Thứ bảy, ngày 06 tháng 07 năm 2024 | 07:10 AM - Giới thiệu | Ý nghĩa logo
Tài liệu

10 Điều Đức Giáo Hoàng Phanxicô Muốn Bạn Biết

 

(daminhvn.net) 15-25/09/2014

Trong ít ngày đầu tiên sau khi đắc cử giáo hoàng, Đức Phanxicô thu hút được sự tưởng tượng của thế giới, không phải vì bất kỳ chuyển động táo bạo nào về chính sách, dù vẫn đang diễn ra, nhưng đơn giản bởi nhân cách của ngài.

Trái với nghi thức tráng lệ và trọng thể dành cho giáo hoàng, ngài đã đi xe buýt cùng với các hồng y, thay vì dùng xe sang trọng, đã tự sắp xếp hành lý và trả tiền trọ khách sạn, và đứng bên ngoài cửa một nhà thờ giáo xứ tại Vatican trong trong ngày Chúa nhật đầu tiên để chào hỏi mọi người sau Thánh lễ giống như một cha xứ vậy. Đây có thể chỉ là những nét nhỏ bé, nhưng lại có sức thuyết phục hơn toàn thể những thông điệp giáo hoàng về một Giáo hội đơn sơ, khiêm nhường, để nối kết được với những người bình dân.

Tuy nhiên, chẳng sai lầm khi cho rằng, những điều này không phải là một sản phẩm của kẻ ngây ngô tình cờ gặp trong cung điện giáo hoàng, nhưng là của một thủ lĩnh dày dạn, đã suy xét kỹ càng và cẩn thận về mẫu giáo hoàng mà ngài muốn trở thành. Nói cách khác, đây là người có phong cách phản chiếu bản chất chân thực.

Hồng y Jorge Mario Bergoglio, 76 tuổi, là người có ý chí sắc bén, được huấn luyện trong dòng Tên, cũng như có kinh nghiệm lãnh đạo dày dạn ở nhiều vị trí khác nhau. Ngài đã đương đầu chống lại chế độ độc tài quân sự và các chính quyền thù nghịch. Ngài dẫn dắt các tín hữu trong đất nước ngài vượt qua một trong những cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng nhất đang xảy ra khắp nơi trên thế giới, đồng thời ngài cũng đóng vai trò trong diễn đàn toàn cầu với tư cách là người lãnh đạo các Giám mục Châu Mỹ Latinh.     

Bergoglio sinh ở Buenos Aires năm 1936. Thân phụ là người Ý nhập cư và là công nhân đường sắt từ vùng Tu­rin. Ngài có 4 anh chị em. Ban đầu, ngài dự định trở thành chuyên gia hóa học, nhưng thay vào đó, năm 1958 ngài gia nhập dòng dòng Tên và bắt đầu chương trình học để làm linh mục. Thời gian đầu, ngài dạy văn chương, tâm lý, triết học, và sớm được xem như một ngôi sao đang lên trong lĩnh vực này. Từ năm 1973 đến 1979, ngài là giám tỉnh dòng Tên tại Ácgentina, sau đó, năm 1980  trở thành giám đốc chủng viện nơi ngài đã từng theo học. 

Mặc dù các tu sĩ dòng Tên thường không muốn nhận các chức vụ do Giáo hội ban tặng, nhất là không phải tại các vùng truyền giáo, cha Bergoglio đã được bổ nhiệm làm giám mục phụ tá tổng giáo phận Buenos Aires năm 1992, và sau đó, năm 1998, kế vị đức hồng y Antonio Quarracino đang đau yếu. Năm 2001, Đức Gioan Phaolô II vinh thăng tổng giám mục Bergoglio lên hồng y, ấn định cho ngài tước hiệu nhà thờ thánh Robert Bellarmin, một tu sĩ dòng Tên danh tiếng.

Theo ý kiến chung, hồng y Bergoglio đã mạnh mẽ ủng hộ việc bầu chọn hồng y Joseph Ratzinger làm giáo hoàng Bênêđictô XVI, trong mật nghị năm 2005. Mặc dù hồng y Bergoglio không nằm trong danh sách có nhiều điểm “A” trong thời gian mật nghị (năm 2013), thế nhưng, ngài đã được bầu chọn chỉ trong 5 vòng phiếu. Ngài trở thành nhà lãnh đạo tinh thần của một tỉ hai trăm triệu tín hữu Công giáo trên khắp thế giới, sau lời công bốHabemus Papam đầy ấn tượng vào lúc 8 giờ 12 phút giờ Rôma, tối ngày 13 tháng 3 năm 2013.

Từ đó, Đức Phanxicô đã làm cho nhiều tâm hồn rung động khi đi bộ đến những nơi cần, thay vì dùng xe hơi sang trọng, cũng như rời lễ đài để chào hỏi dân chúng chứ không buộc dân chúng đến với mình. Điều quan trọng cần hiểu là những chọn lựa này không phải là phong cách riêng đầy quyến rũ của một “giáo hoàng tình cờ”, nghĩa là một phản ứng thiếu suy nghĩ của kẻ liều lĩnh đảm nhận công việc. Đúng hơn, đó là hoa trái của đời sống suy tư về việc là người đại diện Chúa Kitô trong thế giới ngày nay nghĩa là gì.  

Đức Phanxicô muốn dạy chúng ta điều gì ngay từ những ngày đầu tiên trên ngai tòa thánh Phêrô? Thông điệp này có thể được diễn tả bằng mười điều mà Đức Phanxicô, giáo hoàng thứ 266 của Giáo hội Công giáo, muốn bạn biết. 

Nguyên tác :  John L. Allen, Jr., 10 Things Pope Francis Wants You to Know, Liguori, Missouri: Ligouri, 2013.

Chuyển ngữ : Học Viện Đa Minh



1. Một Giáo hội nghèo cho người nghèo

Vào ngày 16 tháng Ba năm 2013, trong cuộc gặp gỡ với khoảng 6.000 nhà báo ở khắp nơi đang hiện diện tại Rôma để đưa tin về việc bầu cử giáo hoàng, Đức giáo hoàng đã chia sẻ lý do ngài chọn tướchiệu Phanxicô là để tôn vinh vị thánh Phanxicô thành Átxidi, mà chuyện tình của thánh nhân với “Bà Chúa Nghèo” là một huyền thoại. Sau đó, Đức tân giáo hoàng đã phát biểu, bằng một câu ám chỉ toàn bộ chương trình lãnh đạo của ngài: “Tôi muốn một Giáo hội nghèo cho người nghèo!”

Vậy nên, điều đầu tiên Đức Phanxicô muốn bạn biết, đó là Chúa Kitô đến để ban tặng tình yêu và ơn cứu độ cho hết thảy mọi người, nhưng nhất là cho người nghèo. Vì thế, trở thành Kitô hữu có nghĩa là, một cách đặc biệt, không bao giờ quên người nghèo, là đảo lộn hệ thống giá trị của thế giới rộng lớn, đồng thời đặt người nghèo và người bị lãng quên vào trung tâm của sự chú ý.   

