Thứ bảy, ngày 06 tháng 07 năm 2024 | 06:38 AM - Giới thiệu | Ý nghĩa logo
Tài liệu

Tương Quan Giữa Các Dòng Tu: Với Nhau – Với Giáo Phận – Với Giáo Xứ

·    

Lm. Giuse Nguyễn Quốc Việt, C.S.s.R.

Bài chia sẻ khóa thường huấn linh mục Giáo phận Qui Nhơn 2015.

 

 

DẪN NHẬP

Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng, ngày 30 tháng 11 năm 2014, Đức Thánh Cha Phanxicô khai mạc “Năm Đời sống thánh hiến” và kết thúc vào lễ Dâng Chúa Giêsu vào đền thờ, ngày 02 tháng 02 năm 2016. Trong dòng chảy thiêng liêng của Hội Thánh Công Giáo toàn cầu, Giáo phận Qui Nhơn cùng hòa mình vào bằng nhiều cách, riêng với Linh mục đoàn đã chọn cách cùng Hội Thánh suy tư về Đời sống thánh hiến qua loạt bài trong tuần thường huấn có chủ đề: “Đời sống thánh hiến trong nhãn quan mục vụ và truyền giáo”. Ở đây, đề tài số 3: “Tương quan giữa các Dòng tu với nhau với Giáo phận và Giáo xứ” có nội dung thật rõ.

Tương quan thế nào kể ra là được? Nói một cách hình ảnh, cũng như người làm nông, chỉ cần đến vụ, qua cơn mưa đầu mùa đất đủ độ ẩm cho hạt giống nẩy mầm là gieo hạt xuống, chờ mầm thành cây, chăm chỉ cần cù bón phân làm cỏ,… đến mùa thu hoạch là xong. Bây giờ có vẻ như không còn đơn giản, muốn làm đạt năng xuất, người nông dân phải biết về chính hạt giống trước khi gieo trồng. Cũng là lúa, nhưng giống lúa OM 4281 hay VND 95-20 có sức kháng sâu rầy mạnh, không chỉ cho năng xuất cao mà hạt gạo của các giống lúa này trắng và chất lượng hơn giống lúa IR 50404. Cũng vậy, khi nói đến tương quan giữa các Dòng tu, giữa Dòng tu với Giáo phận và Giáo xứ… trước hết ta nên tìm hiểu về chính lối sống ấy. Hơn nữa, để bao hàm hết các dạng thức tu trì trong Hội Thánh, ta bàn về đời sống thánh hiến thì gói trọn được tất cả.[1] Sau khi xác định vài tiêu điểm như thế, với đề tài này xin được chia sẻ qua những bước: 1/. Những nét căn bản của đời sống thánh hiến (Thánh hiến, Sứ vụ, Đặc sủng); 2/. Trong cánh đồng Hội Thánh có nhiều vườn hoa; 3/. Để hoa thơm khoe sắc (Tương quan giữa các Dòng, Tương quan với Giáo phận, Tương quan với Giáo xứ); 4/. Thử thách và hướng đi

Năm thánh hiến, Đức Thánh Cha Phanxicô mong ước những người con của Hội Thánh đang sống đời tận hiến là sống niềm vui, sống ngôn sứ, sống hiệp thông, ra khỏi nhà, lắng nghe tiếng Thánh Linh và các nhu cầu thời đại.[2] Với đề tài này, mong ước của Đức Giáo Hoàng nơi chúng ta được nâng lên một cung bậc mới. Vì trong tương quan, những giá trị trên không có cách đơn độc nơi mỗi Hội Dòng, mà là có cùng nhau và cùng giúp nhau để có. Nguyện xin Mẹ Hằng Cứu Giúp ban ơn để “lời hay ý đẹp” không nằm lì trên trang giấy mà thực sự đi vào đời sống làm thay đổi thế giới, nhờ Hội Thánh có đời thánh hiến thực sự như nó là.

I. NHỮNG ĐƯỜNG NÉT CĂN BẢN CỦA ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN

1. Thánh hiến

Giáo Hội là Dân Thiên Chúa, Dân thánh, vì thế mọi người đều được kêu mời và có bổn phận nên thánh. Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ theo Ngài là đặt Ngài làm quan trọng nhất hơn mọi giá trị khác: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xưng với Thầy. Ai yêu con trái con gái hơn Thầy thì không xứng với Thầy” (Mt 10,37). Điều Chúa Giêsu đòi hỏi là dành cho tất cả những ai theo Ngài, chứ không phải chỉ dành cho một nhóm ưu tuyển. Ngày xưa thường hiểu đời tu là bậc sống hoàn thiện hơn đời sống gia đình. Từ sau Công Đồng Vatican II, cách hiểu này không còn nữa. Tất cả mọi người được kêu mời yêu mến Chúa trọn vẹn, hết lòng, hết sức hết linh hồn. Tất cả mọi người đều có ơn gọi nên thánh một cách quyết liệt như nhau, không thể có cách yêu Chúa nữa vời hay nên thánh mạnh nhẹ khác nhau. Thánh Công Đồng viết: “Ðược Thiên Chúa kêu gọi và được công chính hóa trong Chúa Giêsu, không phải vì công lao riêng, nhưng vì ý định và ân phúc của Ngài, các môn đệ Chúa Kitô, nhờ lãnh nhận phép Thánh Tẩy, bí tích đức tin, đã thực sự trở nên con cái Thiên Chúa và được thông phần vào bản tính Ngài, và do đó, thực sự đã trở nên thánh. Cho nên với ơn Chúa họ phải luôn gìn giữ và hoàn thành trong đời sống sự thánh thiện mà họ đã lãnh nhận… Vì thế, mọi người đều thấy rõ ràng tất cả các Kitô hữu, bất cứ theo bậc sống hay địa vị nào, đều được kêu gọi tiến đến sự viên mãn của đời sống Kitô giáo và đến sự trọn lành của Ðức Ái”.[3]

Như thế, vấn đề đặt ra là việc yêu mến Chúa Giêsu, việc nên thánh giữa người sống ơn gọi Đời thánh hiến và người sống ơn gọi Gia đình khác nhau thế nào? Về tính chất và cường độ thì không khác nhưng khác nhau về cách thức. Người sống ơn gọi Gia đình yêu mến Chúa Giêsu, sống lời mời gọi nên thánh qua việc chu toàn bổn phận trong đời sống gia đình một cách trọn hảo. Anh A với chị B, anh yêu chị không chỉ là do sự rung cảm tự nhiên của con tim, sự mách bảo của lý trí cho biết chị là người vợ hiền dâu thảo, nhưng anh yêu chị, sống thuỷ chung, hy sinh vuông tròn bổn phận làm chồng, làm cha do anh yêu mến Chúa Giêsu, anh thực hiện lời mời gọi nên hoàn thiện của Chúa Giêsu trong đời sống gia đình. Có thể nói đây là cách anh yêu mến Chúa Giêsu gián tiếp. Người sống Đời thánh hiến thì yêu mến Chúa Giêsu, sống lời mời gọi nên thánh cách trực tiếp, được thể hiện qua việc tuân giữ các lời khuyên Tin Mừng.

Trong sắc lệnh “Canh tân thích nghi đời sống Dòng tu” số 5 nói đến việc sống “cho một mình Thiên Chúa”. Sắc lệnh viết: “Tu sĩ Hội Dòng nào cũng phải ghi tâm điều này: chính nhờ khấn giữ các lời khuyên Phúc Âm mà mình đã đáp ứng ơn thiên triệu, vì thế chẳng những phải chết đi cho tội lỗi (x. Rm 6,11), nhưng còn phải từ bỏ thế gian để sống cho một mình Thiên Chúa”. Thiên Chúa đòi người tu sĩ sống cho một mình Ngài không có nghĩa Ngài là Đấng nghen tương, thương nhân loại, đặc biệt những người tận hiến, bằng tình yêu “chiếm hữu”như tình yêu vợ chồng, tức là đối tượng mình thương mến thuộc riêng về mình. Mặc dù trong Kinh Thánh, Thiên Chúa có nói Ngài là vị thần nghen tương (x. Xh 20,5) hay dùng tình yêu vợ chồng để diễn tả tình yêu của Thiên Chúa đối với dân Người, nhưng phải hiểu ý nghĩa cách nói đó trong mạch văn và bối cảnh chứ không cho phép ta hiểu theo nghĩa đặc tính của hữu thể. “Sống cho một mình Thiên Chúa” là không có trung gian, là cách yêu mến Ngài trực tiếp, “diện đối diện”, không phải trong hiện hữu hay cảm nhận mà là trong lối sống được xác định qua ba lời khuyên Tin Mừng. Một lối sống như thế, được gọi là “ân huệ thần linh”[4] đáp trả lại tình yêu của Vị Thiên Chúa đã mặc khải mình qua miệng ngôn sứ Isaia (x. Is 7,14) và được ứng nghiệm trong thời Tân Ước: “Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (Mt 1,23).

