sẻ niềm vui: sống vui tươi, dịu dàng với mọi người qua lối sống khó nghèo, tìm kiếm sự hài lòng, phấn khởi trong những điều giản dị và ý nghĩa của cuộc sống. 7. Sống Tin Mừng trong đời thường là chúng ta làm chứng về một Đức Giêsu con Thiên Chúa đã xuống trần gian, chịu chết và sống lại cho chúng ta được sống và được sống lại. Chứng nhân không chỉ trong một giai đoạn của cuộc sống nhưng là một đời Kitô hữu được kết hiệp với Chúa, bằng nguồn sống của Chúa. Qua hành động và lời nói hàng ngày, qua cách sống và tương tác với tha nhân làm sao bày tỏ được tình yêu và lòng thương xót của Chúa. Những suy tư Sống Tin Mừng trong đời thường không chỉ là làm một số việc đạo mà là cách sống thánh thiện và yêu thương mọi người xung quanh. Mỗi người cần gìn giữ và phát triển niềm tin của mình để sống đúng lý tưởng và hạnh phúc theo tinh thần của Tin Mừng. Sống Tin Mừng trong đời thường không phải lúc nào cũng dễ dàng, mỗi người giáo dân có cách sống Tin Mừng trong cuộc sống của họ một cách khác nhau. Nhiều giáo dân chưa mở lòng nên không nhận được ơn Chúa. Họ sống khép kín, không tham gia vào giáo xứ hoặc nếu có cũng chỉ là hình thức. Có những người không biết về Tin Mừng hoặc có biết qua loa thì cũng chưa áp dụng Tin Mừng vào cuộc sống, có khi còn không dám cho người khác biết mình là người Công Giáo, không dám sống đức tin của mình. Những người giáo dân khác sống theo lời dạy của Chúa Giêsu và thực hành lòng nhân từ, yêu thương và tha thứ. Trong khi một số khác có thể gặp khó khăn trong việc áp dụng những giá trị đạo đức từ Tin Mừng vào cuộc sống hàng ngày. Tuy nhiên, quan trọng nhất là họ luôn cố gắng học hỏi và phát triển trong đức tin của mình để trở thành những người sống theo Tin Mừng mẫu mực. Được như thế là giáo dân cũng đang tham gia vào đời sống của Giáo Hội, dần dần góp phần xây dựng một Giáo Hội hiệp hành và một thế giới tốt đẹp hơn. Hồi Tâm 1/ Làm cách nào giúp mọi người Công Giáo, hay ít nhất là những người đi lễ mỗi tuần có thể học, suy niệm và cầu nguyện với Tin Mừng? Nếu đang làm việc trong Hội đồng mục vụ giáo xứ hay trong các Hội đoàn Công giáo tiến hành, bạn sẽ làm gì? 2/ Chứng nhân Tin Mừng trong đời thường là phương cách hữu hiệu giúp người khác dễ dàng sống theo gương, bạn có thể chia sẻ chứng nhân trong những buổi họp, hay những lúc riêng tư cho những người chung quanh không? 3/ Trong đời thường, bạn làm gì để bày tỏ lòng yêu mến Chúa qua tha nhân? BÀI 2: SỐNG TIN MỪNG TRONG ĐỜI THƯỜNG – Lm. Antôn Hà Văn Minh Qua Bí tích Rửa tội, người tín hữu được dự phần vào sứ vụ của Chúa Giêsu. Sứ vụ đó chính làm cho mọi người nhận biết ơn cứu độ của Thiên Chúa Cha tỏ bày cho nhân loại qua Đức Giêsu Kitô. Thi hành sứ vụ chính là sống Tin Mừng giữa lòng thế giới, cụ thể trong cuộc sống thường ngày của mỗi tín hữu. Công Đồng nói về cảnh sống trần thế của giáo dân bằng cách trình bày cảnh sống ấy, trước tiên, như là môi trường trong đó họ được Thiên Chúa mời gọi: “Đó là nơi Thiên Chúa gọi họ” (LG số 31). Và thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã giải nghĩa: “nơi” được trình bày bằng những hạn từ có tính cách năng động: giáo dân sống giữa trần gian, nghĩa là dấn thân vào tất cả cũng như từng công việc