Vào ngày 19 tháng Ba năm 2013, Đức Phanxicô đã lấy mối quan tâm đến người nghèo làm chủ đề chính cho bài giảng thánh lễ khai mạc triều đại giáo hoàng của mình, khi khẳng định “sức mạnh đích thực là phục vụ”, đặc biệt phục vụ “những người nghèo nhất, yếu đuối nhất, và ít quan trọng nhất”. Để chắc chắn chẳng ai quên điểm này, ngài cũng đã lặp lại trong mẩu tin thứ ba trên twitter kể từ khi nhận chức vụ, được gửi đi không bao lâu sau khi Thánh lễ này kết thúc.  

Khuynh hướng này không phải là điều gì đó vừa đến với Đức Phanxicô sau khi  được bầu làm giáo hoàng, nhưng phản chiếu tư tưởng và sự lãnh đạo trong toàn bộ sự nghiệp của ngài. 

Trong hội nghị các giám mục châu Mỹ Latinh năm 2007,  vị giáo hoàng tương lai nói: “Chúng ta sống trong khu vực bất bình đẳng nhất của thế giới, nơi có sự phát triển tột bậc nhưng tình trạng nghèo khổ lại giảm đi ít nhất”. 

“Sự phân phối bất công của cải vẫn tồn tại, tạo nên tình trạng tội lỗi mang tính xã hội, tình trạng ấy kêu thấu trời xanh và làm cho quá nhiều anh chị em chúng ta không có khả năng đạt được một cuộc sống đầy đủ hơn.”  

Nghèo đói về kinh tế không phải là mối quan tâm duy nhất của ngài. Ngài còn chìa tay ra tới những người sống trong một dạng bần cùng xã hội, bị người khác dán nhãn là đáng sợ hoặc nguy hiểm.   

Chẳng hạn, vào năm 2001, ngài thăm viếng một nhà tế bần, ở đó ngài hôn và rửa chân cho 12 bệnh nhân AIDS; hình ảnh về vị giáo hoàng tương lai thực hiện việc này đã trở thành một biểu tượng.   

Rõ ràng, tình yêu dành cho người nghèo không có nghĩa là hướng Kitô giáo vào một đảng phái chính trị, theo đuổi bất kể chương trình cải cách kinh tế hoặc xã hội đặc biệt nào. Với tư cách là nhà lãnh đạo trong dòng Tên vào những năm 70, cha Bergoglio thời đó đã nổi tiếng khi nhấn mạnh rằng việc hoán cải  của cá nhân phải ưu tiên hơn sự thay đổi cấu trúc.  

Nhưng chắc chắn, với tư cách là giáo hoàng đầu tiên của Châu Mỹ Latinh, và cũng là giáo hoàng đầu tiên từ thế giới đang phát triển, Đức Phanxicô hiểu rằng ngài mang nơi mình những khát vọng và ước ao của người nghèo trên thế giới. Ngài muốn trở thành diễn đàn cho những mối quan tâm của họ:  những bất công của nền kinh tế toàn cầu hóa, cuộc tàn sát do chiến tranh và bạo lực, sự hủy hoại môi sinh, và thuế má mà nền thương mại quốc tế đặt ra chống lại lợi ích của các nước nhỏ và nghèo hơn.  

Cũng vậy, Đức Phanxicô có lẽ cũng rất muốn bỏ đi một số trang phục truyền thống của chức vụ giáo hoàng vốn thể hiện sự giàu sang và đặc ân. Ngay lập tức, ngài khước từ việc mặc áo choàng trang điểm bằng lông chồn, gọi là  mozzetta, được treo ở tủ áo ở phòng Nước Mắt, lúcbước ra chào dân chúng sau khi đắc cử.  

Nói cách khác, “vị giáo hoàng cho người nghèo” này mong muốn một cam kết mới hướng tới người nghèo phải nằm ở trung tâm vai trò của Kitô giáo trong thế giới, và ngài muốn  vị giáo hoàng phải là người làm cho sứ điệp đó trở nên đáng tin. 

2. Khiêm Nhường

Đối với những ai có ký ức về chuyện xưa, những ngày đầu tiên của Đức Phanxicô, một cách kỳ lạ, làm cho người ta nhớ đến  ĐứcGioan Phaolô I, “vị giáo hoàng mỉm cười” trị vì 33 ngày vào năm 1978. Giống như Đức Phanxicô, “giáo hoàng Luciani” đánh động thế giới bằng một hình ảnh khiêm nhường đặc biệt, một người không nghĩ phải được tôn vinh vì vai trò quan trọng của chính mình trong chức vụ cao trọng nhất của Giáo hội.   

Đức Gioan Phaolô I chọn khẩu hiệu giáo hoàng là Humilitas (khiêm nhường). Thực vậy, theo đường hướng của Đức Phaolô VI, vị giáo hoàng đã từ bỏ mũ ba tầng và bán đi để giúp đỡ người nghèo, Đức Gioan Phaolô I là giáo hoàng đầu tiên không đội vương miện khi nhận chức, nhưng đã cử hành Thánh lễ khai mạc triều đạicách đơn giản hơn. Ngài cũng là giáo hoàng đầu tiên không sử dụng đại từ số nhiều theo cung cách triều đình, nhưng nói về mình bằng đại từ “Tôi” thay vì “chúng tôi” khi ngỏ lời với công chúng (mặc dù một số người thích truyền thống cố gắng dùng từ “chúng tôi” trong bản dịch chính thức các bài phát biểu của ngài). Ngài cũng cố gắng bỏ đi chiếc kiệu giáo hoàng (sedia gestatoria), hoặc ngai tòa di động, cho tới khi những người tùy tùng thuyết phục rằng điều này cần thiết để nhiều người có thể nhìn thấy ngài. (Cuối cùng, Đức Gioan Phaolô II đã hoàn toàn không sử dụng loại kiệu này nữa.)

Ngay tuần đầu tiên, Đức Phanxicô đã gây ấn tượng đối với những người lớn tuổi, vì ngài như là một phiên bản Ácgentina của giáo hoàng Luciani[1], nổi bật về phong thái khiêm nhường, và làm sáng tỏ chức vụ giáo hoàng. Ngài chọn cách đứng lên đón tiếp dân chúng và đứng ngang hàng với họ, chứ không ngồi trên ngai giáo hoàng, hay đứng ở một nơi cao hơn. Ngài kể những câu chuyện vui, tự sắp xếp hành lý và tự gọi điện thoại.  

Khi Đức Phanxicô lần đầu tiên được dẫn vào căn hộ giáo hoàng tại dinh Tông tòa, phản ứng đầu tiên của ngài là căn hộ này quá lớn – “300 người có thể sống ở đó!”, ngài nói vui.  Theo nhiều tài liệu, chúng ta đang nói về một người không chọn sống trong Tòa tổng giám mục sang trọng ở Buenos Aires, nhưng trong một căn hộ của người Xpactơ, nơi buộc phải dùng lò sưởi vào cuối tuần để giữ ấm bởi vì hệ thống sưởi của tòa nhà đã tắt. 