Đối với tình yêu nhân loại dành cho Chúa, đời thánh hiến và đời sống gia đình không khác nhau ở mức độ hơn thua, nhưng khác nhau ở cách thức đáp trả chiếu theo sứ mạng mà ơn gọi Kitô hữu lãnh nhận. Nếu đời sống gia đình làm phát triển Hội Thánh thì đời sống thánh hiến là bằng chứng hùng hồn về sự hiện hữu của Chúa Giêsu, là chứng tá Nước trời trong hiện tại. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhận định: “Đời sống thánh hiến thật sự là một ký ức sống động về lối sống và hành động của Đức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể, trong tương quan với Cha và với anh em Người”.[5] Vì thế, ngài dạy rằng: “Trong thế giới của chúng ta, những dấu vết của Thiên Chúa dường như bị xóa nhòa, nên người ta cảm thấy nhu cầu khẩn trương của một chứng tá ngôn sứ thật mãnh liệt từ phía những người thánh hiến. Tiên vàn chứng tá đó công bố vị thế tối thượng của Thiên Chúa và của những điều thiện hảo sắp tới”.[6]

Trở về với Lời Chúa thì thấy trong thời gian rao giảng công khai, Chúa Giêsu có nhiều môn đệ. Trong số các ngài, có nhóm 12 được Chúa chọn để ở riêng với Chúa, được Chúa huấn luyện và được sai đi (x. Mc 3,13-14). Có thể nói, cũng một cách như thế, trong thời đại hôm nay, thời của Chúa Thánh Thần, Đấng làm cho ơn cứu độ của Chúa Giêsu trở thành viên mãn nơi mỗi con người, những người sống đời thánh hiến là những người được Chúa chọn để ở riêng với Chúa, được sai đi phục vụ Nước Chúa và nhất là qua việc tuân giữ các lời khuyên Tin Mừng trở thành chứng tá cho sự hiện diện của Nước Trời ngay từ bây giờ. Hiến chế Tín lý về Giáo Hội viết: “Bậc tu trì giải thoát người tu sĩ bớt những lo lắng trần tục, cùng tỏ lộ cách hoàn hảo hơn cho mọi tín hữu thấy của cải trên trời đã có ngay dưới trần gian này, và làm chứng rằng ơn cứu chuộc của Chúa Kitô đã đem lại một đời sống mới và vĩnh cửu, đồng thời tiên báo sự phục sinh tương lai và vinh quang của Nước Trời […] Bậc sống ấy đặc biệt cho ta thấy Nước Thiên Chúa vượt trên mọi sự trần thế và những đòi hỏi của Nước ấy cao cả biết bao”.[7] Do đó, chân phúc Giáo Hoàng Phaolô VI, trong Tông thư “Chứng tá Phúc âm” đã dạy: “Chính vì Nước Trời mà các con đã quảng đại hiến dâng cho Đức Kitô trọn tình yêu mãnh liệt và nhu cầu sở hữu cũng như quyền tự do quyết định đời sống, là những thứ rất quý hoá đối với con người”.[8] Và một khi sống như thế, người thánh hiến “làm cho Nước cánh chung của Thiên Chúa đến gần hơn với cuộc sống của hết mọi người, trong những điều kiện của trần thế; nó làm cho Nước ấy hiện diện giữa thế gian một cách nào đó”.[9]

Đời sống tu trì là “ân huệ thần linh mà Giáo Hội đã nhận lãnh bởi Chúa mình và luôn gìn giữ nhờ ơn Người”.[10] Cuộc sống này được thiết kế trên ba lời khuyên Tin Mừng, nó có tính pháp lý, nhưng “điều căn bản làm nên yếu tính đời tu, không phải là những ràng buộc có tính pháp lý, nhưng là tinh thần tin yêu cảm mến và tôn thờ làm cho một người từ bỏ những gì không thuộc về Chúa để hoàn toàn sống cho một mình Thiên Chúa”.[11] “Việc tận hiến không phải là kết quả của ba lời khuyên Phúc Âm, nhưng chính việc tận hiến đã đưa đến việc tuyên giữ ba lời khuyên”.[12] Vì thế, điều quan trọng đối với người tu là luôn ý thức việc đáp lại ơn huệ nhưng không của Thiên Chúa ban khi Ngài chọn gọi mình vào đời sống thánh hiến mà sẳn sàng tận hiến bản thân cho Chúa và vì Chúa. Sự thánh hiến được giải thích rất rõ trong văn kiện của Thánh Bộ Tu Sĩ có tựa đề là “Những yếu tố cốt yếu trong giáo huấn của Hội Thánh về đời tu”. Ở đây xin trích dẫn một vài tài liệu tiêu biểu cho thấy rõ sự thánh hiến trong đời sống tu là gì:

- “Sự tận hiến là nền tảng của đời tu […] Sự thánh hiến là một tác động của thiên Chúa. Thiên Chúa kêu gọi một người, đặt riêng người ấy ra để người ấy tận hiến cho Người một cách đặc biệt. Đồng thời ngài cũng ban ơn đáp trả, thành thử sự tận hiến diễn tả, về phía con người, sự đáp trả bằng một sự phó thác toàn thân sâu xa và tự nguyện”.[13]

- “Ðời sống tận hiến qua việc tuyên giữ các lời khuyên Phúc Âm là một lối sống bền vững, nhờ đó các tín hữu theo sát Ðức Kitô, dưới tác động của Thánh Linh, tự hiến hoàn toàn cho Thiên Chúa như Ðấng đáng mến yêu tột bậc”.[14]

- Thánh Giáo Hoàng Phaolô II đã nói rất mạnh rằng: “Trong đời sống thánh hiến, vấn đề không phải chỉ là theo Chúa Kitô với cả con tim, bằng cách yêu mến Người hơn cha mẹ mình, hơn con trai hay con gái mình” (x. Mt 10,37), như mỗi môn đệ đều phải làm, nhưng còn là sống và diễn tả điều đó bằng việc biến đổi nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, bằng một cuộc gắn bó triệt để […] người được thánh hiến không chỉ bằng lòng với việc đã chọn Đức Kitô làm ý nghĩa đời mình, nhưng còn tìm cách diễn lại nơi chính mình, trong mức độ có thể, “nếp sống Con Thiên Chúa đã sống khi Người xuống thế”.[15]

- Trong năm Thánh Hiến, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi những người tận hiến “hãy đi theo Đức Kitô như Tin Mừng đã dạy […] gắn bó toàn thân với Người, đến nỗi có thể nói như thánh Phaolô: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô” (Pl 1,21). Các lời khấn chỉ có ý nghĩa khi làm “thể hiện tình yêu say đắm ấy”.[16] Người tận hiến hãy tự hỏi: “Chúa Giêsu có còn là tình yêu thứ nhất và độc nhất” [17] đối với mình nữa không?

2. Sứ Vụ

Người thánh hiến chỉ sống cho một mình Thiên Chúa, dĩ nhiên, không có nghĩa là họ được đưa vào trong tình yêu nhiệm mầu sâu thẳm của Thiên Chúa, kết hiệp mật thiết với Ngài và như thế là hết. Không! Chúa gọi các môn đệ đến ở với Chúa để Ngài sai họ đi (x. Mc 3,13-14), tức là người môn đệ luôn có sứ mạng là lãnh nhận một sứ vụ trong số nhiều dạng thức khác nhau, nhưng đều qui về một mối là phục vụ và là chứng tá cho Nước Chúa Giêsu thiết lập đã có và đang đến. Không có thánh hiến mà không có sứ vụ. Thánh Giáo Hoàng Phaolô II đã viết: “Phải khẳng định rằng sứ mạng là thiết yếu cho mọi Tu Hội, không những cho những Tu Hội hoạt động tông đồ mà còn cho cả những Tu Hội chiêm niệm nữa. [...] Do đó, có thể nói rằng người tận hiến “được sai đi” do chính sự thánh hiến của mình, người ấy làm chứng cho sứ mạng theo lý tưởng của Tu Hội mình”.[18]

Ngoài loại sứ vụ như Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã viết và được trích dẫn ở trên, “chính đời thánh hiến đã trở thành một sứ vụ”, thì đời thánh hiến có nhiều loại sứ vụ khác nhau chẳng hạn như: tân phúc âm hoá, tái phúc âm hoá, truyền giáo, đối thoại đại kết, đối thoại liên tôn, mục vụ… nói chung, sứ vụ được hiểu như mọi hoạt động tông đồ trong Hội Thánh. Giữa thánh hiến và sứ vụ có một tương quan mật thiết thuộc về bản tính. Chân phúc Giáo Hoàng Phaolô VI dạy: “Các tu sĩ hiến thân làm việc tông đồ trong sứ mạng chính yếu nhất, tức là rao giảng lời Chúa cho những ai mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho việc dẫn đưa họ về với đức tin. Một ơn vĩ đại như thế đòi hỏi phải sống kết hợp mật thiết với Thiên Chúa để có thể truyền thông sứ điệp của Ngôi Lời nhập thể”.[19] Bộ Giáo luật 1983 nói về điểm này như sau: “Hoạt động tông đồ của các tu sĩ tiên vàn hệ tại việc chứng tá của đời tận hiến. Họ có bổn phận hun đúc đời sống chứng tá nhờ lời cầu nguyện và việc đền tội”.[20] Còn Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thì: “Trước khi được thể hiện bằng những công việc bề ngoài, sứ mạng cốt ở việc làm cho chính Đức Kitô hiện diện bằng chứng tá bản thân. Đó là thách đố, đó là mục đích đầu tiên của đời thánh hiến ! Càng để cho mình đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, người tận hiến càng làm cho Người hiện diện và hành động trong thế giới, để cứu độ nhân loại”.[21]

Bên cạnh tương quan theo nghĩa bản tính, còn có tương quan theo nghĩa hiệu năng. Nếu dùng hình ảnh để minh hoạ, có thể ví tương quan giữa thánh hiến và sứ vụ như tương quan giữa xăng và chiếc xe máy. Phải có xăng xe mới chạy được, nếu chỉ có sức người dẫn bộ, xe cũng lăn nhưng đến một lúc nào đó người ta phải đành bỏ, nhất là khi đường xa, trời nắng... Từ cái nhìn thực tiễn, Chân phúc Giáo Hoàng Phaolô VI dạy: “Chúng ta đừng quên điều này là mọi tổ chức của nhân loại đều có thể bị sói mòn, khiến quy luật trở nên khô khẳng và có nguy cơ chỉ còn lại hình thức. Sự chăm chú giữ luật bề ngoài tự nó không đủ để bảo đảm giá trị của cuộc sống ấy. Vì thế luôn luôn phải hồi sinh những hình thức bên ngoài bằng những cố gắng bên trong, nếu không có sự cố gắng này, những hình thức bên ngoài không bao lâu sẽ trở nên một gánh nặng”.[22]