và bổn phận của trần thế, giữa những cảnh sống thường ngày trong gia đình và ngoài xã hội, tất cả những điều đó như dệt thành cuộc sống của họ. Đó là những con người có một đời sống bình thường trong trần gian, học hỏi, làm việc, thiết lập những tương quan bạn bè, xã hội, nghề nghiệp, văn hóa”[1]. Sống Tin Mừng là gì? Trích dẫn Lời Chúa: “Chính anh em là muối cho đời… là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,13–14), Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã trình bày: “Lời mời gọi của Chúa Giêsu chính là sứ mạng của người tín hữu sống trong thế giới này. Người Kitô hữu không coi thế gian là địa ngục, là nơi giam cầm của những nỗi thống khổ, cũng như không coi thế gian là hạnh phúc vĩnh cửu cho cuộc đời mình, nhưng là nơi để Thiên Chúa tỏ lộ tình yêu của Ngài qua sự cộng tác của con người, và là nơi để con người được thực thi ơn gọi và sứ mạng Kitô hữu của mình trong một tình yêu dấn thân và thánh hóa thế giới: Tham dự vào lãnh vực trần thế, là phận vụ phát xuất từ bản tính nội tại và sứ mạng của mình”[2]. Vì thế, sống Tin Mừng chính là huấn luyện bản thân nhuần thấm Tin Mừng để có thể thực thi ơn gọi của mình cách trọn hảo. Thiên Chúa muốn người tín hữu trở thành muối, thành ánh sáng cho thế giới bằng chính đời sống Tin Mừng của mình, hay nói cách khác người tín hữu dấn thân phục vụ để trần gian nhận biết tình yêu của Ngài dành cho nhân loại, một tình yêu trọng đại đã được thánh Gioan diễn tả: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời” (Ga 3, 16). Nhưng để có thể sống Tin Mừng, dấn thân phục vụ cho Tin Mừng, đòi hỏi người tín hữu phải là người thấm đẫm Tin Mừng. Chỉ là men Tin Mừng khi người hữu phải đầy “chất” Tin Mừng. Vì thế, sống Tin Mừng trước tiên phải kết hợp mật thiết với Đức Kitô, vì Ngài chính là Tin Mừng. Vì thế, cuộc gặp gỡ với Tin Mừng là nền tảng cho việc sống Tin Mừng. Điều đó được thực hiện trước tiên chính là cuộc gặp gỡ Lời qua Kinh Thánh. Công đồng Vatican II trong hiến chế Mạc khải đã minh định: Chúa Cha muốn gặp gỡ con cái mình và ngỏ lời với họ qua Sách Thánh. Như vậy, tiếp cận với Lời Chúa, đọc Thánh Kinh là đi vào một cuộc gặp gỡ, tham gia một cuộc đối thoại với Thiên Chúa[3]. Quả thật việc đọc Thánh Kinh là cách thế tuyệt hảo để có được cuộc đối thoại với Thiên Chúa, vì “chúng ta ngỏ lời với Ngài khi cầu nguyện, và chúng ta nghe Ngài nói lúc chúng ta đọc các sấm ngôn thần linh”[4]. Trong Tông Thư “Khởi Đầu Ngàn Thứ Ba”, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II viết: “Lời Chúa phải trở nên một sự gặp gỡ ban sự sống, theo truyền thống xa xưa và luôn vững chắc về việc đọc Sách Thánh, cho phép rút ra từ bản văn Thánh Kinh Lời Hằng Sống, là lời chất vấn, hướng dẫn và hình thành cuộc sống chúng ta” (số 39)[5]. Người tín hữu chỉ có thể là men Tin Mừng, khi đời sống được đặt trên nền tảng Lời Chúa, không thường xuyên cầu nguyện với Lời Chúa không thể nào hoán cải cuộc đời để có thể làm cho đời mình trở thành men Tin Mừng. Dựa vào hoạt động của Giáo Hội tiên khởi được tường thuật trong sách Tông đồ công vụ, Đức Thánh cha Phanxicô nói: “Chúng ta khám phá động cơ mạnh mẽ của việc loan báo Tin Mừng chính là những buổi quy tụ cầu nguyện, nơi