Khi ngỏ lời với Hồng y đoàn vào ngày 14 tháng Ba năm 2013, Đức Phanxicô đã ca ngợi “cử chỉ can đảm và khiêm nhường” của Đức Bênêđictô XVI khi từ chức. Ngài nói rằng điều đó nhấn mạnh một điểm then chốt là: “Chính Chúa Kitô lãnh đạo Giáo hội qua Thần Khí Người”.   

Khi nói như thế, ngài muốn khẳng định chính Chúa Kitô phải là trung tâm của sự chú ý, chứ không phải giáo hoàng. 

Phong thái khiêm nhường và đơn giản như thế nói lên nhân cách của Đức tân giáo hoàng, nhưng đó cũng là một phần trong chiến lược mang tính Tin mừng. Đức Phaolô VI có lần đã nói: “Con người hiện đại sẵn lòng nghe các chứng nhân hơn thầy dạy, và nếu họ lắng nghe các thầy dạy, thì đó là vì các thầy dạy đã là những chứng nhân”. Đức Phanxicô biết rằng, nếu Kitô giáo ra đi rao giảng tình yêu, quan tâm đến người nghèo, nhiệt thành đem lại công lý cho thế giới, thì những người lãnh đạo Kitô giáo phải được xem như những người ôm ấp các giá trị đó trong lối sống của mình - tất nhiên, phải bắt đầu với người lãnh đạo hữu hình cao nhất, đó là giáo hoàng.   

Tại Thượng hội đồng giám mục tháng 10 năm 2012 về Tân Phúc âm hóa, đức hồng y Luis Antonio Tagle của giáo phận Manila, Philippines đã trình bày một bài phát biểu đáng nhớ, trong đó, ngài khẳng định rằng nếu muốn phục hồi vận mạng truyền giáo trong đầu thế kỷ XXI, trước hết, Giáo hội sẽ cần ba phẩm chất: khiêm nhường, đơn giản và khả năng thinh lặng lớn hơn.  

Mặc dù, đức hồng y Tagle có lẽ không nghĩ về Đức Phanxicô, nhưng có thể có liên hệ đến lần ra mắt đầu tiên của Đức tân giáo hoàng vào tối 13 tháng Ba: Đức Phanxicô đã xuất hiện mà không sử dụng trang phục dành cho giáo hoàng theo truyền thống, ngài xin dân chúng cầu nguyện cho mình trước khi chúc lành cho họ, và sau đó, ngài quỳ gối, tạo nên một chuỗi thinh lặng ngập tràn đám đông trước đó đang ồn ào náo nhiệt.       

Nói cách khác, ngài đạt cả ba điều mà đức hồng y Tagle nêu ra, với sự khiêm nhường đứng hàng đầu.

3. Gần Gũi Dân Chúng

Mặc dù có lẽ Đức Phanxicô không ngừng quyến rũ  thế giới, nhưng ít nhất có một thành phần cảm thấy có chút gì đó khó xử cho tới nay: Đó là nhân viên an ninh Vatican, những người đang vất vả để theo kịp Đức giáo hoàng dường như kiên quyết hướng tới dân chúng hơn là xa rời họ.

Một nhân viên an ninh nói với tờ La Stampa của Ý vào ngày 18 tháng Ba: “Chúng tôi hy vọng rằng sau những ngày đầu tiên này, mọi sự trở lại bình thường, nếu không ngài sẽ làm cho mọi người điên lên mất!”

Dựa vào những bằng chứng ban đầu trong triều đại của Đức Phanxicô, tính từ “bình thường” theo nghĩa là một Đức giáo hoàng ở đằng sau hàng rào bảo vệ, có lẽ không còn đúng nữa.  

Trong những hình ảnh đáng chú ý nhất từ tuần đầu tiên khi ngài nhận chức vụ, có lẽ ấn tượng nhất là việc Đức Phanxicô thăm nhà thờ nhỏ nhất giáo phận Rôma, đó là nhà thờ giáo xứ thánh Anna, và cử hành Thánh lễ Chúa nhật tại đây vào ngày 17 tháng Ba, trước buổi đọc Kinh truyền tin đầu tiên trong cương vị giáo hoàng. Giáo xứ thánh Anna, do các tu sĩ Dòng Âutinh điều hành, là nơi khoảng 400 nhân viên làm việc ở Vatican sinh hoạt với những điều kiện của một đời sống giáo xứ bình thường thuộc nhiều hoàn cảnh khác nhau.   

Sau Thánh lễ, Đức Phanxicô đứng bên ngoài nhà thờ để chào hỏi mọi người khi họ rời nhà thờ, xoa đầu và hôn trẻ em, bắt tay và ôm hôn mọi người kèm theo vài lời ngắn gọn và mỉm cười với họ. Đó là hình ảnh diễn ra ở các giáo xứ Công giáo mọi nơi trên thế giới vào ngày Chúa nhật, nhưng tất nhiên, người ta hiếm khi được chứng kiến một Đức giáo hoàng làm như vậy. 

Báo chí Ý lập tức đặt cho ngài biệt danh là “cha xứ thế giới”.

Khát vọng không tách mình khỏi kinh nghiệm thông thường này là một dấu ấn trong những ngày đầu tiên của Đức Phanxicô. Chẳng hạn, khi lên xe dành cho giáo hoàng để quay lại khách sạn, nơi ngài đã trọ trước khi vào mật viện, ngài nhất quyết đi mà không cần đội hộ tống “đèn còi báo hiệu” của cảnh sát Ý, cũng chẳng muốn hạn chế giao thông quá mức, gây cản trở cho người dân đang lưu thông ở Rôma.

Điều tương tự cũng thể hiện vào sáng ngày 19 tháng Ba, ngày lễ trọng kính thánh Giuse, khi Đức Phanxicô cử hành Thánh lễ khai mạc triều đại giáo hoàng. Ngài di chuyển quanh quảng trường thánh Phêrô bằng chiếc xe  mui trần, chứ không phải xe dành cho giáo hoàng có kính chống đạn, và có lúc ngài bước xuống để ôm hôn một người tàn tật nào đó xen giữa đám đông. Mặc dù chiếc xe trần như thế có thể nguy hiểm hơn nhiều, nhưng Đức Phanxicô dường như tin rằng đó là cái giá phải trả để dân chúng cảm thấy gẫn gũi hơn với vị giáo hoàng của họ.

Cũng cần chú ý là khi ra mắt đám đông tại quảng trường thánh Phêrô vào tối 13 tháng Ba, Đức giáo hoàng không bao giờ quy cho mình là “giáo hoàng”, nhưng là giám mục Rôma. Vai trò như là một giám mục địa phương dường như khẩn thiết đối với ngài, đến nỗi trong buổi đọc kinh Truyền tin đầu tiên, ngài ngỏ lời với dân chúng hoàn toàn bằng tiếng Ý, mặc dù chắc chắn ngài có khả năng sử dụng một số ngôn ngữ khác, và ngài cũng nhắc đến một người cùng tên với ngài, đó là thánh Phanxicô, bổn mạng nước  Ý.