Dù vậy, trong thực tế đời thánh hiến, sứ vụ thường được chú trọng trong khi chiều kích thánh hiến của đời tu hay bị lãng quên. Có thể đối với đời tu thánh hiến là đương nhiên nên ít được nghĩ tới, làm sao giữ đừng để lỗi các lời khấn là được. Điều đó cũng dễ hiểu, vì sứ vụ tự nó là mặt nổi, các tín hữu thường đánh giá người tu sĩ qua những việc họ làm. Bản thân người tận hiến, cộng đoàn và cả Hội Dòng cũng vậy, được đánh giá cao, khen ngợi, trân trọng, tín nhiệm qua những việc phục vụ. Mặt khác, tác động tiêu cực từ về phía xã hội trong thời đại thực dụng, chuộng kỹ thuật muốn thấy ích lợi trước mắt dễ làm người tu giảm nhẹ chiều kích thánh hiến trong cuộc sống của mình. Như Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô nhận xét: “Ngày nay có nhiều người thắc mắc tự hỏi: đời tận hiến có ý nghĩa gì? Tại sao lại chọn đời sống đó đang khi có biết bao nhu cầu cấp bách trong lãnh vực bác ái và cả trong việc loan báo Tin Mừng nữa, có thể đáp ứng được mà không cần phải chấp nhận những cam kết đặc biệt của đời thánh hiến? Đời thánh hiến lại chẳng phải là một cách “phung phí” những năng lực có thể sử dụng có hiệu năng cao hơn, có lợi hơn cho nhân loại và cho Giáo Hội đó sao?”.[23] Có lẽ trên quê hương Việt Nam, đời tu được quí trọng nên chưa ai đặt lại vấn đề như thế, nhưng trong thực tế, chỉ nghĩ đến công việc coi nhẹ thánh hiến không phải là hiếm gặp trong đời sống thánh hiến hiện nay. Phải chăng vì thế, ngày nay Hội Thánh có nhiều công trình nhưng lại thiếu những người tu sĩ được nể trọng về đức độ và nhân cách. Vì thế, trong khi nhiệt thành với sứ vụ người tu sĩ cần luôn tâm niệm điều này: “Điều quan trọng nhất không phải là điều tu sĩ làm, nhưng là điều tu sĩ là như những con người thánh hiến cho Thiên Chúa”.[24]

3. Đặc Sủng (Charisma)

Đặc sủng là thuật ngữ được thánh Phaolô dùng nhiều lần trong các thư của ngài. Tiêu biểu như đoạn thư 2Cr 12, 4-11: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thần khí tỏ ra nơi mỗi người mỗi cách,là vì ích chung. Người thì được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy, người thì được Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để trình bày. Kẻ thì được Thần Khí ban cho lòng tin; kẻ thì cũng được chính Thần Khí duy nhất ấy ban cho những đặc sủng để chữa bệnh. Người thì được ơn làm phép lạ, người thì được ơn nói tiên tri; kẻ thì được ơn phân định Thần Khí; kẻ khác thì được ơn nói các thứ tiếng lạ; kẻ khác nữa lại được ơn giải thích các tiếng lạ. Nhưng chính Thần Khí duy nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách, tuỳ theo ý của Người”.

Đặc sủng là những ơn riêng, ơn đặc biệt, không phải ai cũng có mà trái lại chỉ được ban cho một số người. Dĩ nhiên ơn Chúa ban không phải là phần thưởng để thụ nhân thủ đắc làm ích riêng cho mình, nhưng là để phục vụ cộng đoàn. Vì tính chất phục vụ lợi ích chung của Hội Thánh nên từ “charisma” (đặc sủng) còn được dịch là đoàn sủng.

Trong lịch sử Hội thánh, thuật ngữ này bị mai một, không còn được dùng trong suốt thời gian dài. Đến thời thánh Tôma Aquinô, ngài có nói tới nhưng dùng cụm từ “gratia gratis data” tức là “ơn được ban nhưng không”.[25] Đến Công Đồng Vatican II, từ charisma (đặc sủng) đã được dùng trở lại, nhưng không phải nói về đời tu, mà chỉ các ân huệ Chúa Thánh Thần ban cho Dân Chúa, được dịch là “đoàn sủng”.[26] Sau Công Đồng, từ “đặc sủng” được dùng rất phổ biến, nó vượt khỏi lãnh vực suy tư tiến sang lãnh địa tông đồ mục vụ như các “Phong trào canh tân đặc sủng”.

Đối với đời thánh hiến, từ “đặc sủng” được triển khai nhanh chóng nhằm chỉ chổ đứng của đời tu trong hội Thánh. Đời tu không phải việc của con người, hay là một tổ chức của Hội Thánh, không phải là bậc sống trung gian giữa giáo sĩ và giáo dân. Đời tu là ân huệ của Chúa Thánh Thần tặng ban cho Hội Thánh, “thuộc về đời sống và sự thánh thiện của Hội Thánh một cách bất khả phân ly”.[27] Vì thế, đời thánh hiến “là một thực tại liên hệ đến toàn thể Hội Thánh […] nằm ngay giữ lòng Hội Thánh như một yếu tố quyết định sứ mạng của Hội Thánh”.[28] Tính chất “đặc sủng” là ở đó, nên có một số nghị phụ cho rằng đời thánh hiến thuộc về “cơ chế đặc sủng”.[29] Bên cạnh đó, từ “đặc sủng” được sử dụng một cách rất tích cực và phổ biến để chỉ căn tính của mỗi Dòng, bao gồm các yếu tố: sứ mạng, linh đạo, một nếp sinh hoạt, gia sản tinh thần. Chính nhờ suy tư thần học về “đặc sủng” áp dụng vào đời thánh hiến đã làm toát lên sự năng động và sáng tạo của lối sống này, đồng thời cho thấy tính chất riêng biệt độc đáo của mỗi Hội Dòng trong Hội Thánh. “Các bậc sống càng được tôn trọng căn tính bao nhiêu thì sẽ càng hữu ích cho Giáo Hội và cho sứ mạng của Giáo Hội bấy nhiêu”.[30]

Khi nói về đặc sủng của đời tận hiến, cần phân biệt 3 loại đặc sủng khác nhau: đặc sủng đời tu nói chung, đặc sủng của Đấng Sáng Lập và đặc sủng của Hội Dòng. Đức Thánh Cha Phanxicô trong Tông thư của Năm Thánh Hiến đã viết: “Mỗi Dòng của chúng ta đều đến từ một lịch sử phong phú của đặc sủng. Khởi đầu là tác động của Thiên Chúa, Ðấng đã kêu gọi trong Thánh Linh một số người đi theo sát gót Ðức Kitô, để chuyển dịch Tin mừng ra một lối sống đặc thù, để đọc các dấu chỉ thời đại với cặp mắt đức tin, để đáp ứng với những nhu cầu của Giáo Hội một cách sáng tạo. Thế rồi kinh nghiệm khởi đầu được tăng tiến và phát triển, lôi cuốn những phần tử sống trong những khung cảnh mới của địa lý và văn hóa, tạo ra những thể thức mới để thể hiện đặc sủng, những sáng kiến và những lối diễn tả lòng bác ái tông đồ mới mẻ, cũng tựa như hạt giống trở thành một cây lớn với nhiều cành lá xum xê”. Ngài mời gọi “mỗi gia đình đặc sủng hãy nhớ lại buổi khởi đầu của mình và những chặng phát triển trải qua lịch sử, để tạ ơn Thiên Chúa […] Thuật lại lịch sử của mình là điều cần thiết để duy trì căn tính cũng như để siết chặt mối hợp nhất của gia đình và tăng thêm cho các phần tử ý thức mình thuộc về một nhà. Ðây không phải là chuyện khảo cổ hoặc luyến tiếc dĩ vãng, nhưng là đi lại con đường của các thế hệ quá khứ để nắm bắt được tia sáng gợi hứng, những lý tưởng, những dự phóng, những giá trị đã thúc đẩy họ, bắt đầu từ các vị sáng lập và các cộng đoàn tiên khởi. Ðó cũng là một cách để ý thức được cách thức mà tiền nhân đã sống đặc sủng, những bước đột phá, những khó khăn đã đương đầu và vượt qua. Ta cũng có thể nhận ra những sự bất nhất do tính yếu đuối của con người, thậm chí kể cả có lúc quên mất những khía cạnh cốt yếu của đặc sủng. Tất cả các khía cạnh ấy đều là những bài học, và đồng thời kêu gọi hoán cải”.