những người tham gia cảm nghiệm cách sống động sự hiện diện của Chúa Giêsu và được Chúa Thánh Thần đánh động. ...Lời cầu nguyện truyền lan ánh sáng và sự hăng hái: ân sủng của Chúa Thánh Thần làm nảy sinh trong lòng họ sự nhiệt thành”[6]. Dĩ nhiên việc tiếp cận Lời Chúa phải gắn chặt với Thánh Thể. Đức Thánh cha Phanxicô đã nói mạnh mẽ: Chỉ trong sự tôn sùng Thánh Thể, chỉ trước mặt Chúa, hương vị và sự say mê truyền giáo mới có thể được phục hồi. Lòng tôn sùng Thánh Thể là động lực giúp cho chúng ta vượt thắng những phong ba bão táp của cuộc đời, đặc biệt đó là nguồn khích lệ cho những người hết lòng chia sẻ Tin Mừng, chính vì trong Bí tích Thánh Thể, “chúng ta gặp gỡ Đấng đã ban mọi sự cho chúng ta” và đến lượt mình, chúng ta trở nên có khả năng chia sẻ tình yêu đó với người khác[7]. Để có thể sống Tin Mừng hầu trở thành men của Tin Mừng, chúng ta cần phải liên kết chặt chẽ với Chúa Kitô qua Lời Chúa, Thánh Thể và cầu nguyện và sống tình huynh đê. Bốn yếu tố: Lời Chúa, tìm kiếm tình hiệp thông huynh đệ, Thánh Thể và cầu nguyện, theo Đức Thánh Cha Phanxicô, chính là tiêu chuẩn để phân định một sự việc. Bất cứ trường hợp nào thiếu những yếu tố này điều thiếu tính Giáo hội, không phải của Giáo hội, yếu tố quan trọng để chứng thực chúng ta thực sự là Men của Tin Mừng.[8] Sống Tin Mừng giữa đời thường Nhìn vào thực tế, trăn trở lớn của Giáo Hội Việt Nam là vấn đề Loan Báo Tin Mừng. Thật vậy, con số tín hữu Việt Nam đến nhà thờ dâng lễ mỗi Chúa Nhật có thể nói cho đến lúc này vẫn đáng tự hào, thế nhưng niềm tự hào này có thực sự là niềm vui đích thực không? Bởi nhìn vào cánh đồng truyền giáo mỗi địa phương vẫn còn ngổn ngang, vẫn còn có qua nhiều người chưa được tiếp cận với Tin Mừng, vẫn còn đó nhưng lương dân là hàng xóm của các gia đình Công giáo, nhưng họ chẳng nghe nói về Chúa Giêsu, không một lần tiếp cận được với Tin Mừng. Câu trả lời được tìm thầy nơi lối sống của người tín hữu Công giáo. Là men Tin Mừng, nhưng họ lại không thể hiện lối sống Tin Mừng ngay trong môi trường mình sinh sống. Họ tách rời đức tin và cuộc sống thường ngày, họ đóng khung lối sống Tin Mừng trong nhà thờ, họ không làm cho men Tin Mừng được dậy lên trong người môi trường mình sống. Cha mẹ vẫn đi dâng lễ ngày Chúa nhật, nhưng chưa một lần hướng dẫn con cái về đời sống đức tin. Người tín hữu vẫn thường xuyên gặp gỡ bạn bè là lương dân, nhưng chưa một lần họ nghe về Chúa Giêsu, nhiều khi còn tệ hơn, để làm vui lòng bạn bè lương dân, người Công Giáo sẵn sàng bỏ đi lễ Chúa nhật; ngoài phố chợ, những chủ cửa hàng Công Giáo vẫn ngần ngại thể hiện lối sống Tin Mừng để giữ đức công bình và đức yêu thương... Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhấn mạnh: “Người tín hữu không được mời gọi rời bỏ vị thế họ đang sống nơi trần gian. Thực vậy, Bí tích Thánh Tẩy không kéo họ ra khỏi trần gian, như thánh Phaolô đã nhấn mạnh: ‘Thưa anh em, khi được kêu gọi ở địa vị nào, mỗi người cứ ở địa vị đó trước mặt Thiên Chúa’ (1 Cr 7,24); trái lại, Ngài trao cho họ một ơn gọi có liên hệ đích thực với tình huống của họ trong trần gian: thực vậy, giáo dân được ‘Thiên Chúa kêu gọi để, dưới sự hướng dẫn của tinh thần phúc âm, như men từ bên trong, họ thánh hóa thế giới bằng việc thi hành những nhiệm vụ của mình; và như thế, với lòng tin cậy mến sáng ngời, nhất là với chứng tá đời sống, họ tỏ lộ Chúa Kitô cho kẻ khác’ (Tông huấn Người Tín hữu Giáo dân, số 15) Cha Mến kể câu chuyện: Chứng nhân trong đời thường như sau: Nhà giáo dục vĩ đại Booker T. Washington có viết như sau trong cuốn tự thuật mang tựa đề: “Từ ách nô lệ đi lên” của ông: “Càng lớn tôi càng tin chắc rằng, không một sự giáo dục nào có thể gặt hái được từ sách vở, hay từ những dụng cụ đắt tiền, mà có thể sánh ví được với những gì ta có thể gặt hái được, do tiếp xúc với các bậc vĩ nhân”. Cách đây ít lâu, một phụ nữ Ấn độ giáo đã trở lại Công giáo, sau một thời gian nghe rao giảng Lời Chúa. Bà chịu nhiều gièm pha, đay nghiến từ người chồng và bao người thân, do việc bà trở lại đạo. Có lần cha xứ hỏi bà: “Khi chồng con nổi giận và hành hạ con, thì con làm gì”? Bà đáp: “Thưa Cha, con cố gắng nấu ăn ngon hơn. Khi ông than trách, con lau chùi nhà sạch hơn. Khi ông ăn nói cộc cằn, con trả lời ôn tồn nhỏ nhẹ. Con cố gắng để chứng tỏ cho ông ta thấy: Khi con trở lại đạo Chúa, con phải là người vợ và người mẹ tốt hơn”. Một thời gian sau, chính ông chồng cũng xin trở lại đạo Công giáo, không phải vì lời giảng của cha xứ, cho bằng chính nhờ gương sáng sống đạo của bà vợ đạo đức của ông.[9] Sắp tới đây Đức Thánh cha Phanxicô sẽ phong thánh cho chân phước Carlo Arcutis, một vị thánh trẻ, được gọi vị thánh thuộc thế hệ Y. Thánh nhân có gì đặc biệt? Không có gì đặc biệt ngoài việc ngài sống Tin Mừng giữa đời thường. Đức hồng y Vallini trong bài giảng lễ phong chân phước đã nói về Carlo Arcutis như sau: Carlo có lòng yêu mến Thánh Thể và gắn bó với Thánh Thể cách đặc biệt. Chúa Giêsu là Bạn, là Thầy, là Đấng Cứu Độ và là sức mạnh cho cuộc sống của Acutis và là động lực của mọi việc cậu làm. Từ đó, Carlo mong muốn mãnh liệt đưa người khác đến với Chúa và cậu làm điều này trên hết bằng gương mẫu cuộc sống. Carlo dùng mọi cách, cả cách thức hiện đại, với tài năng về tin học Chúa ban, để gặp gỡ và loan truyền các giá trị Kitô giáo cho người khác[10]. BÀI 3: BIẾN ĐỔI THẾ GIỚI TỪ BÊN TRONG - Lm. Tôma Vũ Ngọc Tín, S.J. Đời sống Kitô hữu giữa lòng trần thế như những hạt muối tinh tế thấm vào lòng đời, lặng lẽ làm biến đổi thế giới, như men trong bột làm dậy lên cả khối bột. Hành trình hy vọng nhưng cũng đầy thách đố này đòi hỏi sự biến đổi sâu sắc từ bên trong tâm hồn và đời sống mỗi người tín hữu. Khi mỗi người thay đổi từ nội tâm, họ trở thành ánh sáng lan tỏa, chiếu rọi khắp nơi, góp phần biến đổi thế giới bằng chính đời sống đức tin của mình. Theo Sắc Lệnh về Tông Đồ Giáo Dân, linh đạo tông đồ giáo dân không chỉ là sống đức tin một cách cá vị, mà còn là tham gia tích cực vào sứ mạng của Giáo Hội. Giáo dân được mời gọi trở thành những tông đồ giữa đời, mang Tin Mừng đến mọi nơi (Apostolicam Actuositatem-AA, 4). Linh đạo này giúp mỗi người giáo dân nhận ra rằng, họ có một vai trò đặc biệt trong việc xây dựng Nước Trời nơi trần thế, không chỉ qua lời nói mà còn qua hành động cụ thể trong cuộc sống thường ngày: “Bản chất riêng biệt của người giáo dân là sống giữa đời và làm việc đời nên chính họ được Thiên Chúa mời gọi để