Thứ bảy, ngày 06 tháng 07 năm 2024 | 07:31 AM - Giới thiệu | Ý nghĩa logo
Tài liệu

 03/04/2016 -  

Thần học

 846

Click để coi Phần I

Click để coi Phần II


 

Ước muốn sự thân mật

Tôi giả thiết là tất cả chúng ta đều đã kinh qua những khoảnh khắc ám ảnh này, khi mà một ai đó trở nên đối tượng của toàn bộ những khát vọng nơi bản thân chúng ta, trở thành biểu tượng của tất cả những điều chúng ta đã chưa từng bao giờ ước muốn, trở thành lời đáp trả cho toàn bộ những nhu cầu của chúng ta. Nếu chúng ta không kết hiệp sâu xa với con người này, thì cuộc đời chúng ta có nguy cơ bị trống rỗng và mất đi toàn bộ ý nghĩa. Đối tượng tình yêu của chúng ta sẽ lấp đầy cái giếng sâu thẳm của những nhu cầu mà chúng ta khám phá được trong chính bản thân chúng ta. Suốt cả ngày chúng ta cứ tâm tưởng đến những nhu cầu ấy. Như đại văn hào Shakespeare đã diễn đạt điều này quá tuyệt làm sao: “Và thế là ban ngày thì chân tay anh, ban đêm thì tâm trí anh, cho em, và cho anh, hầu như chằng tìm thấy chút nghỉ ngơi thư thái nào”[1].

Hoặc, để gọi là hiện đại hơn một chút, thì khuôn mặt của người được yêu phải giống như chương trình bảo vệ màn hình máy vi tính của chúng ta ( l’économiseur d’écran). Vào khoảnh khắc khi mà ta ngừng suy nghĩ về một điều nào khác, thì cái đó lại xuất hiện. Điều đó như thể một sự tù đày, một tình trạng nô lệ, nhưng lại là một sự nô lệ mà chúng ta không mong muốn thoát ra khỏi. Chúng ta thần hoá người được chúng ta yêu, và đặt người đó vào vị trí của Thiên Chúa. Hiển nhiên, những điều chúng ta tôn thờ đó chính là công trình sáng tạo của chúng ta cho chúng ta. Đó là một sự phóng chiếu. Có lẽ tất cả mọi tình yêu đều phải trải qua giai đoạn ám ảnh kỳ cục này. Phương thuốc chữa trị duy nhất là sống cùng với con người đó ngày này sang ngày khác, và khám phá ra rằng con người ấy không phải là Thiên Chúa, nhưng chỉ là con đẻ của mình. Tình yêu bắt đầu ngay khi chúng ta được chữa lành khỏi ảo vọng này và lúc đó chúng ta diện đối diện với một ngôi vị thực sự, chứ không phải với một phóng chiếu từ những khát vọng của chúng ta. Như Octavio Paz [2] đã nói: “Tình yêu mặc khải thực tại cho khát vọng”.

Vậy thì, chúng ta tìm kiếm cái gì trong toàn thể những điều này? Cái gì là nguyên cớ gây nên sự ám ảnh này? Tôi chỉ có thể phát biểu nhân danh cá nhân tôi mà thôi, nhưng khi đó tôi sẽ nói rằng cái luôn luôn đứng đằng sau những xáo trộn cảm xúc nhất thời của tôi là một ước muốn sự thân mật. Đó là khát vọng được hoàn toàn trở nên một, khát vọng làm biến mất những biên thuỳ chia cách giữa tôi và một người khác, được đánh mất chính mình trong một người khác, để khai mở một sự hiệp thông tinh ròng và hoàn toàn. Đúng hơn là một đam mê tính dục, tôi thiết nghĩ rằng chính cái ước vọng sự thân mật này mới là điều mà đa phần con người đang tìm kiếm. Nếu chúng ta phải trải qua những cuộc khủng hoảng tình cảm, thì chúng ta cũng cần phải nhìn nhận nhu cầu thân mật này của chúng ta.

Xã hội chúng ta được xây dựng xung quanh huyền thoại kết hợp tính dục như thể sự đăng quang của toàn bộ ước muốn sự thân mật. Chính khoảnh khắc âu yếm và kết hợp thân xác trọn vẹn này đã tạo nên sự thân mật toàn diện và là sự hiệp thông tuyệt đối. Rất nhiều người lãng quên sự thân mật này bởi vì họ không lập gia đình hay đời sống hôn nhân của họ không hạnh phúc, hoặc bởi vì họ là những linh mục hay tu sĩ. Và chúng ta có thể cảm thấy mình bị tước đoạt một cách bất công trong những gì là nhu cầu sâu xa nhất của chúng ta. Điều này xem ra có vẻ võ đoán! Tại sao Thiên Chúa lại có thể tước khỏi bản thân tôi khả năng thoả mãn khát vọng thâm sâu này?

Tôi thiết nghĩ rằng tất cả mọi người, dù đã lập gia đình hay sống độc thân, tu sĩ hay giáo dân, phải học để tập thích ứng với những giới hạn của sự thân mật mà mọi người buộc phải đối diện. Giấc mơ về mội cuộc hiệp thông toàn diện là huyền thoại vốn đã xui khiến một số tu sĩ khát khao lập gia đình, và một số người đã lập gia đình lại mong muốn xây dựng gia đình với một người khác nữa. Hẳn nhiên sự thân mật chỉ hạnh phúc nếu chúng ta chấp nhận những giới hạn của nó. Chúng ta có thể phóng chiếu trên những cặp vợ chồng một sự thân mật tuyệt đẹp và toàn diện, nhưng trong thực tế đây lại là điều bất khả và chỉ là sự phóng chiếu những giấc mơ của chúng ta mà thôi. Rilke đã hiểu rằng không thể có một sự thân mật đích thực nơi đôi vợ chồng, nếu mỗi người không nhìn nhận rằng người khác, theo một cách nào đò, vẫn luôn đơn độc. Tất cả mọi người đều giữ kín một phần cô đơn nào đó xung quanh mình vốn không thể bị tiêu diệt. “Một cuộc hôn nhân hạnh phúc là một cuộc hôn nhân trong đó người này làm cho người kia trở thành kẻ canh gác nỗi cô đơn của mình, và dành cho người kia sự tin tưởng (...) Một khi người ta đã thấu hiểu và chấp nhận rằng, ngay cả giữa những người gần gũi nhất, vẫn luôn tồn tại những khoảng cách vô biên, thì khi đó người ta có thể sát cánh cùng nhau phát triển một cuộc sống diệu huyền, và nếu họ biết yêu mến khoảng cách giữa họ với nhau vốn đã cống hiến cho mỗi người khả năng để nhìn thấy người khác toàn diện hơn dựa trên một hậu trường rộng lớn và tuyệt vời.” [3]

Tiến đến gần trung tâm cuộc đời người khác

Không ai có thể đem đến cho chúng ta sự thoả mãn toàn diện đối với những điều chúng ta đang khao khát. Điều này chỉ có thể tìm thấy nơi Thiên Chúa. Rowan Williams, một người chồng và là tổng giám mục Cantobéry, đã viết: “Một con người trở nên trưởng thành và trung tín khi mà người ấy ý thức được về căn bệnh vô phương chữa khỏi của những khát vọng trong bản thân mình: thế giới này là như thế đó, chẳng có cái gì ban tặng cho người nào đấy một căn tính mà lại không có thiếu sót và cần phải hoàn thành” [4] . Hoặc theo Jean Vanier: “Nỗi cô đơn nằm sâu trong hữu thể con người, bởi vì chẳng có điều gì trong cuộc đời này có khả năng thoả mãn hoàn toàn những nhu cầu của trái tim con người.” [5]

Đối với những người đã lập gia đình, thì sự thân mật diệu huyền là điều khả dĩ nếu một khi người ta biết chấp nhận là kẻ canh gác nỗi cô đơn của người khác, như Rilke đã nói; và đối với chúng ta là những người không lập gia đình hay dấn thân vào đời sống độc thân, cũng có thể khai mở được một sự thân mật thâm sâu và diệu huyền với những người khác. Hạn từ intimité (thân mật) phát sinh từ hạn từ trong La ngữ là intimare, có nghĩa: “sống liên hệ mật thiết với những gì là thâm sâu nhất nơi một người khác”. Bởi vì tôi là một tu sĩ, lời khấn thanh khiết đã cống hiến cho tôi khả năng để trở nên thân mật một cách khó tin với những người khác. Bởi vì tôi chẳng có sổ nhật ký bí mật và tình yêu của tôi không phải là để tàn phá cũng chẳng phải để chiếm hữu, nên tôi có thể tiến đến rất gần trung tâm cuộc sống của một số người.

Cái bẫy được đặt đối lập với sự ám ảnh không hệ tại ở chỗ đặt người khác thay vào vị trí của Thiên Chúa, nhưng là biến người khác trở thành một đối tượng thuần tuý, một điều gì đó có khả năng thoả mãn những nhu cầu tính dục. Dục vọng bịt mắt chúng ta không cho nhìn thấy người khác với tư cách là một ngôi vị, nhìn thấy sự mỏng giòn cũng như những phẩm tính của họ. Thánh Tô-ma, khi viết về đức thanh khiết, đã nói rằng khi con sư tử nó nhìn thấy một con nai cái, là nó nhìn thấy một bữa ăn, và rằng dục vọng đã biến chúng ta trở thành những kẻ săn bắt, những động vật săn mồi nhìn thấy những gì chúng có thể ngấu nghiến. Còn ở đây, sự thanh khiết cốt ở chỗ sống trong thế giới thực hữu. Sự thanh khiết mở mắt chúng ta và giúp chúng ta nhận ra rằng cái đang ở trước mặt chúng ta hiện hữu, vâng, đúng như vậy, một thân thể mỹ miều, nhưng thân thể này lại là một con người. Thân thể này không phải là một đối tượng, nhưng là một chủ thể. Tôi xin trích dẫn Hederman thêm một lần nữa: “Lời khấn thanh khiết ngăn cản những bước chân của kẻ săn mồi không cho phép thực hiện điều mà chúng muốn tiến hành theo lẽ tự nhiên: đặt bẫy săn những người khác và như thế là đang tiến gần tới chỗ trở thành một động vật săn mồi “ [6]. Điều vô cùng khủng khiếp trong những câu chuyện về lạm dụng tình dục thường là đã có một sự chuẩn bị được tính toán khéo léo.

Người ta có thể tin rằng dục vọng là một đam mê tính dục không thể làm chủ được, một nỗi khao khát tính dục phóng túng. Nhưng thánh Augustinô, người đã trải nghiệm sâu xa trong vấn đề này, lại cho rằng dục vọng là nỗi khát khao muốn được thống trị tha nhân hơn là khát khao khoái lạc tình dục. Dục vọng liên quan đến libido thống trị (libido dominandi), nỗi khát khao muốn được thống trị đã biến chúng ta trở thành Thiên Chúa. Dục vọng liên quan đến quyền lực nhiều hơn là liên quan đến tính dục. Như Sébastien Moore[7] đã viết điều này: “Dục vọng không phải là một đam mê tính dục thoát ra khỏi sự kiểm soát của ý chí, nhưng là một đam mê tính dục nhằm chiếm một chỗ đứng trong ý chí của Thiên Chúa (...) Trách nhiệm của chúng ta không phải là bắt đam mê tính dục phải tuân phục ý chí, nhưng là phục hồi nguyên vẹn cho đam mê tính dục bản tính khao khát đích thực của nó, là tìm thấy cội nguồn và cứu cánh trong Thiên Chúa, và sự giải thoát được thực hiện nhờ ân sủng của Thiên Chúa được thể hiện trong đời sống, lời giáo huấn, cái chết trên thập giá và sự phục sinh của Đức Giê-su Ki-tô.” 

Mối nguy hiểm của việc biến chính mình thành một vị Thiên Chúa

Để vượt qua dục vọng này, thì bước đầu tiên không phải là triệt tiêu hết mọi khao khát, nhưng là phục hồi, giải phóng, và tái khám phá rằng những điều mà khao khát này nhắm đến không phải là một đối tượng nhưng là một con người. Có quá nhiều vụ tai tiếng đáng buồn về tội lạm dụng tình dục đối với trẻ vị thành niên do các linh mục hay tu sĩ không có đủ khả năng đế đảm nhận những mối tương quan trưởng thành với những đối tác bình đẳng với mình! Họ chỉ có thể tìm kiếm những mối tương quan ở nơi đâu mà họ có quyền lực và thế giá. Họ phải làm như thế, vì họ không muốn bản thân mình có thể bị tổn thương. Trong Bữa Tiệc Ly, Đức Giê-su cầm lấy bánh, bẻ ra trao cho các môn đệ và nói: “Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em”. Ngài đã tự hiến chính mình. Thay vì bắt các môn đệ phải phục tùng mình, Đức Giê-su đã tự hiến tế vì họ để thực hiện những điều họ mong muốn. Và chúng ta biết rõ đâu là những điều họ sắp thực hiện. Đây là sự tổn thương ghê gớm của một tình yêu đến cùng.

Dục vọng và ám ảnh có thể xem ra khá khác nhau, và tất nhiên cái này là phản ánh chính xác của cái kia. Trong ám ảnh, người ta biến người khác trở thành một vị Thiên Chúa, còn trong dục vọng người ta biến chính mình trở thành Thiên Chúa. Trong trường hợp này, người ta tỏ ra mình hoàn toàn bất lực, và trong trường hợp kia người ta khát khao quyền tuyệt đối. Rowan Williams viết rằng: “Tình yêu là sự do dự giữa thái độ vị kỷ và tinh thần quên mình” [8]. Tình yêu mang đến cho chúng ta một cảm thức mãnh liệt về chính bản thân chúng ta, nhưng đồng thời tình yêu cũng khiến cho chúng ta không còn ý thức nữa. Dục vọng có thể xuất hiện khi mà thái độ vị kỷ thắng thế, và ám ảnh xuất hiện khi tinh thần quên mình đánh mất toàn bộ ý nghĩa căn tính của mình.

Như thế, sống thanh khiết cốt ở chỗ sống trong thế giới thực hữu, có nghĩa là nhìn người khác (nam hay nữ) như họ đang là, và chính bản thân mình như mình đang là. Họ chẳng phải là những vị thần vị thánh và cũng chẳng phải là một khối thịt thuấn tuý. Chúng ta, cả hai đều là con cái Thiên Chúa. Chúng ta có một lịch sử. Chúng ta đã thực hiện những lời khấn, lời hứa. Người khác cũng đã thực hiện những cam kết, có thể với tư cách là một đối tác hay một phối ngẫu. Chúng ta, những linh mục hay tu sĩ, chúng ta đã hiến mình cho Hội Dòng của chúng ta và cho giáo phận của chúng ta. Chính trong tư cách là những người đã đảm nhận và được liên kết qua những cam kết khác nhau, nên chúng ta có thể phải học để biết yêu thương với một con tim cởi mở và một đôi mắt luôn biết nhìn xa trông rộng.

Thực hiện được điều này rất khó bởi vì chúng ta đang sống trong thế giới của internet. Đây là một thế giới của thực tại ảo, trong đó người ta có thể sống trong những thế giới tưởng tượng như thể chúng đang hiện hữu thực vậy. Chúng ta đang sống trong một nền văn hoá vốn rất khó phân biệt giữa cái tưởng tượng với cái có thực. Tất cả đều khả dĩ trong cái thế giới ảo này. Chinh vì vậy, sự thanh khiết trở nên khó khăn: sự thanh khiết là một nỗ lực không ngừng để nhìn thấy thực tại.

Như vậy, làm thế nào chúng ta có thể hạ cánh xuống lại trên mặt đất này? Tôi xin được nêu bật ba giai đoạn. Chúng ta cần phải học để biết mở rộng đôi mắt và để nhìn thấy khuôn mặt của những anh chị em đang hiện hữu trước mắt chúng ta. Liệu đã có bao nhiêu lần chúng ta thực sự chú ý đến khuôn mặt của những người khác đích thị như họ đang là? Brian Pierce, tu sĩ Đa-minh người Mỹ, đang viết một cuốn sách nhằm so sánh tư tưởng của Tôn sư Eckharl, một nhà thần bí Đa-minh thế kỷ XVI, với tư tưởng của Thích Nhất Hạnh, một phật tử (un Bouddhiste) thế kỷ XX. Đôi với cả hai vị, điểm khởi đầu của đời sống chiêm niệm chính là giây phút hiện tại, đây là điều các anh em Phật tử gọi là “ý thức”. Chỉ có giây phút hiện tại mới là thực hữu. Chính trong giây phút này đây mà tôi đang sống, và do đó chính trong giây phút này đây tôi có thể hội ngộ với Thiên Chúa. Tôi cần phải đạt được sự thanh thản để thôi không còn âu lo về quá khứ và tương lai nữa. Hiện tại là khoảnh khắc mà trong đó cái vĩnh cửu bắt đầu lên ngôi. Eckhart hỏi: “Ngày hôm nay, nó là cái gì vậy?” Và ông trả lời: “Vĩnh cửu”.