Căn cứ vào những gì chúng ta đã chứng kiến cho tới bây giờ, dường như rõ ràng Đức Phanxicô kiên quyết bao nhiêu có thể để tiếp xúc với dân chúng bình thường, không để cho chướng ngại nào đi kèm chức giáo hoàng ngăn cản ngài đến với những cuộc gặp gỡ thông thường, nơi mà các vị mục tử có thể hiểu được những gì dân chúng suy nghĩ và ước mong.  

Một khi khẳng định những điều trên xuất phát từ nhân cách của Đức giáo hoàng, thì cung cách ấy cũng phản chiếu tầm nhìn trong việc lãnh đạo của ngài nữa. Rao giảng Tin mừng nghĩa là gặp gỡ dân chúng nơi họ sống, có khả năng kết nối với những ngờ vực và thất bại của họ, hiểu biết những gì họ đem đến. Để làm điều đó, cần phải biết rõ và gần gũi dân chúng hơn nữa - một lời khuyên đúng đắn không chỉ đối với giáo hoàng, nhưng cho bất cứ ai hy vọng đem Chúa Kitô vào giữa lòng thế giới.

4. Không Bao Giờ Chối Bỏ Lòng Thương Xót Của Thiên Chúa

Tất cả các Đức giáo hoàng có khuynh hướng để lại một dấu ấn riêng, hoặc một phát biểu dường như tóm tắt sứ điệp các ngài đang cố gắng giảng dạy Giáo hội và thế giới trong thời đại mình. 

Đối với Đức Gioan Phaolô II, đó là câu nói “Đừng sợ”, một lời mời gọi Giáo hội Công giáo lấy lại lòng xác tín đầy can đảm khi rao giảng Tin mừng sau nhiều năm thu mình và tranh cãi nội bộ, tiếp sau Công đồng Vatican II. Đối với Đức Bênêđictô XVI, đó là thông điệp “Đức tin và Lý trí”, một luận chứng khẳng định lý trí con người và đức tin Chúa ban liên hệ “cộng sinh” và phụ thuộc vào nhau.  

Trước đó, câu nói của  Đức Phanxicô  khi còn là ứng viên sáng giá cho chức giáo hoàng dường như là: “Thiên Chúa không bao giờ mỏi mệt khi tha thứ cho chúng ta”.  

Nói cách khác, tư tưởng đặc sắc mà Đức Phanxicô giới thiệu như tiêu chuẩn của giai đoạn đầu tiên trong chức vụ giáo hoàng là lời nhắc nhở rằng, trước hết, Thiên Chúa là Thiên Chúa của lòng thương xót và trắc ẩn, Người luôn sẵn sàng và quảng đại để tha thứ đồng thời giúp kẻ tội lỗi bắt đầu lại.

Đức Phanxicô đã trình bày tư tưởng này ở trọng tâm bài giảng đầu tiên của ngài tại nhà thờ thánh Anna ngày 17 tháng Ba, và ngài còn nhắc lại trong buổi đọc Kinh truyền tin ngày hôm đó.

Trong Thánh lễ, Đức Phanxicô khẳng định: “Đối với tôi, và tôi khiêm nhường nói rằng, sứ điệp mạnh mẽ nhất của Chúa là lòng thương xót”.

Suy gẫm những lời cáo buộc người ta hướng vào Đức Giêsu trong các Tin mừng khi Người kết thân với kẻ tội lỗi, Đức Phanxicô nói: “Đức Giêsu hay quên. Người có khả năng hay quên đặc biệt. Người quên đi tội lỗi kẻ khác, Người ôm hôn, và chỉ nói với họ: “Ta không kết án con đâu, về đi và từ nay đừng phạm tội nữa”. 

“Chúa không bao giờ mỏi mệt khi tha thứ. Chúng ta đừng bao giờ mệt mỏi khi xin Người tha thứ cho chúng ta.”

Chắc chắn, Đức Phanxicô không nói về thứ ân sủng rẻ mạt, nhưng về Chúa, Đấng không hề để ý đến tội lỗi. Mệnh đề “đừng phạm tội nữa” trong Tin mừng mà ngài trích dẫn ở trên cũng có tầm quan trọng như là thành phần của việc tha thứ. Cho đến nay, dường như dấu nhấn trong triều đại của Đức Phanxicô có lẽ là đề cao tư tưởng về lòng thương xót của Thiên Chúa.

Điều này cũng không là một thứ gì đó chỉ xảy đến với Đức Phanxicô vào buổi sáng sau cuộc bầu cử. Đúng hơn, tư tưởng này phù hợp với quan điểm mục vụ của ngài, vốn đã phát triển trong suốt cuộc đời, khi luôn nhấn mạnh đến điều cần thiết cho người đại diện Chúa Kitô là tuôn đổ lòng thương xót và trắc ẩn.   

Vào năm 2001, hồng y Bergoglio đã nói: “Chỉ những ai gặp gỡ lòng thương xót, tức là những người được âu yếm bởi sự dịu ngọt của lòng thương xót, mới là người hạnh phúc và an bình với Thiên Chúa. Tôi xin các thần học gia đang hiện diện ở đây đừng đưa tôi trở lại Tòa tra, trái lại hãy thúc đẩy mọi sự thêm chút nữa.Tôi dám nói rằng, vị trí ưu tiên của cuộc gặp gỡ là tình âu yếm từ lòng thương xót của Chúa Giêsu Kitô đối với tội lỗi  tôi đã phạm.”

Ngài sẵn sàng đưa ra quan điểm mạnh mẽ nhằm đẩy lùi những chuyện nhảm nhí. Ví dụ, vào tháng Chín năm 2012, ngài mở cuộc tấn công sắc bén nhằm vào các linh mục từ chối rửa tội cho các trẻ em sinh ra ngoài giá thú, và ngài gọi đó là “tân chủ nghĩa giáo quyền khắt khe và giả hình”. 

Đức Phanxicô đã chọn gắn khẩu hiệu giám mục bằng tiếng Latinh của ngài lên tay áo giáo hoàng:Miserando atque eligendo, có nghĩa là “Cảm thương và lựa chọn” – “Khi nhìn bằng cặp mắt thương xót, Chúa đã chọn ngài.” Những lời này đến từ một bài giảng về Tin mừng Mátthêu của thánh Bêđa Khả kính. Điều này có ý nghĩa đặc biệt đối với Đức Phanxicô, bởi vì, năm 17 tuổi, ngài đã đi xưng tội vào ngày lễ thánh Mátthêu. Ngài nói rằng, kinh nghiệm đó đem đến cho ngài một ý thức mới về khả năng tha thứ không bến bờ của Thiên Chúa, và ngài cảm thấy lời mời gọi trở thành linh mục. Nói cách khác, việc đặt trọng tâm trên lòng thương xót có nguồn gốc sâu xa trong hành trình tâm linh của ngài.  