II. TRONG CÁNH ĐỒNG HỘI THÁNH CÓ NHIỀU VƯỜN HOA 

Đời sống tu trong Hội Thánh quả là phong phú, trải dài theo dòng lịch sử, qua các thời đại, lối sống ấy tựa như trăm hoa đua nở làm tươi trẻ Hội Thánh và đáp ứng những nhu cầu thời đại. Chắc chắn khó mà kể hết các Dòng tu trong Giáo Hội. Đời tu có nhiều hình thức như: các ẩn sĩ, đời đan tu cộng đoàn, các kinh sĩ sống chung, các Dòng hành khất, các tu đoàn tông đồ…

Trước Công Đồng Vatican II, cách riêng với bộ Giáo luật 1917, Dòng tu được phân biệt qua tính chất của lời khấn: Dòng có lời khấn trọng (ordo) thuộc các Dòng cổ và Dòng có lời khấn đơn (congregatio)thuộc những Dòng cận đại từ thế kỷ XVI. Về mặt pháp lý, các tu sĩ có lời khấn trọng kết hôn bất thành; các tu sĩ có lời khấn đơn, dù chưa được giải nhưng nếu kết hôn tuy bất hợp pháp nhưng vẫn thành sự.[31] Về lời khấn khó nghèo giữa lời khấn trọng và khấn đơn khác nhau rất rõ. Người có lời khấn trọng mất toàn bộ quyền đối với tài sản. Người có lời khấn đơn tuy mất quyền sử dụng và quản trị nhưng quyền thủ đắc và sở hữu vẫn còn, chỉ trừ khi Hiến Pháp Dòng qui định cách khác.[32] Ngoài ra còn có sự phân biết khác là trong các lễ hội, các cuộc rước tu sĩ dong khấn đơn phải nhường bước cho các tu sĩ khấn trọng.[33] Trong trường hợp chỉ có các Dòng đơn thì các Dòng đơn thuộc Giáo Hoàng sẽ được quyền ưu tiên so với các Dòng thuộc Giáo phận.[34]

Bộ Giáo luật 1983, dùng cụm từ “Các Tu Hội đời sống thánh hiến và các hội đời sống tông đồ” để chỉ về đời sống của những người tận hiến cho Chúa. Bộ Giáo luật phân định như sau:

1.1. Các Tu Hội Dòng

Thành viên của Tu Hội Dòng là các tu sĩ có lời khấn Dòng, có đời sống chung và xa lánh thế gian.

Các tu sĩ “thánh hiến toàn thể con người”, cuộc sống trở thành “việc thờ phượng liên tục trong đức ái”; tuyên giữ lời khấn công khai, sống chung huynh đệ, xa cách thế gian.[35] Các Tu Hội Dòng gồm có hai ngành: chiêm niệm và hoạt động.

Về việc tông đồ của các tu sĩ điểm chung là “trước hết hệ tại đời sống chứng tá của họ, và buộc họ phải bồi dưỡng chứng tá ấy bằng cầu nguyện và khổ hạnh”.[36]

Đối với các Tu Hội Dòng chiêm niệm “luôn có một chỗ đứng nổi bật trong Nhiệm thể Đức Kitô: vì họ dâng lên Thiên Chúa lễ tế ngợi khen cao cả làm vẻ vang Dân Thiên Chúa bằng rất nhiều hoa trái thánh thiện, khích lệ Dân Thiên Chúa bằng gương sáng và làm tăng trưởng Dân ấy bằng việc tông đồ âm thầm mà phong phú. Bởi thế, tuy việc tông đồ bằng hoạt động là cần, nhưng không thể kêu gọi các thành viên của các Tu Hội ấy cộng tác vào các loại thừa tác mục vụ khác nhau”.[37]

Đối với các Tu Hội chuyên về tông đồ: “Hoạt động tông đồ thuộc chính bản tính của các Tu Hội. Do đó, toàn thể đời sống của các thành viên phải được thấm nhuần tinh thần tông đồ, nhưng tinh thần tu trì phải là hồn của toàn thể hoạt động tông đồ”.[38] Hoạt động tông đồ phải kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa và luôn củng cố bồi dưỡng sự kết hiệp này;[39] đồng thời nhân danh và thừa lệnh Giáo Hội, phải được thực thi trong sự hiệp thông với Giáo Hội.[40]

1.2 “Đời sống ẩn tu hay độc tu” và “Trinh nữ tận hiến”

Bên cạch Các Tu Hội Dòng, bộ Giáo luật còn nói đến “Đời sống ẩn tu hay độc tu” và “Trinh nữ tận hiến”. Hai hình thức thánh hiến này đã có từ xa xưa được Giáo luật khôi phục lại, và được ghi rõ trong phần “Quy tắc chung cho tất cả Tu Hội Đời sống thánh hiến”. Theo đó, các ẩn sĩ là những Kitô hữu “lấy sự xa cách thế gian, sống trong thinh lặng, chăm chỉ cầu nguyện để tận hiến đời mình vào việc ngợi khen Thiên Chúa và mưu phần rỗi cho thế giới”.[41] Còn các Trinh nữ tận hiến là những người “tuyên thệ quyết tâm lành thánh bước theo Đức Kitô sát hơn[...] Họ kết hôn huyền nhiệm với Đức Kitô Con Thiên Chúa và chăm lo phục vụ Giáo Hội”. Các trinh nữ có thể liên kết với nhau.[42] Dĩ nhiên cả hai lối sống tu này đều được đặt trong tay Giám mục Giáo phận theo Giáo luật.

1.3. Các Tu Hội Đời, cũng là “Tu Hội Đời sống thánh hiến”

Nhưng khác với Tu Hội Dòng, Tu Hội Đời không có lời khấn, nhưng có những cam kết sống ba lời khuyên Tin Mừng, không có đời sống chung và sống giữa đời là điểm nổi bật của bậc sống này.

Giáo luật định nghĩa: “Tu Hội Đời là Tu Hội đời sống thánh hiến, trong đó những tín hữu sống giữa đời cố gắng đạt tới đức ái hoàn hảo và ra sức góp phần thánh hoá thế giới từ bên trong”.[43] Các Tu Hội Đời “phải sống trong điều kiện thông thường của trần thế, hoặc một mình, hoặc mỗi người trong gia đình của mình, hoặc trong nhóm đời sống huynh đệ theo Hiến pháp”.[44] Họ không có lời khấn, nhưng có những cam kết bằng những mối dây ràng buộc thiêng liêng tạm thời hay vĩnh viễn.[45]

1.4 Hội đời sống tông đồ (hay các Tu đoàn tông đồ)

Các thành viên trong Hội đời sống tông đồ không có lời khấn, nhưng có đời sống chung.

Giáo luật số 731 khoản 1 viết: “Bên cạnh các Tu Hội Đời sống thánh hiến có các Hội đời sống tông đồ; thành viên của các Hội nầy không có lời khấn Dòng, theo đuổi mục đích tông đồ riêng của Hội và sống đời huynh đệ với nhau, theo nếp sống riêng, họ cố gắng đạt tới đức ái hoàn hảo nhờ tuân giữ Hiến pháp”. Giáo luật xác định: “Những gì đã được ấn định trong các điều 578 – 579 và 606 được áp dụng cho các Hội đời sống tông đồ”.[46] Điều này cho thấy có sự tương đồng giữa “Tu Hội Đời sống thánh hiến” và “Hội đời sống tông đồ”.

Như vậy, từ sau Công Đồng Vatican II, với bộ Giáo luật 1983, cách trình bày về đời tu trong Hội Thánh Công Giáo, trước khi rõ ràng về mặt pháp lý, đã cho thấy chiều kích bản chất hay yếu tính của đời tu, làm toát lên vẻ đẹp và vô cùng phong phú của đời dâng hiến, hơn là tính chất “trọng – yếu” đậm màu “giai cấp” như cách qui định trước đây.

1.5 Một khác biệt nhỏ

Cũng cần nói thêm một nét khác biệt nhỏ giữa các Tu Hội đời sống thánh hiến, đó là Tu Hội Giáo Hoàng và Tu Hội Giáo phận. Nếu Tu Hội do Tông Tòa thiết lập, hoặc ban sắc lệnh rõ ràng chuẩn y thì gọi là “Tu Hội thuộc quyền Giáo Hoàng” hay Tu Hội đặc miễn. Nếu Tu Hội do Giám mục Giáo phận thiết lập mà không có sắc lệnh chuẩn y của Tông Tòa thì gọi là Tu Hội Giáo phận.[47] Tuy nhiên, điều lưu ý là tất cả các thành viên trong các Tu Hội phải phục tùng quyền tối thượng của Giáo Hội; phải tuân phục Đức Giáo Hoàng như là Bề trên tối thượng của mình.[48]

Các Tu Hội đặc miễn được đặt dưới quyền tối thượng của Đức Giáo Hoàng, họ được miễn khỏi quyền lãnh đạo của Giám mục Giáo phận.[49] Nhưng điều cần lưu ý là trong Hiến chế Công Đồng Vatican II ghi rõ: “Khi chu toàn phận vụ đối với Giáo Hội qua cách sống đặc biệt của mình, các tu sĩ phải kính trọng và vâng lời các Giám mục theo giáo luật vì phải tôn trọng quyền mụcvụ của các ngài trong Giáo Hội địa phương và vì cần phải có sự đồng tâm nhất trí trong việc tông đồ”.[50]

III. ĐỂ HOA THƠM KHOE SẮC

1. Tương quan giữa các Dòng

1.1 Một chút suy tư và đôi nét tổng hợp giáo huấn của Hội Thánh

Đời sống Thánh hiến là đặc ân Chúa Thánh Thần ban cho Giáo Hội. Mỗi Tu Hội được thành lập theo một đặc sủng riêng, dù khác biệt nhưng hợp thành một toàn bộ gắn kết với nhau trong công trình duy nhất của chính Ngài, là làm cho ơn cứu độ Chúa Giêsu đã thực hiện thấm nhuần thế giới tiến tới vị lai trong trời mới đất mới. Vì tự bản chất, các đặc sủng tuy khác nhau nhưng không thể tách rời vì có cùng m

Các tin khác

VIDEO

  Bài 2: HIỆP HÀNH: Hiệp Thông - Tham Gia - Sứ Vụ | Thường huấn linh mục GP Ban Mê Thuột 2023

  Bài 1: Tầm Nhìn Hoàn Vũ | Thường huấn linh mục GP Ban Mê Thuột 2023

  ĐỨC TIN | Tròn Đầy & Trong Sáng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh

  Mục Vụ Văn Hóa: DANH - LỢI - NGHĨA | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh

  Cử Hành Phụng Vụ | Gặp Gỡ Chúa Kitô - Loan Báo Tin Mừng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn văn Hinh