một khi tràn đầy tinh thần Kitô giáo, họ làm việc tông đồ giữa đời như men trong bột” (AA 2). Sống linh đạo tông đồ giáo dân như thế, trước hết người giáo dân gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu qua Lời Chúa và Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể là tâm điểm đời sống người tín hữu, nuôi dưỡng mỗi người trong hành trình Kitô hữu giữa đời, giúp mỗi người kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu và dấn thân phục vụ sứ mạng của Người: “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu, đó không chỉ là lời mời gọi, mà còn là một yêu cầu thiết yếu, để mỗi Kitô hữu có thể sống đức tin và thực thi sứ mạng của mình. Tham dự Thánh lễ, cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa,… là những phương thế giúp giáo dân nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của mình. Cầu nguyện giúp người giáo dân sống tình thân mật thiết với Chúa, trong khi suy niệm Lời Chúa giúp họ hiểu rõ hơn về ý nghĩa và sứ mạng của mình như được Chúa mời gọi. Kết hiệp với Chúa Giêsu qua Thánh Thể và Lời Chúa là những phương thế sống động để mỗi người trở nên men trong bột, biến đổi thế giới từ bên trong. Từ đời sống gắn kết với Chúa Giêsu, người giáo dân sống đức tin của mình qua những hành động cụ thể trong gia đình, nơi làm việc, và cộng đồng. Điều này có thể bao gồm việc tham gia vào các hoạt động xã hội, hỗ trợ người nghèo, bảo vệ môi trường, và tham gia vào các phong trào xã hội nhằm thúc đẩy công lý và hòa bình. Ý nghĩa của việc trở thành men trong bột là mỗi Kitô hữu đều có thể đóng góp một phần nhỏ nhưng quan trọng vào việc biến đổi thế giới xung quanh. Điều này đòi hỏi mỗi người phải sống đời sống đức tin một cách chân thật và nhiệt thành. Tình yêu và công lý là hai yếu tố không thể thiếu trong linh đạo giáo dân. Mỗi giáo dân được mời gọi sống yêu thương qua những hành động cụ thể, đồng thời nỗ lực thực thi công lý và xây dựng hòa bình. Các hoạt động xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc thực hành tông đồ giáo dân. Tham gia vào các hoạt động này không chỉ giúp mỗi người thực thi sứ mạng truyền giáo, mà còn góp phần xây dựng một xã hội công bằng và yêu thương hơn. Sau cùng, qua đời sống đức tin và dấn thân tông đồ, mỗi người góp phần xây dựng và phát triển cộng đoàn giáo xứ. Qua việc tham gia tích cực vào đời sống giáo xứ, giáo dân không chỉ đóng góp vào sự phát triển của cộng đoàn mà còn tạo ra một môi trường yêu thương và hiệp nhất. Một cộng đoàn yêu thương sẽ là nền tảng vững chắc để mỗi giáo dân có thể thực thi sứ mạng truyền giáo của mình một cách hiệu quả. Tóm lại, hành trình Kitô hữu giữa lòng trần thế là trở thành muối và men, âm thầm, trung kiên, nhẫn nại thấm vào mọi ngóc ngách của cuộc sống, làm biến đổi thế giới từ nội tại. Sống đức tin trong đời thường, thể hiện qua những hành động cụ thể trong gia đình, nơi làm việc và cộng đồng, là cách mỗi Kitô hữu trở thành men trong bột, biến đổi thế giới bằng tình yêu và công lý. Kết hiệp với Chúa qua cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa, cùng tham gia vào các hoạt động xã hội, là nền tảng để mỗi giáo dân góp phần xây dựng một xã hội công bằng và yêu thương, biến đổi thế