Tầm quan trọng của việc giảng thuyết về Thiên Chúa đầy lòng thương xót và quyết định cách thức đối xử với người khác được đặt nền trên tinh thần thương xót là một điều nữa mà Đức Phanxicô muốn bạn biết. 

5. Bây Giờ, Tất Cả Chúng Ta Là Những Phanxicô

Đức Phanxicô là vị giáo hoàng với nhiều điều đầu tiên: Là giáo hoàng đầu tiên không phải là người Châu Âu từ ít nhất 1000 năm nay, dựa trên tiêu chuẩn người ta xác định “Châu Âu” như thế nào; là giáo hoàng đầu tiên đến từ Châu Mỹ Latinh; là giáo hoàng đầu tiên từ thế giới đang phát triển; và là giáo hoàng đầu tiên xuất thân từ dòng Tên.

Tuy nhiên, trong nhiều cái đầu tiên đó, có lẽ cái đầu tiên lý thú nhất đó là: ngài là giáo hoàng đầu tiên trong lịch sử Giáo hội nhận tước hiệu là “Phanxicô”. Triều đại giáo hoàng của ngài kéo dài bao lâu không quan trọng, quyết định đầu tiên của Đức tân giáo hoàng có lẽ sẽ được xem như một quyết định nổi bật nhất của ngài.  

Qua nhiều thế kỷ, một số chuyên gia về giáo hoàng khẳng định rằng không vị giáo hoàng nào có thể hoặc nên nhận tước hiệu đó, khi đối chiếu với tước hiệu “Giêsu” hoặc “Phêrô”. Tước hiệu đó vốn chỉ là một trong các khuôn mặt  biểu tượng, hoặc lý luận như thế, và sẽ là phạm thánh đối với một giáo hoàng tuyên bố tước hiệu đó cho chính mình. 

Chuyện càng gây cười là một giáo hoàng dòng Tên nhận tước hiệu của đấng sáng lập dòng Phanxicô. (Trong những giây phút đầu tiên sau khi tước hiệu được loan báo, một số người tự hỏi phải chăng Đức tân giáo hoàng thực sự muốn tôn vinh thánh Phanxicô Xaviê, nhà truyền giáo vĩ đại dòng Tên. Tuy nhiên, các bản tin từ Mật viện đã xác định rõ rằng ngài nói ngay với các hồng y là ngài tôn vinh thánh Phanxicô Átxidi. (Sau đó, ngài giải thích những lý do ngài chọn tước hiệu đó trong các buổi gặp gỡ chung.)   

Vậy thì, điều gì thể hiện trong tước hiệu này?

Khi nghĩ về “Giáo hội”, một cách điển hình, các tín hữu Công giáo nhìn thấy hai mặt. Về mặt thể chế, Giáo hội có cơ sở hạ tầng, nguồn phương tiện, luật lệ, cơ cấu phẩm trật. Rồi, về mặt thiêng liêng, Giáo hội là một cộng đoàn khiêm nhường và đơn sơ của những người bình đẳng, với tình yêu đặc biệt dành cho những kẻ nhỏ bé nhất trong thế giới này. Một cách lý tưởng, hai mặt này đồng hành với nhau, nhưng dù sao, chúng cũng phân biệt nhau.   

Bằng cách nhận tước hiệu “Phanxicô”, về căn bản, Đức giáo hoàng khẳng định rằng mặt thứ hai của Giáo hội phải tỏa sáng theo cách mới mẻ. Nói cách khác, Đức Phanxicô đã đưa ra toàn bộ chương trình lãnh đạocủa ngài, một tầm nhìn toàn thể về Giáo hội, nếu nói vắn tắt.

Trong buổi gặp gỡ các nhà báo vào ngày 16 tháng Ba, Đức tân giáo hoàng đã nói rằng, người bạn cũ của ngài, hồng y Clau­dio Hummes của Brazil, trong cuộc bầu cử đã hối thúc ngài: “Đừng quên người nghèo”. Ngài cho biết, điều này làm cho ngài nghĩ về thánh Phanxicô, một người nghiêm khắc phản đối chiến tranh cũng như chống lại việc hủy hoại môi sinh. Tất cả điều đó làm cho Phanxicô trở thành một chọn lựa rõ ràng. 

Để chắc chắn, vị giáo hoàng dòng Tên không quên nguồn gốc của mình. Thực vậy, ngài cũng nói với giới truyền thông rằng một số hồng y đùa vui đề nghị ngài nên nhận tước hiệu Clêment, để “chế nhạo” Đức Clêment XIV là người đã giải thể dòng Tên vào thế kỷ XVIII (và cũng là một tu sĩ dòng Phanxicô!)

Nhưng, bằng cách nhận tước hiệu “Phanxicô”, Đức tân giáo hoàng về cơ bản đã khẳng định rằng những gì thánh Phanxicô Átxidi thể hiện không còn là đặc tính của riêng một dòng tu hay một trường phái tâm linh đặc biệt trong Giáo hội Công giáo. Thay vào đó, đây là mẫu gương cho đời sống Kitô giáo ở mọi cấp độ, bao gồm cả người ở vị trí tối cao trong phẩm trật. 

Thực vậy, Đức Phanxicô muốn bạn biết rằng tất cả chúng ta bây giờ là những Phanxicô.

6. "Đức Tin Phải Được Đề Nghị, Không Bao Giờ Áp Đặt!"

Khi Đức Phanxicô gặp những người đại diện cho các phương tiện truyền thông ngày 16 tháng Ba, ngài đã gợi mở một vài nhận xét, và sau đó đứng lên để chào hỏi khoảng 50 người, hầu hết là những nhân viên đang làm việc cho nhiều hãng truyền thông ở Vatican. Khi kết thúc, ngài nói một vài lời bằng tiếng Tây Ban Nha, làm cho người ta quá ngạc nhiên đến nỗi cần phải có chút thời gian để thấm nhập điều ngài vừa nói.  

Đức Phanxicô đã nói từng chữ một như thế này: “Tôi nói với các bạn rằng, từ trái tim tôi, tôi chúc lành cho các bạn. Bởi vì, nhiều người trong các bạn không thuộc về Giáo hội Công giáo, và một số người khác là những người vô thần, trong thinh lặng tôi ban phép lành này cho mỗi người trong các bạn, khi tôn trọng lương tâm mỗi người, nhưng biết rằng mỗi người trong các bạn đều là con Thiên Chúa. Xin Chúa chúc lành cho các bạn.”

Nhìn lại quá khứ, đây là giây phút đáng chú ý thực sự. Đức giáo hoàng không ban phép lành chính thức cho những người này, không phải vì ngài cảm thấy họ không phải là người Công giáo thì không xứng với phép lành đó, nhưng vì ngài muốn tôn trọng nhiều niềm tin được tiêu biểu trong thính phòng này.   

Sự thận trọng này làm cho chúng ta nhớ lại ngay điều mà cả Đức Gioan Phaolô II và Bênêđictô XVI đã lặp đi lặp lại đối với những cố gắng truyền giáo của Giáo hội: Đức tin luôn phải được đề nghị, chứ không bao giờ bị áp đặt. 