Nghệ thuật sống một mình

Trong Bữa Tiệc Ly, Đức Giê-su thấu hiểu và ôm choàng lấy giây phút hiện tại. Thay vì lo lắng về những việc Giu-đa dã làm hay việc quân lính sắp đến gần, Đức Giê-su đã sống giây phút hiện tại, Ngài cầm lấy bánh, bẻ ra trao cho các môn đệ và nói: “Đây là mình Thầy hiến tế vì anh em”. Mỗi lần cử hành Thánh Thể là một lần dìm chúng ta vào trong cái hiện tại vĩnh cửu này. Chính trong khoảnh khắc này tôi có thể hiện diện với một người khác, thanh thản và lặng lẽ trong sự hiện diện của người ấy. Tôi quá bận rộn, cứ tất tả chạy ngược chạy xuôi, cứ mải suy nghĩ đến những gì sẽ xảy ra sau đó, đến độ tôi không còn khả năng để nhìn thấy khuôn mặt đang đối diện với tôi, nhìn thấy vẻ đẹp cũng như những vết thương lòng, nhìn thấy niềm vui và những khổ đau của khuôn mặt ấy nữa. Như thế, sự thanh khiết sẽ giúp cho đôi mắt tôi được rộng mở!

Kế đến tôi có thể học nghệ thuật sống một mình. Tôi không thể sống hạnh phúc với những người khác trừ khi tôi có khả năng để sống một mình. Nỗi cô đơn khiến tôi khiếp sợ, vì vậy khi tôi ôm ấp những người khác vào lòng không phải bởi vì tôi vui thú cùng với họ, nhưng như thể một giải pháp cho vấn đề của tôi. Tôi coi những người khác như một phương tiện để lấp đầy sự trống rỗng và nỗi cô đơn khủng khiếp của tôi. Như thế, tôi không thể hoan lạc cùng với họ vì sự thiện hảo riêng của họ. Và như vậy, khi ta hiện diện với một người khác, thì đây phải là một cuộc hiện diện thực sự, và khi ta sống một mình, thì vấn đề quan trọng là phải học để biết yêu mến sự cô đơn. Nếu khác đi, thì khi ta hiện diện với một người khác, ta sẽ bám chặt lấy người ấy cho đến khi làm cho người ấy chết ngạt!

Cuối cùng; tất cả mọi xã hội đều sống với câu chuyện của mình. Xã hội chúng ta có những câu chuyện truyền thống riêng của nó. Đó thường là những câu chuyện lãng mạn: một chàng trai gặp một thiếu nữ (hay đôi khi một chàng trai gặp một chàng trai), nếu cả hai phải lòng nhau và sống hạnh phúc dài lâu. Đó là một câu chuyện đẹp, thường xảy ra. Nhưng nếu chúng ta nghĩ rằng trong cuộc tình đó, chỉ có một phiên bản khả thể duy nhất như thế mà thôi, thì chúng ta đang sống với những khả thể rất giới hạn. Trí tưởng tượng của chúng ta cần phải được nuôi dưỡng bằng những phiên bản khác nữa, vì những câu chuyện này có khả năng nói cho chúng ta biết các cách thế sống và yêu thương. Khi đứng trước những người trẻ, chúng ta cần phải biểu lộ những cách thế vô cùng đa dạng để ta có thể gặp gỡ tình yêu của họ và trao tặng cho tình yêu đó một ý nghĩa. Chính vì lẽ ấy, cuộc đời các vị thánh thật quan trọng vô cùng. Cuộc đời của các vị cho chúng ta thấy rằng có biết bao là cách sống anh hùng, dù là người lập gia đình hay sống độc thân, dù là tu sĩ hay giáo dân. Một bản tự truyện đã đánh động tôi rất nhiều: bản tự truyện của Nelson Mandela, The Long Road to Freedom. Đây là một con người đã dành toàn bộ cuộc đời mình vì công lý và làm cho chủ nghĩa apartheid sụp đổ, và điều này càng có ý nghĩa khi mà ông không được sống đời sống hôn nhân mà ông đã rất khao khát, và vẫn còn khao khát trong suốt những năm tháng bị cầm tù. Như thế, bước chân đầu tiên tiến đến sự thanh khiết đó là đặt chân xuống bước đi trên mặt đất này. Tôi sẽ nhanh chóng đề cập đến hai bước khác.

Chia sẻ tình yêu của chúng ta

Giai đoạn thứ hai, rất sơ lược, cốt ở chỗ mở rộng tình yêu của chúng ta, đến nỗi tình yêu không còn ở lì trong cái thế giới nhỏ bé riêng tư mà tình yêu tìm thấy nơi ẩn náu trong đó. Tình yêu của Đức Giê-su đã được mặc khải khi Ngài cầm lấy bánh và bẻ ra ngõ hầu chính bản thân Ngài có thể được chia sẻ. Khi chúng ta khám phá ra tình yêu, chúng ta không nên giữ kín tình yêu ấy trong cái tủ nhỏ bé riêng tư trong hốc tường để khoái lạc một mình, như thể một chai Whisky được cất giấu vụng trộm để uống mảnh, cần phải mở rộng tình yêu này với những người khác, chia sẻ tình yêu với họ và làm cho họ được lợi từ tình yêu này. Chúng ta phải chia sẻ tình yêu của chúng ta với các bằng hữu của chúng ta, và các bằng hữu của chúng ta với những người mà chúng ta thương mến. Như vậy, một tình yêu riêng tư sẽ trở nên phổ quát.

Vượt trên tất cả, trong mọi thứ tình yêu chúng ta đều có thể mở ra một không gian cho Thiên Chúa để Ngài cư ngụ tại đó. Chính mầu nhiệm tình yêu là Thiên Chúa có thể sống trong mọi tình yêu riêng tư. Khi chúng ta yêu thương sâu xa một ai đó, thì Thiên Chúa đã hiện diện nếu, ít ra, chúng ta biết nhìn ra Ngài trong tình yêu này. Đúng hơn hãy coi những tình yêu của chúng ta như thể đang tranh đua với Thiên Chúa, chúng ta cần ý thức rằng tình yêu của chúng ta phải dành cho Thiên Chúa một khoảng không để Ngài có thể cắm lều cư ngụ tại đây. Như Bède Jarrett đã nói điều này với Hubert van Zeller: “Nếu anh cứ nghĩ rằng một điều duy nhất phải làm là sống thu mình trong cái vỏ sò của chính mình, anh sẽ chẳng bao giờ thấy được Thiên Chúa đáng yêu như thế nào đâu. Anh phải yêu thương P và tìm kiếm Thiên Chúa trong P (..). Hãy đánh giá cao tình bạn của anh, hãy trả giá cho tình bạn ấy bằng nỗi đau khổ của anh, anh hãy nhớ đến tình bạn ấy trong thánh lễ của anh, và nên luôn có một người thứ ba. Phần mở đầu tác phẩm Tình bạn thiêng liêng của Aered de Rievaulx [9] viết như sau: ‘Chúng ta đây, anh và em, và anh hy vọng rằng giữa hai chúng ta, Đức Ki-tô là người thứ ba’. Thật tuyệt vời phải không? Nếu anh chạy trốn tình yêu, thì anh sẽ chẳng bao giờ thấu hiểu được Thiên Chúa đáng yêu dường nào; nhưng nếu anh không để cho Thiên Chúa bước vào trong cuộc tình này và dâng tặng Người tình yêu ấy, thì anh cũng không thể nào hiểu biết được mầu nhiệm của tình yêu này. Nếu chúng ta tách tình yêu của chúng ta ra khỏi Thiên Chúa, cũng như ra khỏi những người khác, thì cả hai sẽ đầy tràn nỗi cay đắng và sẽ trở thành không lành mạnh. Đây chính là ý nghĩa của việc ‘sống đời lứa đôi’.” 

Giai đoạn thứ ba, có lẽ là giai đoạn khó khăn nhất, đó là tình yêu của chúng ta phải đem lại tự do cho con người. Tất cả mọi thứ tình yêu, cho dù là tình yêu của những người đã lập gia đình hay tình yêu của những người sống độc thân, phải là một tình yêu mang tính giải phóng. Tình yêu của người chồng và của người vợ phải mở ra những không gian tự do rộng lớn, và, đối với chúng ta là những linh mục hay tu sĩ, thì điều này lại còn đúng hơn nữa. Chúng ta phải yêu thương mọi người đến độ họ được tự do để yêu thương những người khác hơn chúng ta. Thánh Augustinô gọi vị giám mục là người bạn của chàng rể, amicus sponsi. Trong Anh ngữ, trong một hôn lễ, chúng ta vẫn thường nói đến best man (người phù rể). Người “đàn ông nổi bật nhất” này không cố gắng lôi kéo tình yêu của cô dâu, và thậm chí cũng chẳng phải để lôi kéo tình yêu của các cô phù dâu! Chàng phù rể này lôi hướng về một người khác.