  Thần Học Mục Vụ & Công đồng Vatican II: Con người - Giáo hội - Môi trường

  Hiệp Hành Hội Ý Dựng lại Mùa Xuân | Người Giáo dân Thiên niên kỷ mới

  Bài 4: Văn Hóa Tổ Chức - Đời Sống Cá Nhân

  Hiệp Hành Kín Đáo và Minh Bạch

  Văn Hóa Tổ Chức - Tổ Chức Cộng Đồng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh (Phần 3)

  Tìm hiểu về văn hóa (Phần 2) - Lm Gioan Kim Nguyễn Văn Hinh

  Tìm hiểu về văn hóa (Phần 1) - Lm Gioan Kim Nguyễn Văn Hinh

  TRỰC TUYẾN BÀI 29: MỤC VỤ THÁNH THIỆN THUẬN THEO

  TRỰC TUYẾN BÀI 28 : MỤC VỤ TÍCH HỢP VĂN HÓA ĐÔNG TÂY

  TRỰC TUYẾN BÀI 27 : MỤC VỤ LỜI CHÚA NGÀY NAY

  TRỰC TUYẾN BÀI : TÌM HIỂU VỀ VĂN HÓA VÀ BẢN SẮC VĂN HÓA VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 26: MỤC VỤ ĐẠO ĐỨC KINH TẾ DỊCH VỤ

  TRỰC TUYẾN BÀI 25: MỤC VỤ TUẦN THÁNH UY VÀ ĐỨC

  TRỰC TUYẾN BÀI 24: MỤC VỤ GIA TÀI CỦA MẸ

  TRỰC TUYẾN BÀI 23: MỤC VỤ BỔ VÀ TẢ

  mvgd20162016

  TRỰC TUYẾN BÀI 21: MỤC VỤ LUẬT CÂN BẰNG

  TRỰC TUYẾN BÀI 20: TRUY TÌM MÃNH LỰC

  TRỰC TUYẾN BÀI 19: THẾ GIỚI HÔM NAY CẦN NHỮNG NGƯỜI CHA NHÂN HẬU LÝ TƯỞNG VÀ THỰC TIỄN

  TRỰC TUYẾN BÀI 18: NĂM THÁNH THÁNH CẢ GIUSE LÃNH ĐẠO VÀ NIỀM TIN

  TRỰC TUYẾN BÀI 17: MỪNG XUÂN TÂN SỬU 2021 - LÒNG BIẾT ƠN TIN VUI ĐẠO ĐỨC VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 17: MỪNG XUÂN TÂN SỬU 2021 - LÒNG BIẾT ƠN TIN VUI ĐẠO ĐỨC VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 16: ĐỀ TÀI ĐIỂM TỰA

  TRỰC TUYẾN BÀI 14: VĂN HÓA KHÔNG NHẬN SAI NHƯNG SỬA SAI

  TRỰC TUYẾN BÀI 13: VUN TRỒNG NỀN VĂN HÓA “TÂM LINH – KHOA HỌC”

  TRỰC TUYẾN BÀI 12: NĂM MỚI 2021 XÂY DỰNG NỀN VĂN MINH TÂM LINH & KHOA HỌC

  TRỰC TUYẾN BÀI 11: GIÁNG SINH 2020 - LÀM NGƯỜi - GIÊSU

  TRỰC TUYẾN BÀI 10: PHÍA ĐẰNG SAU TÂM LINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 9: ĐỂ CÓ CHÚA THÁNH THẦN

  TRỰC TUYẾN BÀI 8: LOAN BÁO TIN MỪNG

  TRỰC TUYẾN BÀI 7: PHÒNG ĐÀO LUYỆN TÂM LINH CỦA TÍN HỮU DÂN CHÚA

  TRỰC TUYẾN BÀI 6: ĐÀO LUYỆN TÍN HỮU DÂN CHÚA

  TRỰC TUYẾN BÀI 5: TẦM NHÌN THIÊN NIÊN KỶ MỚI

  TRỰC TUYẾN BÀI 4: ĐÀO LUYỆN TÂM LINH BẮT ĐẦU TỪ THÁNH THỂ HAY THÁNH KINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 3: PHƯƠNG THỨC CẦU NGUYỆN CẢM NGHIỆM- SỐNG THÁNH GIỮA ĐỜI

  TRỰC TUYẾN: BÀI 2: GIẢI THÍCH ĐÀO LUYỆN TÂM LINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 1: ĐÀO LUYỆN TÂM LINH