Việc Đức Phanxicô tôn trọng thế giới ngoài Giáo hội không phải là điều mới mẻ nơi ngài, đúng hơn đó là hoa trái của một hành trình lâu dài trong đời sống tâm linh và đời sống con người.

Chẳng hạn, ngài đem tới triều đại giáo hoàng của mình một bình chứa đầy những thiện ý từ cộng đoàn Do thái ở Ácgentina, bởi vì, ngài đã phản ứng bằng lòng trắc ẩn đối với cuộc đánh bom năm 1994 ở Buenos Aires vào tòa nhà bảy tầng, nơi là trụ sở của Hiệp hội Tương trợ Do thái giáo và Đại diện Hiệp hội Tương trợ Do thái giáo Argentina. Đó là một trong những cuộc tấn công bài Do thái tồi tệ nhất xảy ra ở Châu Mỹ Latinh.

Năm 2005, Rabbi Joseph Ehrenkranz, thuộc trung tâm Do thái – Kitô giáo ở trường Đại học Thánh Tâm tại  Fairfield, bang Con­necticut, đã ca ngợi sự lãnh đạo của hồng y  Bergoglio.

Ehrenkranz  nói rằng: “Đức hồng y quan tâm tới những gì đang diễn ra. Ngài có kinh nghiệm.” 

Ngài cũng là một giáo hoàng xác định rằng Giáo hội đừng chỉ đi vòng quanh cỗ xe, nhưng nên vươn ra với thế giới rộng lớn hơn, ngay cả với những người không chia sẻ niềm xác tín tinh thần và luân lý với Giáo hội.

Trong một cuộc phỏng vấn năm 2012, ngài khẳng định: “Chúng ta phải tránh bệnh tật thiêng liêng của một Giáo hội  quy chiếu về mình. Khi bạn đi ra ngoài đường, như những người nam và người nữ, có thể xảy ra tai nạn. Tuy nhiên, nếu Giáo hội vẫn khép mình, vẫn quy chiếu về mình, Giáo hội sẽ trở nên già nua. Giữa một Giáo hội hứng chịu tai nạn trên đường và một Giáo hội ốm yếu vì quy chiếu về mình, tôi không ngần ngại chọn kiểu Giáo hội  thứ nhất.”

Người ta nghĩ rằng ngài sẽ là giáo hoàng không hề nao núng trong việc giới thiệu đức tin cho thế giới, nhưng hết sức tôn trọng những người không muốn nhận điều ngài trao. Nói cách khác, cử chỉ của ngài đối với các nhà báo thể hiện một chiến lược truyền giáo thu nhỏ. 

 7. “Chúng ta không phải là tổ chức phi chính phủ”

Mặc dù, Đức Phanxicô chắc chắn là vị giáo hoàng tận tâm cho công lý của người nghèo trên thế giới, nhưng ngài không nghĩ mình là người lãnh đạo của Tổ chức nhân đạo toàn cầu. Ngày 14 tháng Ba, trong bài giảng tại Thánh lễ với các hồng y đã bầu chọn ngài, Đức Phanxicô nói vui rằng: “Nếu chúng ta không tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô, mọi sự đều lầm đường lạc lối.”

 Đức giáo hoàng nói: “Có lẽ chúng ta trở thành một tổ chức bác ái phi chính phủ, chứ không phải Giáo hội, Hiền Thê của Chúa”.

Ngài nói tiếp: “Khi chúng ta không bước đi, chúng ta ngừng chuyển động. Khi chúng ta không xây dựng trên nền đá, điều gì sẽ xảy đến?Điều đó giống như chuyện trẻ em xây lâu đài cát trên bãi biển: Mọi thứ sẽ sụp đổ, chẳng có gì kiên cố.”

Dù đôi khi mất hút giữa những ồn ào náo nhiệt, sự khiêm nhường và hấp dẫn của Đức tân giáo hoàng là một thực tế cho thấy ngài là một Kitô hữu đích thực, một người nhìn thấy Giáo hội và chức vụ giáo hoàng không chỉ đơn thuần với cách hiểu của con người, như một tôn giáo đa quốc gia rộng lớn, nhưng còn theo cách hiểu mang tính vũ trụ, như yếu tố cốt tử trong cuộc chiến vô tận giữa thiện và ác.

Cũng trong bài giảng ngày 14 tháng Ba, Đức Phanxicô đã trích dẫn nhà văn Pháp Léon Bloy rằng “ai không cầu nguyện với Chúa là kẻ cầu xin ma quỷ.” Cùng ngày hôm đó, ngài khuyến khích dân chúng đừng đầu hàng trước những đau khổ mà “ma quỷ bày ra trước chúng ta mọi ngày”. 

Ngài nói với các hồng y: “Khi chúng ta không tuyên xưng Chúa Kitô, chúng ta tuyên xưng sự trần tục của ma quỷ”. 

M

Các tin khác

VIDEO

  Bài 2: HIỆP HÀNH: Hiệp Thông - Tham Gia - Sứ Vụ | Thường huấn linh mục GP Ban Mê Thuột 2023

  Bài 1: Tầm Nhìn Hoàn Vũ | Thường huấn linh mục GP Ban Mê Thuột 2023

  ĐỨC TIN | Tròn Đầy & Trong Sáng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh

  Mục Vụ Văn Hóa: DANH - LỢI - NGHĨA | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh

  Cử Hành Phụng Vụ | Gặp Gỡ Chúa Kitô - Loan Báo Tin Mừng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn văn Hinh

  Thần Học Mục Vụ & Công đồng Vatican II: Con người - Giáo hội - Môi trường

  Hiệp Hành Hội Ý Dựng lại Mùa Xuân | Người Giáo dân Thiên niên kỷ mới

  Bài 4: Văn Hóa Tổ Chức - Đời Sống Cá Nhân

  Hiệp Hành Kín Đáo và Minh Bạch

  Văn Hóa Tổ Chức - Tổ Chức Cộng Đồng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh (Phần 3)

  Tìm hiểu về văn hóa (Phần 2) - Lm Gioan Kim Nguyễn Văn Hinh

  Tìm hiểu về văn hóa (Phần 1) - Lm Gioan Kim Nguyễn Văn Hinh

  TRỰC TUYẾN BÀI 29: MỤC VỤ THÁNH THIỆN THUẬN THEO

  TRỰC TUYẾN BÀI 28 : MỤC VỤ TÍCH HỢP VĂN HÓA ĐÔNG TÂY

  TRỰC TUYẾN BÀI 27 : MỤC VỤ LỜI CHÚA NGÀY NAY

  TRỰC TUYẾN BÀI : TÌM HIỂU VỀ VĂN HÓA VÀ BẢN SẮC VĂN HÓA VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 26: MỤC VỤ ĐẠO ĐỨC KINH TẾ DỊCH VỤ