Ngày kia, một tu sĩ Đa-minh người Pháp đã so sánh Thiên Chúa với một quý ông (gentleman) người Anh vô cùng nhã nhặn đến nỗi ông tuyệt nhiên không bao giờ mong muốn áp đặt lên những người mình thương yêu. Ông ngoảnh mặt đi không nhìn vào chỗ cánh cửa hé mở để bảo đảm rằng tất cả những biểu hiện tình cảm yêu thương của họ sẽ diễn tiến thật tốt đẹp, rồi sau đó, ngay cả khi ông rất muốn ở lại đây, ông đã biến mất để lại họ chỉ hai người với nhau thôi. C. S. Lewis diễn tả điều này cách khác: “Một trong những đặc quyền của Thiên Chúa là luôn luôn ít được yêu hơn là yêu” [10] . Thiên Chúa luôn luôn là Đấng yêu thương hơn là được yêu thương. Đó cũng có thể là ơn gọi của chúng ta. Như Auden đã viết điều này: “Nếu không thể có một tình cảm bình đẳng, thì tôi xin được là người tình tuyệt vời nhất” [11] 

Điều đó giả thiết là phải làm như thế nào đó để không chiếm lấy trung tâm đời sống của những người khác và không biến họ trở thành những người lệ thuộc chúng ta. Chúng ta phải không ngừng nỗ lực cống hiến cho họ những nâng đỡ và trợ lực khác, ngõ hầu chúng ta ngày càng trở nên ít quan trọng hơn đối với họ. Điều này muốn nói rằng có thể có một vấn nạn luôn được đặt ra: liệu tình yêu của tôi có làm cho người tôi yêu trở nên mạnh mẽ hơn, độc lập hơn, hay nó lại làm cho người này trở nên yếu nhược hơn, lệ thuộc tôi nhiều hơn?

Thôi, đủ rồi ! Tôi phải dừng lại thôi, tất nhiên là sau một suy tư cuối cùng. Học để biết yêu thương là một tiến trình đầy nguy hiểm. Chúng ta chẳng biết được tiến trình này có thể đưa chung ta đi đến đâu. Chúng ta sắp khám phá một sự đảo lộn toàn bộ cuộc đời của chúng ta. Khi điều đó xảy chắc rằng đôi khi chúng ta bị tổn thương đấy. Có một con tim bằng đá thì dễ hơn nhiều là có một con tim bằng thịt, nhưng trong trường hợp này chúng ta sẽ chết toi! Một khi đã chết, thì chúng ta không thể nào nói về Thiên Chúa hằng sống được. Nhưng phải sống cái chết và sự phục sinh này như thế nào đây?

Mỗi lần cử hành Thánh Thể, chúng ta nên nhớ rằng Đức Giê-su đã đổ máu mình ra để thứ tha tội lỗi. Điều đó không muốn nói là Ngài phải làm nguôi cơn giận lôi đình của Thiên Chúa; thậm chí điều đó không chỉ muốn nói rằng nếu chúng ta phạm phải lỗi lầm thì đi xưng thú và được tha thứ là đủ rồi đâu. Quả là có muốn nói đến điều đó, nhưng còn hơn thế nữa. Điều muốn nói là, trong tất cả mọi cuộc vật lộn của chúng ta nhằm trở thành những con người sống động và biết yêu thương, thì Thiên Chúa luôn ở với chúng ta. Ân sủng của Thiên Chúa luôn đồng hành với chúng ta trong những giờ phút thất bại và bối rối, để nâng đỡ và vực chúng ta đứng dậy. Chẳng khác nào như, ngày Chúa nhật Phục sinh, Thiên Chúa đã biến đổi ngày Thứ sáu tuần thánh trở thành một ngày chúc phúc, chúng ta có thể tin tưởng rằng tất cả mọi nỗ lực yêu thương của chúng ta sẽ đơm bông kết trái. Như thế chẳng còn lý do để chúng ta sợ hãi! Chúng ta có thể gieo mình vào cuộc mạo hiểm hướng đến cái chưa biết với niềm tín thác và can đảm.

(Hết)

 

Lm. Timothy Radcliffe, OP.
(Chuyển ngữ: Lm. Giuse Nguyễn Hữu Nghị, OP.)
 

[1] Sonnet XXVII.

[2] Octavio Paz: thi sĩ Mê-xi-cô (giải thưởng Nobel văn chương năm 1990), 1914-1998.

[3] Rainer Maria Rilke: thi sĩ của Đức ngữ, 1875-1926.

[4] Lost Icons , tr 153.

VIDEO

  Bài 2: HIỆP HÀNH: Hiệp Thông - Tham Gia - Sứ Vụ | Thường huấn linh mục GP Ban Mê Thuột 2023

  Bài 1: Tầm Nhìn Hoàn Vũ | Thường huấn linh mục GP Ban Mê Thuột 2023

  ĐỨC TIN | Tròn Đầy & Trong Sáng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh

  Mục Vụ Văn Hóa: DANH - LỢI - NGHĨA | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh

  Cử Hành Phụng Vụ | Gặp Gỡ Chúa Kitô - Loan Báo Tin Mừng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn văn Hinh

  Thần Học Mục Vụ & Công đồng Vatican II: Con người - Giáo hội - Môi trường

  Hiệp Hành Hội Ý Dựng lại Mùa Xuân | Người Giáo dân Thiên niên kỷ mới

  Bài 4: Văn Hóa Tổ Chức - Đời Sống Cá Nhân

  Hiệp Hành Kín Đáo và Minh Bạch

  Văn Hóa Tổ Chức - Tổ Chức Cộng Đồng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh (Phần 3)

  Tìm hiểu về văn hóa (Phần 2) - Lm Gioan Kim Nguyễn Văn Hinh

  Tìm hiểu về văn hóa (Phần 1) - Lm Gioan Kim Nguyễn Văn Hinh

  TRỰC TUYẾN BÀI 29: MỤC VỤ THÁNH THIỆN THUẬN THEO

  TRỰC TUYẾN BÀI 28 : MỤC VỤ TÍCH HỢP VĂN HÓA ĐÔNG TÂY

  TRỰC TUYẾN BÀI 27 : MỤC VỤ LỜI CHÚA NGÀY NAY

  TRỰC TUYẾN BÀI : TÌM HIỂU VỀ VĂN HÓA VÀ BẢN SẮC VĂN HÓA VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 26: MỤC VỤ ĐẠO ĐỨC KINH TẾ DỊCH VỤ

  TRỰC TUYẾN BÀI 25: MỤC VỤ TUẦN THÁNH UY VÀ ĐỨC

  TRỰC TUYẾN BÀI 24: MỤC VỤ GIA TÀI CỦA MẸ

  TRỰC TUYẾN BÀI 23: MỤC VỤ BỔ VÀ TẢ

  mvgd20162016

  TRỰC TUYẾN BÀI 21: MỤC VỤ LUẬT CÂN BẰNG

  TRỰC TUYẾN BÀI 20: TRUY TÌM MÃNH LỰC

  TRỰC TUYẾN BÀI 19: THẾ GIỚI HÔM NAY CẦN NHỮNG NGƯỜI CHA NHÂN HẬU LÝ TƯỞNG VÀ THỰC TIỄN

  TRỰC TUYẾN BÀI 18: NĂM THÁNH THÁNH CẢ GIUSE LÃNH ĐẠO VÀ NIỀM TIN

  TRỰC TUYẾN BÀI 17: MỪNG XUÂN TÂN SỬU 2021 - LÒNG BIẾT ƠN TIN VUI ĐẠO ĐỨC VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 17: MỪNG XUÂN TÂN SỬU 2021 - LÒNG BIẾT ƠN TIN VUI ĐẠO ĐỨC VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 16: ĐỀ TÀI ĐIỂM TỰA

  TRỰC TUYẾN BÀI 14: VĂN HÓA KHÔNG NHẬN SAI NHƯNG SỬA SAI

  TRỰC TUYẾN BÀI 13: VUN TRỒNG NỀN VĂN HÓA “TÂM LINH – KHOA HỌC”

  TRỰC TUYẾN BÀI 12: NĂM MỚI 2021 XÂY DỰNG NỀN VĂN MINH TÂM LINH & KHOA HỌC

  TRỰC TUYẾN BÀI 11: GIÁNG SINH 2020 - LÀM NGƯỜi - GIÊSU

  TRỰC TUYẾN BÀI 10: PHÍA ĐẰNG SAU TÂM LINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 9: ĐỂ CÓ CHÚA THÁNH THẦN

  TRỰC TUYẾN BÀI 8: LOAN BÁO TIN MỪNG

  TRỰC TUYẾN BÀI 7: PHÒNG ĐÀO LUYỆN TÂM LINH CỦA TÍN HỮU DÂN CHÚA

  TRỰC TUYẾN BÀI 6: ĐÀO LUYỆN TÍN HỮU DÂN CHÚA

  TRỰC TUYẾN BÀI 5: TẦM NHÌN THIÊN NIÊN KỶ MỚI

  TRỰC TUYẾN BÀI 4: ĐÀO LUYỆN TÂM LINH BẮT ĐẦU TỪ THÁNH THỂ HAY THÁNH KINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 3: PHƯƠNG THỨC CẦU NGUYỆN CẢM NGHIỆM- SỐNG THÁNH GIỮA ĐỜI