  TintucVatican

  Thánh Lễ Tuyên Thánh Jacinta và Francisco Marto

  Muối và ánh sáng

  Thế Giới Nhìn Từ Vatican

  Nghi thức đóng Cửa Thánh

  Xin Mẹ Thương

  Thế Giới Nhìn Từ Vatican

  Suy Niệm với Đức Thánh Cha Phanxicô

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__3

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__1

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__2

  Thường huấn HĐMVGX Ban Mê Thuật

  Quốc tế thiếu nhi 01-6-2014

  Thể dục Dưỡng Sinh

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  CƠM TRƯA TRUNG THU 2013

  Thi đấu thăng cấp sơ đẳng Vovinam

  Khai mạc kỳ thi thăng cấp Vovinam

  Vovinam

  Đào luyện tâm linh

  Nghệ thuật cân bằng

  Đào Luyện Tinh Thần

  Đào Luyện Thể Chất

Bài viết mới
BÀI GIẢNG ĐỨC THÁNH CHA - CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN NĂM B
BÀI GIẢNG ĐỨC THÁNH CHA - CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN NĂM B.
ỦY BAN GIÁO DÂN - THƯỜNG HUẤN THÁNG 07/2024: TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN - MUỐI VÀ ÁNH SÁNG CHO THẾ GIỚI avatar Ủy ban Giáo dân 01/07/2024 Giáo hội là Dân Thiên Chúa, nơi mỗi người tín hữu, dù là giáo sĩ hay giáo dân, đều đóng góp vai trò không thể thiếu trong sứ mạng loan báo Tin Mừng. Chủ đề “Tông đồ giáo dân: Muối và ánh sáng cho thế giới” tập trung vào việc khai triển và cổ võ vai trò của giáo dân trong việc trở thành muối ướp mặn đời và ánh sáng soi sáng trần gian. Ủy ban Giáo dân Hội đồng Giám mục Việt Nam THƯỜNG HUẤN THÁNG 07/2024: TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN: MUỐI VÀ ÁNH SÁNG CHO THẾ GIỚI BÀI 1: HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN DỰA TRÊN LỜI CHÚA - Phanxicô Xaviê Nguyễn Thái BÀI 2: SỐNG TIN MỪNG TRONG ĐỜI THƯỜNG – Lm. Antôn Hà Văn Minh BÀI 3: BIẾN ĐỔI THẾ GIỚI TỪ BÊN TRONG - Lm. Tôma Vũ Ngọc Tín, S.J. BÀI 4: LÒNG CAN ĐẢM VÀ SỰ KHÔN NGOAN KHI DẤN THÂN VÀO ĐỜI SỐNG TRẦN THẾ - Lm. Tôma Vũ Ngọc Tín, S.J. BÀI 1: HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN DỰA TRÊN LỜI CHÚA - Phanxicô Xaviê Nguyễn Thái “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. “Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá. Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành” (Mt 7, 21.24 – 27). Đọc đoạn Tin Mừng trên cho chúng ta thấy: sống Tin Mừng trong đời thường là một hành trình đức tin mà qua đó, người Kitô hữu áp dụng lời dạy của Chúa Giêsu vào cuộc sống hàng ngày. Yêu Chúa không chỉ là tham dự các thánh lễ, các giờ kinh, mà phải thi hành ý muốn của Chúa Cha qua việc lãnh nhận các bí tích thường xuyên và qua cách chúng ta tương tác với mọi người xung quanh, cách chúng ta hành xử với thử thách và cách thực hiện các quyết định. Dưới đây là một số suy tư của giáo dân và một số cách để sống Tin Mừng trong đời thường: 1. Suy niệm và cầu nguyện với Lời Chúa: chúng ta không thể kết hiệp mật thiết với Chúa mà không cầu nguyện với Ngài. Việc dành thời gian mỗi ngày để suy niệm và cầu nguyện với Lời Chúa giúp nuôi dưỡng tâm hồn chúng ta ngày càng trở nên thánh thiện hơn, yêu Chúa nhiều hơn và được Chúa hướng dẫn hành động. 2. Yêu thương tha nhân là yếu tố quan trọng khi ta sống theo Tin Mừng. Yêu thương mọi người xung quanh mình, cho dù họ là ai, tôn giáo nào, giàu hay nghèo. “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” ( Ga 15, 12 ). Điều này áp dụng qua việc giúp đỡ những người nghèo khó, an ủi những người đang gặp khó khăn, và chia sẻ cho cộng đồng đang cần đến tình thương của mình. 3. Hiền lành và khiêm nhường: là ứng xử một cách nhẹ nhàng, không gây ra xung đột, luôn lắng nghe và tôn trọng ý kiến của người khác, và tìm cách giải quyết mọi vấn đề một cách dịu dàng và an bình. Tuy nhiên, hiền lành và khiêm nhường không đồng nghĩa với sự yếu đuối, mà chính là một cách để thể hiện sự mạnh mẽ và tự tin của bản thân thông qua sự kiểm soát cảm xúc và nhận thức. 4. Sống công bằng và bác ái: cố gắng sống công bằng với mọi người, không phân biệt đối xử, không chỉ dựa trên sự thỏa thuận mà dựa trên giá trị cốt lõi là phẩm giá con người, và thực hiện các hành động bác ái, như viếng thăm người đau yếu, quyên góp cho từ thiện, chia sẻ Chúa cho anh em, tham gia phục vụ cộng đồng dân Chúa cũng như cộng đồng xã hội. 5. Kiên nhẫn tha thứ: sống theo Tin Mừng đòi hỏi lòng kiên nhẫn và sẵn lòng tha thứ, dù trong những hoàn cảnh khó khăn nhất. Tha thứ đến cùng, tha thứ không giới hạn cho những lỗi lầm của người khác. Lý do chính mà chúng ta làm là vì Chúa đã tha thứ cho mỗi người chúng ta. 6. Chia sẻ niềm vui: sống vui tươi, dịu dàng với mọi người qua lối sống khó nghèo, tìm kiếm sự hài lòng, phấn khởi trong những điều giản dị và ý nghĩa của cuộc sống. 7. Sống Tin Mừng trong đời thường là chúng ta làm chứng về một Đức Giêsu con Thiên Chúa đã xuống trần gian, chịu chết và sống lại cho chúng ta được sống và được sống lại. Chứng nhân không chỉ trong một giai đoạn của cuộc sống nhưng là một đời Kitô hữu được kết hiệp với Chúa, bằng nguồn sống của Chúa. Qua hành động và lời nói hàng ngày, qua cách sống và tương tác với tha nhân làm sao bày tỏ được tình yêu và lòng thương xót của Chúa. Những suy tư Sống Tin Mừng trong đời thường không chỉ là làm một số việc đạo mà là cách sống thánh thiện và yêu thương mọi người xung quanh. Mỗi người cần gìn giữ và phát triển niềm tin của mình để sống đúng lý tưởng và hạnh phúc theo tinh thần của Tin Mừng. Sống Tin Mừng trong đời thường không phải lúc nào cũng dễ dàng, mỗi người giáo dân có cách sống Tin Mừng trong cuộc sống của họ một cách khác nhau. Nhiều giáo dân chưa mở lòng nên không nhận được ơn Chúa. Họ sống khép kín, không tham gia vào giáo xứ hoặc nếu có cũng chỉ là hình thức. Có những người không biết về Tin Mừng hoặc có biết qua loa thì cũng chưa áp dụng Tin Mừng vào cuộc sống, có khi còn không dám cho người khác biết mình là người Công Giáo, không dám sống đức tin của mình. Những người giáo dân khác sống theo lời dạy của Chúa Giêsu và thực hành lòng nhân từ, yêu thương và tha thứ. Trong khi một số khác có thể gặp khó khăn trong việc áp dụng những giá trị đạo đức từ Tin Mừng vào cuộc sống hàng ngày. Tuy nhiên, quan trọng nhất là họ luôn cố gắng học hỏi và phát triển trong đức tin của mình để trở thành những người sống theo Tin Mừng mẫu mực. Được như thế là giáo dân cũng đang tham gia vào đời sống của Giáo Hội, dần dần góp phần xây dựng một Giáo Hội hiệp hành và một thế giới tốt đẹp hơn. Hồi Tâm 1/ Làm cách nào giúp mọi người Công Giáo, hay ít nhất là những người đi lễ mỗi tuần có thể học, suy niệm và cầu nguyện với Tin Mừng? Nếu đang làm việc trong Hội đồng mục vụ giáo xứ hay trong các Hội đoàn Công giáo tiến hành, bạn sẽ làm gì? 2/ Chứng nhân Tin Mừng trong đời thường là phương cách hữu hiệu giúp người khác dễ dàng sống theo gương, bạn có thể chia sẻ chứng nhân trong những buổi họp, hay những lúc riêng tư cho những người chung quanh không? 3/ Trong đời thường, bạn làm gì để bày tỏ lòng yêu mến Chúa qua tha nhân? BÀI 2: SỐNG TIN MỪNG TRONG ĐỜI THƯỜNG – Lm. Antôn Hà Văn Minh Qua Bí tích Rửa tội, người tín hữu được dự phần vào sứ vụ của Chúa Giêsu. Sứ vụ đó chính làm cho mọi người nhận biết ơn cứu độ của Thiên Chúa Cha tỏ bày cho nhân loại qua Đức Giêsu Kitô. Thi hành sứ vụ chính là sống Tin Mừng giữa lòng thế giới, cụ thể trong cuộc sống thường ngày của mỗi tín hữu. Công Đồng nói về cảnh sống trần thế của giáo dân bằng cách trình bày cảnh sống ấy, trước tiên, như là môi trường trong đó họ được Thiên Chúa mời gọi: “Đó là nơi Thiên Chúa gọi họ” (LG số 31). Và thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã giải nghĩa: “nơi” được trình bày bằng những hạn từ có tính cách năng động: giáo dân sống giữa trần gian, nghĩa là dấn thân vào tất cả cũng như từng công việc và bổn phận của trần thế, giữa những cảnh sống thường ngày trong gia đình và ngoài xã hội, tất cả những điều đó như dệt thành cuộc sống của họ. Đó là những con người có một đời sống bình thường trong trần gian, học hỏi, làm việc, thiết lập những tương quan bạn bè, xã hội, nghề nghiệp, văn hóa”[1]. Sống Tin Mừng là gì? Trích dẫn Lời Chúa: “Chính anh em là muối cho đời… là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,13–14), Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã trình bày: “Lời mời gọi của Chúa Giêsu chính là sứ mạng của người tín hữu sống trong thế giới này. Người Kitô hữu không coi thế gian là địa ngục, là nơi giam cầm của những nỗi thống khổ, cũng như không coi thế gian là hạnh phúc vĩnh cửu cho cuộc đời mình, nhưng là nơi để Thiên Chúa tỏ lộ tình yêu của Ngài qua sự cộng tác của con người, và là nơi để con người được thực thi ơn gọi và sứ mạng Kitô hữu của mình trong một tình yêu dấn thân và thánh hóa thế giới: Tham dự vào lãnh vực trần thế, là phận vụ phát xuất từ bản tính nội tại và sứ mạng của mình”[2]. Vì thế, sống Tin Mừng chính là huấn luyện bản thân nhuần thấm Tin Mừng để có thể thực thi ơn gọi của mình cách trọn hảo. Thiên Chúa muốn người tín hữu trở thành muối, thành ánh sáng cho thế