  TRỰC TUYẾN BÀI 25: MỤC VỤ TUẦN THÁNH UY VÀ ĐỨC

  TRỰC TUYẾN BÀI 24: MỤC VỤ GIA TÀI CỦA MẸ

  TRỰC TUYẾN BÀI 23: MỤC VỤ BỔ VÀ TẢ

  mvgd20162016

  TRỰC TUYẾN BÀI 21: MỤC VỤ LUẬT CÂN BẰNG

  TRỰC TUYẾN BÀI 20: TRUY TÌM MÃNH LỰC

  TRỰC TUYẾN BÀI 19: THẾ GIỚI HÔM NAY CẦN NHỮNG NGƯỜI CHA NHÂN HẬU LÝ TƯỞNG VÀ THỰC TIỄN

  TRỰC TUYẾN BÀI 18: NĂM THÁNH THÁNH CẢ GIUSE LÃNH ĐẠO VÀ NIỀM TIN

  TRỰC TUYẾN BÀI 17: MỪNG XUÂN TÂN SỬU 2021 - LÒNG BIẾT ƠN TIN VUI ĐẠO ĐỨC VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 17: MỪNG XUÂN TÂN SỬU 2021 - LÒNG BIẾT ƠN TIN VUI ĐẠO ĐỨC VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 16: ĐỀ TÀI ĐIỂM TỰA

  TRỰC TUYẾN BÀI 14: VĂN HÓA KHÔNG NHẬN SAI NHƯNG SỬA SAI

  TRỰC TUYẾN BÀI 13: VUN TRỒNG NỀN VĂN HÓA “TÂM LINH – KHOA HỌC”

  TRỰC TUYẾN BÀI 12: NĂM MỚI 2021 XÂY DỰNG NỀN VĂN MINH TÂM LINH & KHOA HỌC

  TRỰC TUYẾN BÀI 11: GIÁNG SINH 2020 - LÀM NGƯỜi - GIÊSU

  TRỰC TUYẾN BÀI 10: PHÍA ĐẰNG SAU TÂM LINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 9: ĐỂ CÓ CHÚA THÁNH THẦN

  TRỰC TUYẾN BÀI 8: LOAN BÁO TIN MỪNG

  TRỰC TUYẾN BÀI 7: PHÒNG ĐÀO LUYỆN TÂM LINH CỦA TÍN HỮU DÂN CHÚA

  TRỰC TUYẾN BÀI 6: ĐÀO LUYỆN TÍN HỮU DÂN CHÚA

  TRỰC TUYẾN BÀI 5: TẦM NHÌN THIÊN NIÊN KỶ MỚI

  TRỰC TUYẾN BÀI 4: ĐÀO LUYỆN TÂM LINH BẮT ĐẦU TỪ THÁNH THỂ HAY THÁNH KINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 3: PHƯƠNG THỨC CẦU NGUYỆN CẢM NGHIỆM- SỐNG THÁNH GIỮA ĐỜI

  TRỰC TUYẾN: BÀI 2: GIẢI THÍCH ĐÀO LUYỆN TÂM LINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 1: ĐÀO LUYỆN TÂM LINH