  TRỰC TUYẾN: BÀI 2: GIẢI THÍCH ĐÀO LUYỆN TÂM LINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 1: ĐÀO LUYỆN TÂM LINH

  TintucVatican

  Thánh Lễ Tuyên Thánh Jacinta và Francisco Marto

  Muối và ánh sáng

  Thế Giới Nhìn Từ Vatican

  Nghi thức đóng Cửa Thánh

  Xin Mẹ Thương

  Thế Giới Nhìn Từ Vatican

  Suy Niệm với Đức Thánh Cha Phanxicô

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__3

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__1

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__2

  Thường huấn HĐMVGX Ban Mê Thuật

  Quốc tế thiếu nhi 01-6-2014

  Thể dục Dưỡng Sinh

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  CƠM TRƯA TRUNG THU 2013

  Thi đấu thăng cấp sơ đẳng Vovinam

  Khai mạc kỳ thi thăng cấp Vovinam

  Vovinam

  Đào luyện tâm linh

  Nghệ thuật cân bằng

  Đào Luyện Tinh Thần

  Đào Luyện Thể Chất

Bài viết mới
BÀI GIẢNG ĐỨC THÁNH CHA - CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN NĂM B
BÀI GIẢNG ĐỨC THÁNH CHA - CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN NĂM B.
ỦY BAN GIÁO DÂN - THƯỜNG HUẤN THÁNG 07/2024: TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN - MUỐI VÀ ÁNH SÁNG CHO THẾ GIỚI avatar Ủy ban Giáo dân 01/07/2024 Giáo hội là Dân Thiên Chúa, nơi mỗi người tín hữu, dù là giáo sĩ hay giáo dân, đều đóng góp vai trò không thể thiếu trong sứ mạng loan báo Tin Mừng. Chủ đề “Tông đồ giáo dân: Muối và ánh sáng cho thế giới” tập trung vào việc khai triển và cổ võ vai trò của giáo dân trong việc trở thành muối ướp mặn đời và ánh sáng soi sáng trần gian. Ủy ban Giáo dân Hội đồng Giám mục Việt Nam THƯỜNG HUẤN THÁNG 07/2024: TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN: MUỐI VÀ ÁNH SÁNG CHO THẾ GIỚI BÀI 1: HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN DỰA TRÊN LỜI CHÚA - Phanxicô Xaviê Nguyễn Thái BÀI 2: SỐNG TIN MỪNG TRONG ĐỜI THƯỜNG – Lm. Antôn Hà Văn Minh BÀI 3: BIẾN ĐỔI THẾ GIỚI TỪ BÊN TRONG - Lm. Tôma Vũ Ngọc Tín, S.J. BÀI 4: LÒNG CAN ĐẢM VÀ SỰ KHÔN NGOAN KHI DẤN THÂN VÀO ĐỜI SỐNG TRẦN THẾ - Lm. Tôma Vũ Ngọc Tín, S.J. BÀI 1: HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN DỰA TRÊN LỜI CHÚA - Phanxicô Xaviê Nguyễn Thái “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. “Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá. Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành” (Mt 7, 21.24 – 27). Đọc đoạn Tin Mừng trên cho chúng ta thấy: sống Tin Mừng trong đời thường là một hành trình đức tin mà qua đó, người Kitô hữu áp dụng lời dạy của Chúa Giêsu vào cuộc sống hàng ngày. Yêu Chúa không chỉ là tham dự các thánh lễ, các giờ kinh, mà phải thi hành ý muốn của Chúa Cha qua việc lãnh nhận các bí tích thường xuyên và qua cách chúng ta tương tác với mọi người xung quanh, cách chúng ta hành xử với thử thách và cách thực hiện các quyết định. Dưới đây là một số suy tư của giáo dân và một số cách để sống Tin Mừng trong đời thường: 1. Suy niệm và cầu nguyện với Lời Chúa: chúng ta không thể kết hiệp mật thiết với Chúa mà không cầu nguyện với Ngài. Việc dành thời gian mỗi ngày để suy niệm và cầu nguyện với Lời Chúa giúp nuôi dưỡng tâm hồn chúng ta ngày càng trở nên thánh thiện hơn, yêu Chúa nhiều hơn và được Chúa hướng dẫn hành động. 2. Yêu thương tha nhân là yếu tố quan trọng khi ta sống theo Tin Mừng. Yêu thương mọi người xung quanh mình, cho dù họ là ai, tôn giáo nào, giàu hay nghèo. “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” ( Ga 15, 12 ). Điều này áp dụng qua việc giúp đỡ những người nghèo khó, an ủi những người đang gặp khó khăn, và chia sẻ cho cộng đồng đang cần đến tình thương của mình. 3. Hiền lành và khiêm nhường: là ứng xử một cách nhẹ nhàng, không gây ra xung đột, luôn lắng nghe và tôn trọng ý kiến của người khác, và tìm cách giải quyết mọi vấn đề một cách dịu dàng và an bình. Tuy nhiên, hiền lành và khiêm nhường không đồng nghĩa với sự yếu đuối, mà chính là một cách để thể hiện sự mạnh mẽ và tự tin của bản thân thông qua sự kiểm soát cảm xúc và nhận thức. 4. Sống công bằng và bác ái: cố gắng sống công bằng với mọi người, không phân biệt đối xử, không chỉ dựa trên sự thỏa thuận mà dựa trên giá trị cốt lõi là phẩm giá con người, và thực hiện các hành động bác ái, như viếng thăm người đau yếu, quyên góp cho từ thiện, chia sẻ Chúa cho anh em, tham gia phục vụ cộng đồng dân Chúa cũng như cộng đồng xã hội. 5. Kiên nhẫn tha thứ: sống theo Tin Mừng đòi hỏi lòng kiên nhẫn và sẵn lòng tha thứ, dù trong những hoàn cảnh khó khăn nhất. Tha thứ đến cùng, tha thứ không giới hạn cho những lỗi lầm của người khác. Lý do chính mà chúng ta làm là vì Chúa đã tha thứ cho mỗi người chúng ta. 6. Chia sẻ niềm vui: sống vui tươi, dịu dàng với mọi người qua lối sống khó nghèo, tìm kiếm sự hài lòng, phấn khởi trong những điều giản dị và ý nghĩa của cuộc sống. 7. Sống Tin Mừng trong đời thường là chúng ta làm chứng về một Đức Giêsu con Thiên Chúa đã xuống trần gian, chịu chết và sống lại cho chúng ta được sống và được sống lại. Chứng nhân không chỉ trong một giai đoạn của cuộc sống nhưng là một đời Kitô hữu được kết hiệp với Chúa, bằng nguồn sống của Chúa. Qua hành động và lời nói hàng ngày, qua cách sống và tương tác với tha nhân làm sao bày tỏ được tình yêu và lòng thương xót của Chúa. Những suy tư Sống Tin Mừng trong đời thường không chỉ là làm một số việc đạo mà là cách sống thánh thiện và yêu thương mọi người xung quanh. Mỗi người cần gìn giữ và phát triển niềm tin của mình để sống đúng lý tưởng và hạnh phúc theo tinh thần của Tin Mừng. Sống Tin Mừng trong đời thường không phải lúc nào cũng dễ dàng, mỗi người giáo dân có cách sống Tin Mừng trong cuộc sống của họ một cách khác nhau. Nhiều giáo dân chưa mở lòng nên không nhận được ơn Chúa. Họ sống khép kín, không tham gia vào giáo xứ hoặc nếu có cũng chỉ là hình thức. Có những người không biết về Tin Mừng hoặc có biết qua loa thì cũng chưa áp dụng Tin Mừng vào cuộc sống, có khi còn không dám cho người khác biết mình là người Công Giáo, không dám sống đức tin của mình. Những người giáo dân khác sống theo lời dạy của Chúa Giêsu và thực hành lòng nhân từ, yêu thương và tha thứ. Trong khi một số khác có thể gặp khó khăn trong việc áp dụng những giá trị đạo đức từ Tin Mừng vào cuộc sống hàng ngày. Tuy nhiên, quan trọng nhất là họ luôn cố gắng học hỏi và phát triển trong đức tin của mình để trở thành những người sống theo Tin Mừng mẫu mực. Được như thế là giáo dân cũng đang tham gia vào đời sống của Giáo Hội, dần dần góp phần xây dựng một Giáo Hội hiệp hành và một thế giới tốt đẹp hơn. Hồi Tâm 1/ Làm cách nào giúp mọi người Công Giáo, hay ít nhất là những người đi lễ mỗi tuần có thể học, suy niệm và cầu nguyện với Tin Mừng? Nếu đang làm việc trong Hội đồng mục vụ giáo xứ hay trong các Hội đoàn Công giáo tiến hành, bạn sẽ làm gì? 2/ Chứng nhân Tin Mừng trong đời thường là phương cách hữu hiệu giúp người khác dễ dàng sống theo gương, bạn có thể chia sẻ chứng nhân trong những buổi họp, hay những lúc riêng tư cho những người chung quanh không? 