giới bằng chính đời sống Tin Mừng của mình, hay nói cách khác người tín hữu dấn thân phục vụ để trần gian nhận biết tình yêu của Ngài dành cho nhân loại, một tình yêu trọng đại đã được thánh Gioan diễn tả: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời” (Ga 3, 16). Nhưng để có thể sống Tin Mừng, dấn thân phục vụ cho Tin Mừng, đòi hỏi người tín hữu phải là người thấm đẫm Tin Mừng. Chỉ là men Tin Mừng khi người hữu phải đầy “chất” Tin Mừng. Vì thế, sống Tin Mừng trước tiên phải kết hợp mật thiết với Đức Kitô, vì Ngài chính là Tin Mừng. Vì thế, cuộc gặp gỡ với Tin Mừng là nền tảng cho việc sống Tin Mừng. Điều đó được thực hiện trước tiên chính là cuộc gặp gỡ Lời qua Kinh Thánh. Công đồng Vatican II trong hiến chế Mạc khải đã minh định: Chúa Cha muốn gặp gỡ con cái mình và ngỏ lời với họ qua Sách Thánh. Như vậy, tiếp cận với Lời Chúa, đọc Thánh Kinh là đi vào một cuộc gặp gỡ, tham gia một cuộc đối thoại với Thiên Chúa[3]. Quả thật việc đọc Thánh Kinh là cách thế tuyệt hảo để có được cuộc đối thoại với Thiên Chúa, vì “chúng ta ngỏ lời với Ngài khi cầu nguyện, và chúng ta nghe Ngài nói lúc chúng ta đọc các sấm ngôn thần linh”[4]. Trong Tông Thư “Khởi Đầu Ngàn Thứ Ba”, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II viết: “Lời Chúa phải trở nên một sự gặp gỡ ban sự sống, theo truyền thống xa xưa và luôn vững chắc về việc đọc Sách Thánh, cho phép rút ra từ bản văn Thánh Kinh Lời Hằng Sống, là lời chất vấn, hướng dẫn và hình thành cuộc sống chúng ta” (số 39)[5]. Người tín hữu chỉ có thể là men Tin Mừng, khi đời sống được đặt trên nền tảng Lời Chúa, không thường xuyên cầu nguyện với Lời Chúa không thể nào hoán cải cuộc đời để có thể làm cho đời mình trở thành men Tin Mừng. Dựa vào hoạt động của Giáo Hội tiên khởi được tường thuật trong sách Tông đồ công vụ, Đức Thánh cha Phanxicô nói: “Chúng ta khám phá động cơ mạnh mẽ của việc loan báo Tin Mừng chính là những buổi quy tụ cầu nguyện, nơi những người tham gia cảm nghiệm cách sống động sự hiện diện của Chúa Giêsu và được Chúa Thánh Thần đánh động. ...Lời cầu nguyện truyền lan ánh sáng và sự hăng hái: ân sủng của Chúa Thánh Thần làm nảy sinh trong lòng họ sự nhiệt thành”[6]. Dĩ nhiên việc tiếp cận Lời Chúa phải gắn chặt với Thánh Thể. Đức Thánh cha Phanxicô đã nói mạnh mẽ: Chỉ trong sự tôn sùng Thánh Thể, chỉ trước mặt Chúa, hương vị và sự say mê truyền giáo mới có thể được phục hồi. Lòng tôn sùng Thánh Thể là động lực giúp cho chúng ta vượt thắng những phong ba bão táp của cuộc đời, đặc biệt đó là nguồn khích lệ cho những người hết lòng chia sẻ Tin Mừng, chính vì trong Bí tích Thánh Thể, “chúng ta gặp gỡ Đấng đã ban mọi sự cho chúng ta” và đến lượt mình, chúng ta trở nên có khả năng chia sẻ tình yêu đó với người khác[7]. Để có thể sống Tin Mừng hầu trở thành men của Tin Mừng, chúng ta cần phải liên kết chặt chẽ với Chúa Kitô qua Lời Chúa, Thánh Thể và cầu nguyện và sống tình huynh đê. Bốn yếu tố: Lời Chúa, tìm kiếm tình hiệp thông huynh đệ, Thánh Thể và cầu nguyện, theo Đức Thánh Cha Phanxicô, chính là tiêu chuẩn để phân định một sự việc. Bất cứ trường hợp nào thiếu những yếu tố này điều thiếu tính Giáo hội, không phải của Giáo hội, yếu tố quan trọng để chứng thực chúng ta thực sự là Men của Tin Mừng.[8] Sống Tin Mừng giữa đời thường Nhìn vào thực tế, trăn trở lớn của Giáo Hội Việt Nam là vấn đề Loan Báo Tin Mừng. Thật vậy, con số tín hữu Việt Nam đến nhà thờ dâng lễ mỗi Chúa Nhật có thể nói cho đến lúc này vẫn đáng tự hào, thế nhưng niềm tự hào này có thực sự là niềm vui đích thực không? Bởi nhìn vào cánh đồng truyền giáo mỗi địa phương vẫn còn ngổn ngang, vẫn còn có qua nhiều người chưa được tiếp cận với Tin Mừng, vẫn còn đó nhưng lương dân là hàng xóm của các gia đình Công giáo, nhưng họ chẳng nghe nói về Chúa Giêsu, không một lần tiếp cận được với Tin Mừng. Câu trả lời được tìm thầy nơi lối sống của người tín hữu Công giáo. Là men Tin Mừng, nhưng họ lại không thể hiện lối sống Tin Mừng ngay trong môi trường mình sinh sống. Họ tách rời đức tin và cuộc sống thường ngày, họ đóng khung lối sống Tin Mừng trong nhà thờ, họ không làm cho men Tin Mừng được dậy lên trong người môi trường mình sống. Cha mẹ vẫn đi dâng lễ ngày Chúa nhật, nhưng chưa một lần hướng dẫn con cái về đời sống đức tin. Người tín hữu vẫn thường xuyên gặp gỡ bạn bè là lương dân, nhưng chưa một lần họ nghe về Chúa Giêsu, nhiều khi còn tệ hơn, để làm vui lòng bạn bè lương dân, người Công Giáo sẵn sàng bỏ đi lễ Chúa nhật; ngoài phố chợ, những chủ cửa hàng Công Giáo vẫn ngần ngại thể hiện lối sống Tin Mừng để giữ đức công bình và đức yêu thương... Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhấn mạnh: “Người tín hữu không được mời gọi rời bỏ vị thế họ đang sống nơi trần gian. Thực vậy, Bí tích Thánh Tẩy không kéo họ ra khỏi trần gian, như thánh Phaolô đã nhấn mạnh: ‘Thưa anh em, khi được kêu gọi ở địa vị nào, mỗi người cứ ở địa vị đó trước mặt Thiên Chúa’ (1 Cr 7,24); trái lại, Ngài trao cho họ một ơn gọi có liên hệ đích thực với tình huống của họ trong trần gian: thực vậy, giáo dân được ‘Thiên Chúa kêu gọi để, dưới sự hướng dẫn của tinh thần phúc âm, như men từ bên trong, họ thánh hóa thế giới bằng việc thi hành những nhiệm vụ của mình; và như thế, với lòng tin cậy mến sáng ngời, nhất là với chứng tá đời sống, họ tỏ lộ Chúa Kitô cho kẻ khác’ (Tông huấn Người Tín hữu Giáo dân, số 15) Cha Mến kể câu chuyện: Chứng nhân trong đời thường như sau: Nhà giáo dục vĩ đại Booker T. Washington có viết như sau trong cuốn tự thuật mang tựa đề: “Từ ách nô lệ đi lên” của ông: “Càng lớn tôi càng tin chắc rằng, không một sự giáo dục nào có thể gặt hái được từ sách vở, hay từ những dụng cụ đắt tiền, mà có thể sánh ví được với những gì ta có thể gặt hái được, do tiếp xúc với các bậc vĩ nhân”. Cách đây ít lâu, một phụ nữ Ấn độ giáo đã trở lại Công giáo, sau một thời gian nghe rao giảng Lời Chúa. Bà chịu nhiều gièm pha, đay nghiến từ người chồng và bao người thân, do việc bà trở lại đạo. Có lần cha xứ hỏi bà: “Khi chồng con nổi giận và hành hạ con, thì con làm gì”? Bà đáp: “Thưa Cha, con cố gắng nấu ăn ngon hơn. Khi ông than trách, con lau chùi nhà sạch hơn. Khi ông ăn nói cộc cằn, con trả lời ôn tồn nhỏ nhẹ. Con cố gắng để chứng tỏ cho ông ta thấy: Khi con trở lại đạo Chúa, con phải là người vợ và người mẹ tốt hơn”. Một thời gian sau, chính ông chồng cũng xin trở lại đạo Công giáo, không phải vì lời giảng của cha xứ, cho bằng chính nhờ gương sáng sống đạo của bà vợ đạo đức của ông.[9] Sắp tới đây Đức Thánh cha Phanxicô sẽ phong thánh cho chân phước Carlo Arcutis, một vị thánh trẻ, được gọi vị thánh thuộc thế hệ Y. Thánh nhân có gì đặc biệt? Không có gì đặc biệt ngoài việc ngài sống Tin Mừng giữa đời thường. Đức hồng y Vallini trong bài giảng lễ phong chân phước đã nói về Carlo Arcutis như sau: Carlo có lòng yêu mến Thánh Thể và gắn bó với Thánh Thể cách đặc biệt. Chúa Giêsu là Bạn, là Thầy, là Đấng Cứu Độ và là sức mạnh cho cuộc sống của Acutis và là động lực của mọi việc cậu làm. Từ đó, Carlo mong muốn mãnh liệt đưa người khác đến với Chúa và cậu làm điều này trên hết bằng gương mẫu cuộc sống. Carlo dùng mọi cách, cả cách thức hiện đại, với tài năng về tin học Chúa ban, để gặp gỡ và loan truyền các giá trị Kitô giáo cho người khác[10]. BÀI 3: BIẾN ĐỔI THẾ GIỚI TỪ BÊN TRONG - Lm. Tôma Vũ Ngọc Tín, S.J. Đời sống Kitô hữu giữa lòng trần thế như những hạt muối tinh tế thấm vào lòng đời, lặng lẽ làm biến đổi thế giới, như men trong bột làm dậy lên cả khối bột. Hành trình hy vọng nhưng cũng đầy thách đố này đòi hỏi sự biến đổi sâu sắc từ bên trong tâm hồn và đời sống mỗi người tín hữu. Khi mỗi người thay đổi từ nội tâm, họ trở thành ánh sáng lan tỏa, chiếu rọi khắp nơi, góp phần biến đổi thế giới bằng chính đời sống đức tin của mình. Theo Sắc Lệnh về Tông Đồ Giáo Dân, linh đạo tông đồ giáo dân không chỉ là sống đức tin một cách cá vị, mà còn là tham gia tích cực vào sứ mạng của Giáo Hội. Giáo dân được mời gọi trở thành những tông đồ giữa đời, mang Tin Mừng đến mọi nơi (Apostolicam Actuositatem-AA, 4). Linh đạo này giúp mỗi người giáo dân nhận ra rằng, họ có một vai trò đặc biệt trong việc xây dựng Nước Trời nơi trần thế, không chỉ qua lời nói mà còn qua hành động cụ thể trong cuộc sống thường ngày: “Bản chất riêng biệt của người giáo dân là sống giữa đời và làm việc đời nên chính họ được Thiên Chúa mời gọi để một khi tràn đầy tinh thần Kitô giáo, họ làm việc tông đồ giữa đời như men trong bột” (AA 2). Sống linh đạo tông đồ giáo dân như thế, trước hết người giáo dân gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu qua Lời Chúa và Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể là tâm điểm đời sống người tín hữu, nuôi dưỡng mỗi người trong hành trình Kitô hữu giữa đời, giúp mỗi người kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu và dấn thân phục vụ sứ mạng của Người: “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu, đó không chỉ là lời mời gọi, mà còn là một yêu cầu thiết yếu, để mỗi Kitô