giới từ bên trong. Hồi tâm 1/ Nhìn lại kinh nghiệm sống đạo, tôi thấy mình trở nên ánh sáng và muối và men trong môi trường sống như thế nào? Tôi có thể làm gì để thẩm thấu và lan tỏa tinh thần Kitô giáo trong gia đình, nơi làm việc, và cộng đồng của mình? 2/ Tôi cảm nghiệm thế nào về ơn gọi và sứ mạng Kitô hữu khi cầu nguyện và suy niệm lời Chúa? Làm thế nào tôi có thể biến những cảm nghĩ thiêng liêng ấy thành hành động cụ thể để xây dựng Nước Trời ngay cuộc sống đời thường của tôi? 3/ Khi đối diện với những thách thức trong cuộc sống và xã hội, tôi trải nghiệm thế nào về tình yêu và công lý như men trong bột, làm dậy lên sự thay đổi tích cực? Tôi có sẵn sàng dấn thân hơn nữa để trở thành người tông đồ truyền giáo giữa đời, lan toả tình yêu và công lý trong môi trường sống thường ngày? BÀI 4: LÒNG CAN ĐẢM VÀ SỰ KHÔN NGOAN KHI DẤN THÂN VÀO ĐỜI SỐNG TRẦN THẾ - Lm. Tôma Vũ Ngọc Tín, S.J. Lòng can đảm và sự khôn ngoan là hai phẩm chất quan trọng mà mỗi Kitô hữu cần có để sống và làm chứng cho đức tin trong đời sống trần thế. Lòng can đảm giúp chúng ta vượt qua những thử thách và khó khăn, dám đứng lên bảo vệ sự thật và công lý. Sự khôn ngoan, hướng dẫn chúng ta hành động một cách sáng suốt, biết phân định phải trái, đúng sai và chọn lựa đường hướng đẹp lòng Chúa. Trong một thế giới đầy biến động và thách thức, lòng can đảm và sự khôn ngoan trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Đối với giáo dân, hai phẩm chất này không chỉ giúp họ sống đức tin một cách mạnh mẽ và vững vàng mà còn đóng góp tích cực vào việc xây dựng một xã hội công bằng và nhân ái hơn. Lòng can đảm là một chủ đề được nhắc đến nhiều trong Kinh Thánh: “Mạnh bạo lên, can đảm lên! Đó chẳng phải là lệnh Ta đã truyền cho ngươi sao? Đừng run khiếp, đừng sợ hãi, vì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, sẽ ở với ngươi bất cứ nơi nào ngươi đi tới” (Gs 1,9). Lời khích lệ này không chỉ dành cho Thủ lãnh Giôsuê mà còn dành cho tất cả chúng ta, những người đang sống và làm chứng cho đức tin. Lòng can đảm giúp chúng ta đứng vững trước những thử thách, bảo vệ niềm tin và dám sống theo những giá trị Tin Mừng trong một thế giới đầy cám dỗ, bạo loạn và bất công. Sự khôn ngoan cũng là một đức tính quan trọng được Kinh Thánh đề cao: “Nếu ai trong anh em thiếu đức khôn ngoan, thì hãy cầu xin Thiên Chúa, Người sẽ ban cho. Vì Thiên Chúa ban cho mọi người cách rộng rãi, không quở trách” (Gc 1,5). Sự khôn ngoan giúp chúng ta biết phân định đúng sai, tốt xấu, lựa chọn đường hướng đẹp lòng Chúa và hành động một cách sáng suốt trong mọi hoàn cảnh. Nó không chỉ là tri thức mà còn là khả năng ứng dụng tri thức đó vào cuộc sống một cách đúng đắn và hiệu quả tốt đẹp. Mỗi người vẫn thường đối diện với những thách đố và nghịch cảnh trong đời sống. Điều quan trọng là cách chúng ta đối diện và vượt qua chúng. Cuộc sống trần thế có muôn vàn cảnh huống mà ở đó, người giáo dân thể hiện lòng can đảm và sự khôn ngoan khi luôn tin cậy Chúa và đối diện khó khăn, chẳng hạn như việc bảo vệ sự thật và công lý trong môi trường làm việc, nơi có thể gặp phải những áp lực và cám dỗ. Lòng can đảm giúp chúng ta không lùi bước, trong khi sự khôn ngoan giúp chúng ta chọn