3/ Trong đời thường, bạn làm gì để bày tỏ lòng yêu mến Chúa qua tha nhân? BÀI 2: SỐNG TIN MỪNG TRONG ĐỜI THƯỜNG – Lm. Antôn Hà Văn Minh Qua Bí tích Rửa tội, người tín hữu được dự phần vào sứ vụ của Chúa Giêsu. Sứ vụ đó chính làm cho mọi người nhận biết ơn cứu độ của Thiên Chúa Cha tỏ bày cho nhân loại qua Đức Giêsu Kitô. Thi hành sứ vụ chính là sống Tin Mừng giữa lòng thế giới, cụ thể trong cuộc sống thường ngày của mỗi tín hữu. Công Đồng nói về cảnh sống trần thế của giáo dân bằng cách trình bày cảnh sống ấy, trước tiên, như là môi trường trong đó họ được Thiên Chúa mời gọi: “Đó là nơi Thiên Chúa gọi họ” (LG số 31). Và thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã giải nghĩa: “nơi” được trình bày bằng những hạn từ có tính cách năng động: giáo dân sống giữa trần gian, nghĩa là dấn thân vào tất cả cũng như từng công việc và bổn phận của trần thế, giữa những cảnh sống thường ngày trong gia đình và ngoài xã hội, tất cả những điều đó như dệt thành cuộc sống của họ. Đó là những con người có một đời sống bình thường trong trần gian, học hỏi, làm việc, thiết lập những tương quan bạn bè, xã hội, nghề nghiệp, văn hóa”[1]. Sống Tin Mừng là gì? Trích dẫn Lời Chúa: “Chính anh em là muối cho đời… là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,13–14), Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã trình bày: “Lời mời gọi của Chúa Giêsu chính là sứ mạng của người tín hữu sống trong thế giới này. Người Kitô hữu không coi thế gian là địa ngục, là nơi giam cầm của những nỗi thống khổ, cũng như không coi thế gian là hạnh phúc vĩnh cửu cho cuộc đời mình, nhưng là nơi để Thiên Chúa tỏ lộ tình yêu của Ngài qua sự cộng tác của con người, và là nơi để con người được thực thi ơn gọi và sứ mạng Kitô hữu của mình trong một tình yêu dấn thân và thánh hóa thế giới: Tham dự vào lãnh vực trần thế, là phận vụ phát xuất từ bản tính nội tại và sứ mạng của mình”[2]. Vì thế, sống Tin Mừng chính là huấn luyện bản thân nhuần thấm Tin Mừng để có thể thực thi ơn gọi của mình cách trọn hảo. Thiên Chúa muốn người tín hữu trở thành muối, thành ánh sáng cho thế giới bằng chính đời sống Tin Mừng của mình, hay nói cách khác người tín hữu dấn thân phục vụ để trần gian nhận biết tình yêu của Ngài dành cho nhân loại, một tình yêu trọng đại đã được thánh Gioan diễn tả: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời” (Ga 3, 16). Nhưng để có thể sống Tin Mừng, dấn thân phục vụ cho Tin Mừng, đòi hỏi người tín hữu phải là người thấm đẫm Tin Mừng. Chỉ là men Tin Mừng khi người hữu phải đầy “chất” Tin Mừng. Vì thế, sống Tin Mừng trước tiên phải kết hợp mật thiết với Đức Kitô, vì Ngài chính là Tin Mừng. Vì thế, cuộc gặp gỡ với Tin Mừng là nền tảng cho việc sống Tin Mừng. Điều đó được thực hiện trước tiên chính là cuộc gặp gỡ Lời qua Kinh Thánh. Công đồng Vatican II trong hiến chế Mạc khải đã minh định: Chúa Cha muốn gặp gỡ con cái mình và ngỏ lời với họ qua Sách Thánh. Như vậy, tiếp cận với Lời Chúa, đọc Thánh Kinh là đi vào một cuộc gặp gỡ, tham gia một cuộc đối thoại với Thiên Chúa[3]. Quả thật việc đọc Thánh Kinh là cách thế tuyệt hảo để có được cuộc đối thoại với Thiên Chúa, vì “chúng ta ngỏ lời với Ngài khi cầu nguyện, và chúng ta nghe Ngài nói lúc chúng ta đọc các sấm ngôn thần linh”[4]. Trong Tông Thư “Khởi Đầu Ngàn Thứ Ba”, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II viết: “Lời Chúa phải trở nên một sự gặp gỡ ban sự sống, theo truyền thống xa xưa và luôn vững chắc về việc đọc Sách Thánh, cho phép rút ra từ bản văn Thánh Kinh Lời Hằng Sống, là lời chất vấn, hướng dẫn và hình thành cuộc sống chúng ta” (số 39)[5]. Người tín hữu chỉ có thể là men Tin Mừng, khi đời sống được đặt trên nền tảng Lời Chúa, không thường xuyên cầu nguyện với Lời Chúa không thể nào hoán cải cuộc đời để có thể làm cho đời mình trở thành men Tin Mừng. Dựa vào hoạt động của Giáo Hội tiên khởi được tường thuật trong sách Tông đồ công vụ, Đức Thánh cha Phanxicô nói: “Chúng ta khám phá động cơ mạnh mẽ của việc loan báo Tin Mừng chính là những buổi quy tụ cầu nguyện, nơi những người tham gia cảm nghiệm cách sống động sự hiện diện của Chúa Giêsu và được Chúa Thánh Thần đánh động. ...Lời cầu nguyện truyền lan ánh sáng và sự hăng hái: ân sủng của Chúa Thánh Thần làm nảy sinh trong lòng họ sự nhiệt thành”[6]. Dĩ nhiên việc tiếp cận Lời Chúa phải gắn chặt với Thánh Thể. Đức Thánh cha Phanxicô đã nói mạnh mẽ: Chỉ trong sự tôn sùng Thánh Thể, chỉ trước mặt Chúa, hương vị và sự say mê truyền giáo mới có thể được phục hồi. Lòng tôn sùng Thánh Thể là động lực giúp cho chúng ta vượt thắng những phong ba bão táp của cuộc đời, đặc biệt đó là nguồn khích lệ cho những người hết lòng chia sẻ Tin Mừng, chính vì trong Bí tích Thánh Thể, “chúng ta gặp gỡ Đấng đã ban mọi sự cho chúng ta” và đến lượt mình, chúng ta trở nên có khả năng chia sẻ tình yêu đó với người khác[7]. Để có thể sống Tin Mừng hầu trở thành men của Tin Mừng, chúng ta cần phải liên kết chặt chẽ với Chúa Kitô qua Lời Chúa, Thánh Thể và cầu nguyện và sống tình huynh đê. Bốn yếu tố: Lời Chúa, tìm kiếm tình hiệp thông huynh đệ, Thánh Thể và cầu nguyện, theo Đức Thánh Cha Phanxicô, chính là tiêu chuẩn để phân định một sự việc. Bất cứ trường hợp nào thiếu những yếu tố này điều thiếu tính Giáo hội, không phải của Giáo hội, yếu tố quan trọng để chứng thực chúng ta thực sự là Men của Tin Mừng.[8] Sống Tin Mừng giữa đời thường Nhìn vào thực tế, trăn trở lớn của Giáo Hội Việt Nam là vấn đề Loan Báo Tin Mừng. Thật vậy, con số tín hữu Việt Nam đến nhà thờ dâng lễ mỗi Chúa Nhật có thể nói cho đến lúc này vẫn đáng tự hào, thế nhưng niềm tự hào này có thực sự là niềm vui đích thực không? Bởi nhìn vào cánh đồng truyền giáo mỗi địa phương vẫn còn ngổn ngang, vẫn còn có qua nhiều người chưa được tiếp cận với Tin Mừng, vẫn còn đó nhưng lương dân là hàng xóm của các gia đình Công giáo, nhưng họ chẳng nghe nói về Chúa Giêsu, không một lần tiếp cận được với Tin Mừng. Câu trả lời được tìm thầy nơi lối sống của người tín hữu Công giáo. Là men Tin Mừng, nhưng họ lại không thể hiện lối sống Tin Mừng ngay trong môi trường mình sinh sống. Họ tách rời đức tin và cuộc sống thường ngày, họ đóng khung lối sống Tin Mừng trong nhà thờ, họ không làm cho men Tin Mừng được dậy lên trong người môi trường mình sống. Cha mẹ vẫn đi dâng lễ ngày Chúa nhật, nhưng chưa một lần hướng dẫn con cái về đời sống đức tin. Người tín hữu vẫn thường xuyên gặp gỡ bạn bè là lương dân, nhưng chưa một lần họ nghe về Chúa Giêsu, nhiều khi còn tệ hơn, để làm vui lòng bạn bè lương dân, người Công Giáo sẵn sàng bỏ đi lễ Chúa nhật; ngoài phố chợ, những chủ cửa hàng Công Giáo vẫn ngần ngại thể hiện lối sống Tin Mừng để giữ đức công bình và đức yêu thương... Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhấn mạnh: “Người tín hữu không được mời gọi rời bỏ vị thế họ đang sống nơi trần gian. Thực vậy, Bí tích Thánh Tẩy không kéo họ ra khỏi trần gian, như thánh Phaolô đã nhấn mạnh: ‘Thưa anh em, khi được kêu gọi ở địa vị nào, mỗi người cứ ở địa vị đó trước mặt Thiên Chúa’ (1 Cr 7,24); trái lại, Ngài trao cho họ một ơn gọi có liên hệ đích thực với tình huống của họ trong trần gian: thực vậy, giáo dân được ‘Thiên Chúa kêu gọi để, dưới sự hướng dẫn của tinh thần phúc âm, như men từ bên trong, họ thánh hóa thế giới bằng việc thi hành những nhiệm vụ của mình; và như thế, với lòng tin cậy mến sáng ngời, nhất là với chứng tá đời sống, họ tỏ lộ Chúa Kitô cho kẻ khác’ (Tông huấn Người Tín hữu Giáo dân, số 15) Cha Mến kể câu chuyện: Chứng nhân trong đời thường như sau: Nhà giáo dục vĩ đại Booker T. Washington có viết như sau trong cuốn tự thuật mang tựa đề: “Từ ách nô lệ đi lên” của ông: “Càng lớn tôi càng tin chắc rằng, không một sự giáo dục nào có thể gặt hái được từ sách vở, hay từ những dụng cụ đắt tiền, mà có thể sánh ví được với những gì ta có thể gặt hái được, do tiếp xúc với các bậc vĩ nhân”. Cách đây ít lâu, một phụ nữ Ấn độ giáo đã trở lại Công giáo, sau một thời gian nghe rao giảng Lời Chúa. Bà chịu nhiều gièm pha, đay nghiến từ người chồng và bao người thân, do việc bà trở lại đạo. Có lần cha xứ hỏi bà: “Khi chồng con nổi giận và hành hạ con, thì con làm gì”? Bà đáp: “Thưa Cha, con cố gắng nấu ăn ngon hơn. Khi ông than trách, con lau chùi nhà sạch hơn. Khi ông ăn nói cộc cằn, con trả lời ôn tồn nhỏ nhẹ. Con cố gắng để chứng tỏ cho ông ta thấy: Khi con trở lại đạo Chúa, con phải là người vợ và người mẹ tốt hơn”. Một thời gian sau, chính ông chồng cũng xin trở lại đạo Công giáo, không phải vì lời giảng của cha xứ, cho bằng chính nhờ gương sáng sống đạo của bà vợ đạo đức của ông.[9] Sắp tới đây Đức Thánh cha Phanxicô sẽ phong thánh cho chân phước Carlo Arcutis, một vị thánh trẻ, được gọi vị thánh thuộc thế hệ Y. Thánh nhân có gì đặc biệt? Không có gì đặc biệt ngoài việc ngài sống Tin Mừng giữa đời thường. Đức hồng y Vallini trong bài giảng lễ phong chân phước đã nói về Carlo Arcutis như sau: Carlo có lòng yêu mến Thánh Thể và gắn bó với Thánh Thể cách đặc biệt. Chúa Giêsu là Bạn, là Thầy, là Đấng Cứu Độ và là sức mạnh cho cuộc sống của Acutis và là động lực của mọi việc cậu làm. Từ đó, Carlo mong muốn mãnh liệt đưa người khác đến với Chúa và cậu làm điều này trên hết bằng gương mẫu cuộc sống. Carlo dùng mọi cách, cả cách thức hiện đại, với tài năng về tin học Chúa ban, để gặp gỡ và loan truyền các giá trị Kitô giáo cho người khác[10]. BÀI 3: BIẾN ĐỔI THẾ GIỚI TỪ BÊN TRONG - Lm. Tôma Vũ Ngọc Tín, S.J. Đời sống Kitô hữu giữa lòng trần thế như những hạt muối tinh tế thấm vào lòng đời, lặng lẽ làm biến đổi thế giới, như men trong bột làm dậy lên cả khối bột. Hành trình hy vọng nhưng cũng đầy thách đố này đòi hỏi sự biến đổi sâu sắc từ bên trong tâm hồn và đời sống mỗi người tín hữu. Khi mỗi người thay đổi từ nội tâm, họ trở thành ánh sáng lan tỏa, chiếu rọi khắp nơi, góp phần biến đổi thế giới bằng chính đời sống đức tin của mình. Theo Sắc Lệnh về Tông Đồ Giáo Dân, linh đạo tông đồ giáo dân không chỉ là sống đức tin một cách cá vị, mà còn là tham gia tích cực vào sứ mạng của Giáo Hội. Giáo dân được mời gọi trở thành những tông đồ giữa đời, mang Tin Mừng đến mọi nơi (Apostolicam Actuositatem-AA, 4). Linh đạo này giúp mỗi người giáo dân nhận ra rằng, họ có một vai trò đặc biệt trong việc xây dựng Nước Trời nơi trần thế, không chỉ qua lời nói mà còn qua hành động cụ thể trong cuộc sống thường ngày: “Bản chất riêng biệt của người giáo dân là sống giữa đời và làm việc đời nên chính họ được Thiên Chúa mời gọi để một khi tràn đầy tinh thần Kitô giáo, họ làm việc tông đồ giữa đời như men trong bột” (AA 2). Sống linh đạo tông đồ giáo dân như thế, trước hết người giáo dân gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu qua Lời Chúa và Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể là tâm điểm đời sống người tín hữu, nuôi dưỡng mỗi người trong hành trình Kitô hữu giữa đời, giúp mỗi người kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu và dấn thân phục vụ sứ mạng của Người: “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu, đó không chỉ là lời mời gọi, mà còn là một yêu cầu thiết yếu, để mỗi Kitô hữu có thể sống đức tin và thực thi sứ mạng của mình. Tham dự Thánh lễ, cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa,… là những phương thế giúp giáo dân nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của mình. Cầu nguyện giúp người giáo dân sống tình thân mật thiết với Chúa, trong khi suy niệm Lời Chúa giúp họ hiểu rõ hơn về ý nghĩa và sứ mạng của mình như được Chúa mời gọi. Kết hiệp với Chúa Giêsu qua Thánh Thể và Lời Chúa là những phương thế sống động để mỗi người trở nên men trong bột, biến đổi thế giới từ bên trong. Từ đời sống gắn kết với Chúa Giêsu, người giáo dân sống đức tin của mình qua những hành động cụ thể trong gia đình, nơi làm việc, và cộng đồng. Điều này có thể bao gồm việc tham gia vào các hoạt động xã hội, hỗ trợ người nghèo, bảo vệ môi trường, và tham gia vào các phong trào xã hội nhằm thúc đẩy công lý và hòa bình. Ý nghĩa của việc trở thành men trong bột là mỗi Kitô hữu đều có thể đóng góp một phần nhỏ nhưng quan trọng vào việc biến đổi thế giới xung quanh. Điều này đòi hỏi mỗi người phải sống đời sống đức tin một cách chân thật và nhiệt thành. Tình yêu và công lý là hai yếu tố không thể thiếu trong linh đạo giáo dân. Mỗi giáo dân được mời gọi sống yêu thương qua những hành động cụ thể, đồng thời nỗ lực thực thi công lý và xây dựng hòa bình. Các hoạt động xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc thực hành tông đồ giáo dân. Tham gia vào các hoạt động này không chỉ giúp mỗi người thực thi sứ mạng truyền giáo, mà còn góp phần xây dựng một xã hội công bằng và yêu thương hơn. Sau cùng, qua đời sống đức tin và dấn thân tông đồ, mỗi người góp phần xây dựng và phát triển cộng đoàn giáo xứ. Qua việc tham gia tích cực vào đời sống giáo xứ, giáo dân không chỉ đóng góp vào sự phát triển của cộng đoàn mà còn tạo ra một môi trường yêu thương và hiệp nhất. Một cộng đoàn yêu thương sẽ là nền tảng vững chắc để mỗi giáo dân có thể thực thi sứ mạng truyền giáo của mình một cách hiệu quả. Tóm lại, hành trình Kitô hữu giữa lòng trần thế là trở thành muối và men, âm thầm, trung kiên, nhẫn nại thấm vào mọi ngóc ngách của cuộc sống, làm biến đổi thế giới từ nội tại. Sống đức tin trong đời thường, thể hiện qua những hành động