hữu có thể sống đức tin và thực thi sứ mạng của mình. Tham dự Thánh lễ, cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa,… là những phương thế giúp giáo dân nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của mình. Cầu nguyện giúp người giáo dân sống tình thân mật thiết với Chúa, trong khi suy niệm Lời Chúa giúp họ hiểu rõ hơn về ý nghĩa và sứ mạng của mình như được Chúa mời gọi. Kết hiệp với Chúa Giêsu qua Thánh Thể và Lời Chúa là những phương thế sống động để mỗi người trở nên men trong bột, biến đổi thế giới từ bên trong. Từ đời sống gắn kết với Chúa Giêsu, người giáo dân sống đức tin của mình qua những hành động cụ thể trong gia đình, nơi làm việc, và cộng đồng. Điều này có thể bao gồm việc tham gia vào các hoạt động xã hội, hỗ trợ người nghèo, bảo vệ môi trường, và tham gia vào các phong trào xã hội nhằm thúc đẩy công lý và hòa bình. Ý nghĩa của việc trở thành men trong bột là mỗi Kitô hữu đều có thể đóng góp một phần nhỏ nhưng quan trọng vào việc biến đổi thế giới xung quanh. Điều này đòi hỏi mỗi người phải sống đời sống đức tin một cách chân thật và nhiệt thành. Tình yêu và công lý là hai yếu tố không thể thiếu trong linh đạo giáo dân. Mỗi giáo dân được mời gọi sống yêu thương qua những hành động cụ thể, đồng thời nỗ lực thực thi công lý và xây dựng hòa bình. Các hoạt động xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc thực hành tông đồ giáo dân. Tham gia vào các hoạt động này không chỉ giúp mỗi người thực thi sứ mạng truyền giáo, mà còn góp phần xây dựng một xã hội công bằng và yêu thương hơn. Sau cùng, qua đời sống đức tin và dấn thân tông đồ, mỗi người góp phần xây dựng và phát triển cộng đoàn giáo xứ. Qua việc tham gia tích cực vào đời sống giáo xứ, giáo dân không chỉ đóng góp vào sự phát triển của cộng đoàn mà còn tạo ra một môi trường yêu thương và hiệp nhất. Một cộng đoàn yêu thương sẽ là nền tảng vững chắc để mỗi giáo dân có thể thực thi sứ mạng truyền giáo của mình một cách hiệu quả. Tóm lại, hành trình Kitô hữu giữa lòng trần thế là trở thành muối và men, âm thầm, trung kiên, nhẫn nại thấm vào mọi ngóc ngách của cuộc sống, làm biến đổi thế giới từ nội tại. Sống đức tin trong đời thường, thể hiện qua những hành động cụ thể trong gia đình, nơi làm việc và cộng đồng, là cách mỗi Kitô hữu trở thành men trong bột, biến đổi thế giới bằng tình yêu và công lý. Kết hiệp với Chúa qua cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa, cùng tham gia vào các hoạt động xã hội, là nền tảng để mỗi giáo dân góp phần xây dựng một xã hội công bằng và yêu thương, biến đổi thế giới từ bên trong. Hồi tâm 1/ Nhìn lại kinh nghiệm sống đạo, tôi thấy mình trở nên ánh sáng và muối và men trong môi trường sống như thế nào? Tôi có thể làm gì để thẩm thấu và lan tỏa tinh thần Kitô giáo trong gia đình, nơi làm việc, và cộng đồng của mình? 2/ Tôi cảm nghiệm thế nào về ơn gọi và sứ mạng Kitô hữu khi cầu nguyện và suy niệm lời Chúa? Làm thế nào tôi có thể biến những cảm nghĩ thiêng liêng ấy thành hành động cụ thể để xây dựng Nước Trời ngay cuộc sống đời thường của tôi? 3/ Khi đối diện với những thách thức trong cuộc sống và xã hội, tôi trải nghiệm thế nào về tình yêu và công lý như men trong bột, làm dậy lên sự thay đổi tích cực? Tôi có sẵn sàng dấn thân hơn nữa để trở thành người tông đồ truyền giáo giữa đời, lan toả tình yêu và công lý trong môi trường sống thường ngày? BÀI 4: LÒNG CAN ĐẢM VÀ SỰ KHÔN NGOAN KHI DẤN THÂN VÀO ĐỜI SỐNG TRẦN THẾ - Lm. Tôma Vũ Ngọc Tín, S.J. Lòng can đảm và sự khôn ngoan là hai phẩm chất quan trọng mà mỗi Kitô hữu cần có để sống và làm chứng cho đức tin trong đời sống trần thế. Lòng can đảm giúp chúng ta vượt qua những thử thách và khó khăn, dám đứng lên bảo vệ sự thật và công lý. Sự khôn ngoan, hướng dẫn chúng ta hành động một cách sáng suốt, biết phân định phải trái, đúng sai và chọn lựa đường hướng đẹp lòng Chúa. Trong một thế giới đầy biến động và thách thức, lòng can đảm và sự khôn ngoan trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Đối với giáo dân, hai phẩm chất này không chỉ giúp họ sống đức tin một cách mạnh mẽ và vững vàng mà còn đóng góp tích cực vào việc xây dựng một xã hội công bằng và nhân ái hơn. Lòng can đảm là một chủ đề được nhắc đến nhiều trong Kinh Thánh: “Mạnh bạo lên, can đảm lên! Đó chẳng phải là lệnh Ta đã truyền cho ngươi sao? Đừng run khiếp, đừng sợ hãi, vì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, sẽ ở với ngươi bất cứ nơi nào ngươi đi tới” (Gs 1,9). Lời khích lệ này không chỉ dành cho Thủ lãnh Giôsuê mà còn dành cho tất cả chúng ta, những người đang sống và làm chứng cho đức tin. Lòng can đảm giúp chúng ta đứng vững trước những thử thách, bảo vệ niềm tin và dám sống theo những giá trị Tin Mừng trong một thế giới đầy cám dỗ, bạo loạn và bất công. Sự khôn ngoan cũng là một đức tính quan trọng được Kinh Thánh đề cao: “Nếu ai trong anh em thiếu đức khôn ngoan, thì hãy cầu xin Thiên Chúa, Người sẽ ban cho. Vì Thiên Chúa ban cho mọi người cách rộng rãi, không quở trách” (Gc 1,5). Sự khôn ngoan giúp chúng ta biết phân định đúng sai, tốt xấu, lựa chọn đường hướng đẹp lòng Chúa và hành động một cách sáng suốt trong mọi hoàn cảnh. Nó không chỉ là tri thức mà còn là khả năng ứng dụng tri thức đó vào cuộc sống một cách đúng đắn và hiệu quả tốt đẹp. Mỗi người vẫn thường đối diện với những thách đố và nghịch cảnh trong đời sống. Điều quan trọng là cách chúng ta đối diện và vượt qua chúng. Cuộc sống trần thế có muôn vàn cảnh huống mà ở đó, người giáo dân thể hiện lòng can đảm và sự khôn ngoan khi luôn tin cậy Chúa và đối diện khó khăn, chẳng hạn như việc bảo vệ sự thật và công lý trong môi trường làm việc, nơi có thể gặp phải những áp lực và cám dỗ. Lòng can đảm giúp chúng ta không lùi bước, trong khi sự khôn ngoan giúp chúng ta chọn lựa cách hành động phù hợp và hiệu quả. Đời sống đức tin không dừng ở việc tham dự các cử hành phục vụ mà còn sống theo những giá trị Kitô giáo trong đời sống thường ngày. Giáo dân có thể thể hiện lòng can đảm và sự khôn ngoan bằng cách làm gương sáng trong môi trường làm việc, trong gia đình, và trong cộng đồng. Những hành động cụ thể như giúp đỡ người khó khăn, bảo vệ môi trường, và tham gia vào các hoạt động từ thiện đều là những cách thể hiện đức tin một cách sống động và thực tế. Trong nhiều hoàn cảnh, lòng can đảm và sự khôn ngoan của người giáo dân có thể thể hiện trong vai trò lãnh đạo cộng đồng. Trong hoàn cảnh đó, lòng can đảm và sự khôn ngoan không chỉ giúp giáo dân đối mặt với những thách thức mà còn giúp họ hành động một cách sáng suốt và hiệu quả. Sau cùng, giáo dục con cái về lòng can đảm và sự khôn ngoan là một nhiệm vụ quan trọng của các bậc cha mẹ Công Giáo. Giáo dân có thể giúp con cái hiểu và thực hành hai phẩm chất này qua gương sáng trò chuyện thường ngày trước những vấn đề thực tế trong đời sống, giúp con cái phát triển lòng can đảm và sự khôn ngoan trong cuộc sống. Tóm lại, lòng can đảm và sự khôn ngoan là những phẩm chất không thể thiếu để mỗi Kitô hữu sống đức tin trong đời sống trần thế. Những phẩm chất này hằng giúp chúng ta vượt qua thử thách, bảo vệ sự thật và công lý, và hành động minh bạch, tư duy độc lập sáng suốt, mang lại ích lợi chính đáng cho bản thân và cộng đồng. Trong một thế giới đầy biến động, giáo dân cần lòng can đảm để kiên vững vượt qua những trở ngại và sự khôn ngoan để phân định và lựa chọn đúng đắn. Đó là hai phẩm chất giúp người giáo dân dấn thân sống đức tin giữa lòng trần thế, góp phần xây dựng đời sống xã hội thấm đượm Tin Mừng. Hồi tâm 1/ Trong những tình huống cụ thể nào, tôi thường cần đến lòng can đảm để bảo vệ sự thật và công lý? Tôi đã từng phản ứng ra sao và kết quả như thế nào? 2/ Làm thế nào tôi có thể áp dụng sự khôn ngoan để phân định đúng sai và đưa ra quyết định sáng suốt trong các hoạt động và công việc tại giáo xứ của mình? 3/ Nhớ lại một trải nghiệm khi lòng can đảm và sự khôn ngoan của người Công giáo đã tạo ra sự khác biệt tích cực trong cộng đồng xã hội? Tôi cảm nghĩ thế nào về sự dấn thân của người giáo dân, với lòng can đảm và khôn ngoan, vào đời sống xã hội? ________ [1] Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Tông Huấn Người Tín Hữu Giáo dân (Christifideles Laici), số 15. [2] Nt. [3]X. Hiến chế Mạc Khải (Dei Verbum), số 21 [4] X Hiến chế Mạc Khải (Dei Verbum), số 25. [5] Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông thư Ngàn Năm Thứ Ba (Millennio Adveniente), số 39> [6] Đức Phanxicô, buổi tiếp kiến chung trực tuyến sáng thứ Tư 25/11/2020), nguồn Vatican News. [7] Nguồn: www.ncregister.com/commentaries/without-adoration-there-s-no-evangelization [8] Nguồn: www.vaticannews.va/vi/pope/news/2020-11/ [9] Nguồn: https://linhmucmen.com/news/kho-sach-quy/chung-nhan-giua-doi-thuong [10] Nguồn: https://www.vaticannews.va/vi/church/news/2020-10/le-phong-chan-phuoc-carlo-acutis.html
ỦY BAN GIÁO DÂN - THƯỜNG HUẤN THÁNG 07/2024: TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN - MUỐI ...
LINH ĐẠO DUNG NẠP
LINH ĐẠO DUNG NẠP