lựa cách hành động phù hợp và hiệu quả. Đời sống đức tin không dừng ở việc tham dự các cử hành phục vụ mà còn sống theo những giá trị Kitô giáo trong đời sống thường ngày. Giáo dân có thể thể hiện lòng can đảm và sự khôn ngoan bằng cách làm gương sáng trong môi trường làm việc, trong gia đình, và trong cộng đồng. Những hành động cụ thể như giúp đỡ người khó khăn, bảo vệ môi trường, và tham gia vào các hoạt động từ thiện đều là những cách thể hiện đức tin một cách sống động và thực tế. Trong nhiều hoàn cảnh, lòng can đảm và sự khôn ngoan của người giáo dân có thể thể hiện trong vai trò lãnh đạo cộng đồng. Trong hoàn cảnh đó, lòng can đảm và sự khôn ngoan không chỉ giúp giáo dân đối mặt với những thách thức mà còn giúp họ hành động một cách sáng suốt và hiệu quả. Sau cùng, giáo dục con cái về lòng can đảm và sự khôn ngoan là một nhiệm vụ quan trọng của các bậc cha mẹ Công Giáo. Giáo dân có thể giúp con cái hiểu và thực hành hai phẩm chất này qua gương sáng trò chuyện thường ngày trước những vấn đề thực tế trong đời sống, giúp con cái phát triển lòng can đảm và sự khôn ngoan trong cuộc sống. Tóm lại, lòng can đảm và sự khôn ngoan là những phẩm chất không thể thiếu để mỗi Kitô hữu sống đức tin trong đời sống trần thế. Những phẩm chất này hằng giúp chúng ta vượt qua thử thách, bảo vệ sự thật và công lý, và hành động minh bạch, tư duy độc lập sáng suốt, mang lại ích lợi chính đáng cho bản thân và cộng đồng. Trong một thế giới đầy biến động, giáo dân cần lòng can đảm để kiên vững vượt qua những trở ngại và sự khôn ngoan để phân định và lựa chọn đúng đắn. Đó là hai phẩm chất giúp người giáo dân dấn thân sống đức tin giữa lòng trần thế, góp phần xây dựng đời sống xã hội thấm đượm Tin Mừng. Hồi tâm 1/ Trong những tình huống cụ thể nào, tôi thường cần đến lòng can đảm để bảo vệ sự thật và công lý? Tôi đã từng phản ứng ra sao và kết quả như thế nào? 2/ Làm thế nào tôi có thể áp dụng sự khôn ngoan để phân định đúng sai và đưa ra quyết định sáng suốt trong các hoạt động và công việc tại giáo xứ của mình? 3/ Nhớ lại một trải nghiệm khi lòng can đảm và sự khôn ngoan của người Công giáo đã tạo ra sự khác biệt tích cực trong cộng đồng xã hội? Tôi cảm nghĩ thế nào về sự dấn thân của người giáo dân, với lòng can đảm và khôn ngoan, vào đời sống xã hội? ________ [1] Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Tông Huấn Người Tín Hữu Giáo dân (Christifideles Laici), số 15. [2] Nt. [3]X. Hiến chế Mạc Khải (Dei Verbum), số 21 [4] X Hiến chế Mạc Khải (Dei Verbum), số 25. [5] Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông thư Ngàn Năm Thứ Ba (Millennio Adveniente), số 39> [6] Đức Phanxicô, buổi tiếp kiến chung trực tuyến sáng thứ Tư 25/11/2020), nguồn Vatican News. [7] Nguồn: www.ncregister.com/commentaries/without-adoration-there-s-no-evangelization [8] Nguồn: www.vaticannews.va/vi/pope/news/2020-11/ [9] Nguồn: https://linhmucmen.com/news/kho-sach-quy/chung-nhan-giua-doi-thuong [10] Nguồn: https://www.vaticannews.va/vi/church/news/2020-10/le-phong-chan-phuoc-carlo-acutis.html
ỦY BAN GIÁO DÂN - THƯỜNG HUẤN THÁNG 07/2024: TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN - MUỐI ...
LINH ĐẠO DUNG NẠP
LINH ĐẠO DUNG NẠP