cụ thể trong gia đình, nơi làm việc và cộng đồng, là cách mỗi Kitô hữu trở thành men trong bột, biến đổi thế giới bằng tình yêu và công lý. Kết hiệp với Chúa qua cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa, cùng tham gia vào các hoạt động xã hội, là nền tảng để mỗi giáo dân góp phần xây dựng một xã hội công bằng và yêu thương, biến đổi thế giới từ bên trong. Hồi tâm 1/ Nhìn lại kinh nghiệm sống đạo, tôi thấy mình trở nên ánh sáng và muối và men trong môi trường sống như thế nào? Tôi có thể làm gì để thẩm thấu và lan tỏa tinh thần Kitô giáo trong gia đình, nơi làm việc, và cộng đồng của mình? 2/ Tôi cảm nghiệm thế nào về ơn gọi và sứ mạng Kitô hữu khi cầu nguyện và suy niệm lời Chúa? Làm thế nào tôi có thể biến những cảm nghĩ thiêng liêng ấy thành hành động cụ thể để xây dựng Nước Trời ngay cuộc sống đời thường của tôi? 3/ Khi đối diện với những thách thức trong cuộc sống và xã hội, tôi trải nghiệm thế nào về tình yêu và công lý như men trong bột, làm dậy lên sự thay đổi tích cực? Tôi có sẵn sàng dấn thân hơn nữa để trở thành người tông đồ truyền giáo giữa đời, lan toả tình yêu và công lý trong môi trường sống thường ngày? BÀI 4: LÒNG CAN ĐẢM VÀ SỰ KHÔN NGOAN KHI DẤN THÂN VÀO ĐỜI SỐNG TRẦN THẾ - Lm. Tôma Vũ Ngọc Tín, S.J. Lòng can đảm và sự khôn ngoan là hai phẩm chất quan trọng mà mỗi Kitô hữu cần có để sống và làm chứng cho đức tin trong đời sống trần thế. Lòng can đảm giúp chúng ta vượt qua những thử thách và khó khăn, dám đứng lên bảo vệ sự thật và công lý. Sự khôn ngoan, hướng dẫn chúng ta hành động một cách sáng suốt, biết phân định phải trái, đúng sai và chọn lựa đường hướng đẹp lòng Chúa. Trong một thế giới đầy biến động và thách thức, lòng can đảm và sự khôn ngoan trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Đối với giáo dân, hai phẩm chất này không chỉ giúp họ sống đức tin một cách mạnh mẽ và vững vàng mà còn đóng góp tích cực vào việc xây dựng một xã hội công bằng và nhân ái hơn. Lòng can đảm là một chủ đề được nhắc đến nhiều trong Kinh Thánh: “Mạnh bạo lên, can đảm lên! Đó chẳng phải là lệnh Ta đã truyền cho ngươi sao? Đừng run khiếp, đừng sợ hãi, vì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, sẽ ở với ngươi bất cứ nơi nào ngươi đi tới” (Gs 1,9). Lời khích lệ này không chỉ dành cho Thủ lãnh Giôsuê mà còn dành cho tất cả chúng ta, những người đang sống và làm chứng cho đức tin. Lòng can đảm giúp chúng ta đứng vững trước những thử thách, bảo vệ niềm tin và dám sống theo những giá trị Tin Mừng trong một thế giới đầy cám dỗ, bạo loạn và bất công. Sự khôn ngoan cũng là một đức tính quan trọng được Kinh Thánh đề cao: “Nếu ai trong anh em thiếu đức khôn ngoan, thì hãy cầu xin Thiên Chúa, Người sẽ ban cho. Vì Thiên Chúa ban cho mọi người cách rộng rãi, không quở trách” (Gc 1,5). Sự khôn ngoan giúp chúng ta biết phân định đúng sai, tốt xấu, lựa chọn đường hướng đẹp lòng Chúa và hành động một cách sáng suốt trong mọi hoàn cảnh. Nó không chỉ là tri thức mà còn là khả năng ứng dụng tri thức đó vào cuộc sống một cách đúng đắn và hiệu quả tốt đẹp. Mỗi người vẫn thường đối diện với những thách đố và nghịch cảnh trong đời sống. Điều quan trọng là cách chúng ta đối diện và vượt qua chúng. Cuộc sống trần thế có muôn vàn cảnh huống mà ở đó, người giáo dân thể hiện lòng can đảm và sự khôn ngoan khi luôn tin cậy Chúa và đối diện khó khăn, chẳng hạn như việc bảo vệ sự thật và công lý trong môi trường làm việc, nơi có thể gặp phải những áp lực và cám dỗ. Lòng can đảm giúp chúng ta không lùi bước, trong khi sự khôn ngoan giúp chúng ta chọn lựa cách hành động phù hợp và hiệu quả. Đời sống đức tin không dừng ở việc tham dự các cử hành phục vụ mà còn sống theo những giá trị Kitô giáo trong đời sống thường ngày. Giáo dân có thể thể hiện lòng can đảm và sự khôn ngoan bằng cách làm gương sáng trong môi trường làm việc, trong gia đình, và trong cộng đồng. Những hành động cụ thể như giúp đỡ người khó khăn, bảo vệ môi trường, và tham gia vào các hoạt động từ thiện đều là những cách thể hiện đức tin một cách sống động và thực tế. Trong nhiều hoàn cảnh, lòng can đảm và sự khôn ngoan của người giáo dân có thể thể hiện trong vai trò lãnh đạo cộng đồng. Trong hoàn cảnh đó, lòng can đảm và sự khôn ngoan không chỉ giúp giáo dân đối mặt với những thách thức mà còn giúp họ hành động một cách sáng suốt và hiệu quả. Sau cùng, giáo dục con cái về lòng can đảm và sự khôn ngoan là một nhiệm vụ quan trọng của các bậc cha mẹ Công Giáo. Giáo dân có thể giúp con cái hiểu và thực hành hai phẩm chất này qua gương sáng trò chuyện thường ngày trước những vấn đề thực tế trong đời sống, giúp con cái phát triển lòng can đảm và sự khôn ngoan trong cuộc sống. Tóm lại, lòng can đảm và sự khôn ngoan là những phẩm chất không thể thiếu để mỗi Kitô hữu sống đức tin trong đời sống trần thế. Những phẩm chất này hằng giúp chúng ta vượt qua thử thách, bảo vệ sự thật và công lý, và hành động minh bạch, tư duy độc lập sáng suốt, mang lại ích lợi chính đáng cho bản thân và cộng đồng. Trong một thế giới đầy biến động, giáo dân cần lòng can đảm để kiên vững vượt qua những trở ngại và sự khôn ngoan để phân định và lựa chọn đúng đắn. Đó là hai phẩm chất giúp người giáo dân dấn thân sống đức tin giữa lòng trần thế, góp phần xây dựng đời sống xã hội thấm đượm Tin Mừng. Hồi tâm 1/ Trong những tình huống cụ thể nào, tôi thường cần đến lòng can đảm để bảo vệ sự thật và công lý? Tôi đã từng phản ứng ra sao và kết quả như thế nào? 2/ Làm thế nào tôi có thể áp dụng sự khôn ngoan để phân định đúng sai và đưa ra quyết định sáng suốt trong các hoạt động và công việc tại giáo xứ của mình? 3/ Nhớ lại một trải nghiệm khi lòng can đảm và sự khôn ngoan của người Công giáo đã tạo ra sự khác biệt tích cực trong cộng đồng xã hội? Tôi cảm nghĩ thế nào về sự dấn thân của người giáo dân, với lòng can đảm và khôn ngoan, vào đời sống xã hội? ________ [1] Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Tông Huấn Người Tín Hữu Giáo dân (Christifideles Laici), số 15. [2] Nt. [3]X. Hiến chế Mạc Khải (Dei Verbum), số 21 [4] X Hiến chế Mạc Khải (Dei Verbum), số 25. [5] Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông thư Ngàn Năm Thứ Ba (Millennio Adveniente), số 39> [6] Đức Phanxicô, buổi tiếp kiến chung trực tuyến sáng thứ Tư 25/11/2020), nguồn Vatican News. [7] Nguồn: www.ncregister.com/commentaries/without-adoration-there-s-no-evangelization [8] Nguồn: www.vaticannews.va/vi/pope/news/2020-11/ [9] Nguồn: https://linhmucmen.com/news/kho-sach-quy/chung-nhan-giua-doi-thuong [10] Nguồn: https://www.vaticannews.va/vi/church/news/2020-10/le-phong-chan-phuoc-carlo-acutis.html
ỦY BAN GIÁO DÂN - THƯỜNG HUẤN THÁNG 07/2024: TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN - MUỐI ...
LINH ĐẠO DUNG NẠP
LINH ĐẠO DUNG NẠP