  TintucVatican

  Thánh Lễ Tuyên Thánh Jacinta và Francisco Marto

  Muối và ánh sáng

  Thế Giới Nhìn Từ Vatican

  Nghi thức đóng Cửa Thánh

  Xin Mẹ Thương

  Thế Giới Nhìn Từ Vatican

  Suy Niệm với Đức Thánh Cha Phanxicô

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__3

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__1

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__2

  Thường huấn HĐMVGX Ban Mê Thuật

  Quốc tế thiếu nhi 01-6-2014

  Thể dục Dưỡng Sinh

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  CƠM TRƯA TRUNG THU 2013

  Thi đấu thăng cấp sơ đẳng Vovinam

  Khai mạc kỳ thi thăng cấp Vovinam

  Vovinam

  Đào luyện tâm linh

  Nghệ thuật cân bằng

  Đào Luyện Tinh Thần

  Đào Luyện Thể Chất

Bài viết mới
BÀI GIẢNG ĐỨC THÁNH CHA - CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN NĂM B
BÀI GIẢNG ĐỨC THÁNH CHA - CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN NĂM B.
ỦY BAN GIÁO DÂN - THƯỜNG HUẤN THÁNG 07/2024: TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN - MUỐI VÀ ÁNH SÁNG CHO THẾ GIỚI avatar Ủy ban Giáo dân 01/07/2024 Giáo hội là Dân Thiên Chúa, nơi mỗi người tín hữu, dù là giáo sĩ hay giáo dân, đều đóng góp vai trò không thể thiếu trong sứ mạng loan báo Tin Mừng. Chủ đề “Tông đồ giáo dân: Muối và ánh sáng cho thế giới” tập trung vào việc khai triển và cổ võ vai trò của giáo dân trong việc trở thành muối ướp mặn đời và ánh sáng soi sáng trần gian. Ủy ban Giáo dân Hội đồng Giám mục Việt Nam THƯỜNG HUẤN THÁNG 07/2024: TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN: MUỐI VÀ ÁNH SÁNG CHO THẾ GIỚI BÀI 1: HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN DỰA TRÊN LỜI CHÚA - Phanxicô Xaviê Nguyễn Thái BÀI 2: SỐNG TIN MỪNG TRONG ĐỜI THƯỜNG – Lm. Antôn Hà Văn Minh BÀI 3: BIẾN ĐỔI THẾ GIỚI TỪ BÊN TRONG - Lm. Tôma Vũ Ngọc Tín, S.J. BÀI 4: LÒNG CAN ĐẢM VÀ SỰ KHÔN NGOAN KHI DẤN THÂN VÀO ĐỜI SỐNG TRẦN THẾ - Lm. Tôma Vũ Ngọc Tín, S.J. BÀI 1: HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN DỰA TRÊN LỜI CHÚA - Phanxicô Xaviê Nguyễn Thái “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. “Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá. Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành” (Mt 7, 21.24 – 27). Đọc đoạn Tin Mừng trên cho chúng ta thấy: sống Tin Mừng trong đời thường là một hành trình đức tin mà qua đó, người Kitô hữu áp dụng lời dạy của Chúa Giêsu vào cuộc sống hàng ngày. Yêu Chúa không chỉ là tham dự các thánh lễ, các giờ kinh, mà phải thi hành ý muốn của Chúa Cha qua việc lãnh nhận các bí tích thường xuyên và qua cách chúng ta tương tác với mọi người xung quanh, cách chúng ta hành xử với thử thách và cách thực hiện các quyết định. Dưới đây là một số suy tư của giáo dân và một số cách để sống Tin Mừng trong đời thường: 1. Suy niệm và cầu nguyện với Lời Chúa: chúng ta không thể kết hiệp mật thiết với Chúa mà không cầu nguyện với Ngài. Việc dành thời gian mỗi ngày để suy niệm và cầu nguyện với Lời Chúa giúp nuôi dưỡng tâm hồn chúng ta ngày càng trở nên thánh thiện hơn, yêu Chúa nhiều hơn và được Chúa hướng dẫn hành động. 2. Yêu thương tha nhân là yếu tố quan trọng khi ta sống theo Tin Mừng. Yêu thương mọi người xung quanh mình, cho dù họ là ai, tôn giáo nào, giàu hay nghèo. “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” ( Ga 15, 12 ). Điều này áp dụng qua việc giúp đỡ những người nghèo khó, an ủi những người đang gặp khó khăn, và chia sẻ cho cộng đồng đang cần đến tình thương của mình. 3. Hiền lành và khiêm nhường: là ứng xử một cách nhẹ nhàng, không gây ra xung đột, luôn lắng nghe và tôn trọng ý kiến của người khác, và tìm cách giải quyết mọi vấn đề một cách dịu dàng và an bình. Tuy nhiên, hiền lành và khiêm nhường không đồng nghĩa với sự yếu đuối, mà chính là một cách để thể hiện sự mạnh mẽ và tự tin của bản thân thông qua sự kiểm soát cảm xúc và nhận thức. 4. Sống công bằng và bác ái: cố gắng sống công bằng với mọi người, không phân biệt đối xử, không chỉ dựa trên sự thỏa thuận mà dựa trên giá trị cốt lõi là phẩm giá con người, và thực hiện các hành động bác ái, như viếng thăm người đau yếu, quyên góp cho từ thiện, chia sẻ Chúa cho anh em, tham gia phục vụ cộng đồng dân Chúa cũng như cộng đồng xã hội. 5. Kiên nhẫn tha thứ: sống theo Tin Mừng đòi hỏi lòng kiên nhẫn và sẵn lòng tha thứ, dù trong những hoàn cảnh khó khăn nhất. Tha thứ đến cùng, tha thứ không giới hạn cho những lỗi lầm của người khác. Lý do chính mà chúng ta làm là vì Chúa đã tha thứ cho mỗi người chúng ta. 6. Chia sẻ niềm vui: sống vui tươi, dịu dàng với mọi người qua lối sống khó nghèo, tìm kiếm sự hài lòng, phấn khởi trong những điều giản dị và ý nghĩa của cuộc sống. 7. Sống Tin Mừng trong đời thường là chúng ta làm chứng về một Đức Giêsu con Thiên Chúa đã xuống trần gian, chịu chết và sống lại cho chúng ta được sống và được sống lại. Chứng nhân không chỉ trong một giai đoạn của cuộc sống nhưng là một đời Kitô hữu được kết hiệp với Chúa, bằng nguồn sống của Chúa. Qua hành động và lời nói hàng ngày, qua cách sống và tương tác với tha nhân làm sao bày tỏ được tình yêu và lòng thương xót của Chúa. Những suy tư Sống Tin Mừng trong đời thường không chỉ là làm một số việc đạo mà là cách sống thánh thiện và yêu thương mọi người xung quanh. Mỗi người cần gìn giữ và phát triển niềm tin của mình để sống đúng lý tưởng và hạnh phúc theo tinh thần của Tin Mừng. Sống Tin Mừng trong đời thường không phải lúc nào cũng dễ dàng, mỗi người giáo dân có cách sống Tin Mừng trong cuộc sống của họ một cách khác nhau. Nhiều giáo dân chưa mở lòng nên không nhận được ơn Chúa. Họ sống khép kín, không tham gia vào giáo xứ hoặc nếu có cũng chỉ là hình thức. Có những người không biết về Tin Mừng hoặc có biết qua loa thì cũng chưa áp dụng Tin Mừng vào cuộc sống, có khi còn không dám cho người khác biết mình là người Công Giáo, không dám sống đức tin của mình. Những người giáo dân khác sống theo lời dạy của Chúa Giêsu và thực hành lòng nhân từ, yêu thương và tha thứ. Trong khi một số khác có thể gặp khó khăn trong việc áp dụng những giá trị đạo đức từ Tin Mừng vào cuộc sống hàng ngày. Tuy nhiên, quan trọng nhất là họ luôn cố gắng học hỏi và phát triển trong đức tin của mình để trở thành những người sống theo Tin Mừng mẫu mực. Được như thế là giáo dân cũng đang tham gia vào đời sống của Giáo Hội, dần dần góp phần xây dựng một Giáo Hội hiệp hành và một thế giới tốt đẹp hơn. Hồi Tâm 1/ Làm cách nào giúp mọi người Công Giáo, hay ít nhất là những người đi lễ mỗi tuần có thể học, suy niệm và cầu nguyện với Tin Mừng? Nếu đang làm việc trong Hội đồng mục vụ giáo xứ hay trong các Hội đoàn Công giáo tiến hành, bạn sẽ làm gì? 2/ Chứng nhân Tin Mừng trong đời thường là phương cách hữu hiệu giúp người khác dễ dàng sống theo gương, bạn có thể chia sẻ chứng nhân trong những buổi họp, hay những lúc riêng tư cho những người chung quanh không? 3/ Trong đời thường, bạn làm gì để bày tỏ lòng yêu mến Chúa qua tha nhân? BÀI 2: SỐNG TIN MỪNG TRONG ĐỜI THƯỜNG – Lm. Antôn Hà Văn Minh Qua Bí tích Rửa tội, người tín hữu được dự phần vào sứ vụ của Chúa Giêsu. Sứ vụ đó chính làm cho mọi người nhận biết ơn cứu độ của Thiên Chúa Cha tỏ bày cho nhân loại qua Đức Giêsu Kitô. Thi hành sứ vụ chính là sống Tin Mừng giữa lòng thế giới, cụ thể trong cuộc sống thường ngày của mỗi tín hữu. Công Đồng nói về cảnh sống trần thế của giáo dân bằng cách trình bày cảnh sống ấy, trước tiên, như là môi trường trong đó họ được Thiên Chúa mời gọi: “Đó là nơi Thiên Chúa gọi họ” (LG số 31). Và thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã giải nghĩa: “nơi” được trình bày bằng những hạn từ có tính cách năng động: giáo dân sống giữa trần gian, nghĩa là dấn thân vào tất cả cũng như từng công việc và bổn phận của trần thế, giữa những cảnh sống thường ngày trong gia đình và ngoài xã hội, tất cả những điều đó như dệt thành cuộc sống của họ. Đó là những con người có một đời sống bình thường trong trần gian, học hỏi, làm việc, thiết lập những tương quan bạn bè, xã hội, nghề nghiệp, văn hóa”[1]. Sống Tin Mừng là gì? Trích dẫn Lời Chúa: “Chính anh em là muối cho đời… là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,13–14), Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã trình bày: “Lời mời gọi của Chúa Giêsu chính là sứ mạng của người tín hữu sống trong thế giới này. Người Kitô hữu không coi thế gian là địa ngục, là nơi giam cầm của những nỗi thống khổ, cũng như không coi thế gian là hạnh phúc vĩnh cửu cho cuộc đời mình, nhưng là nơi để Thiên Chúa tỏ lộ tình yêu của Ngài qua sự cộng tác của con người, và là nơi để con người được thực thi ơn gọi và sứ mạng Kitô hữu của mình trong một tình yêu dấn thân và thánh hóa thế giới: Tham dự vào lãnh vực trần thế, là phận vụ phát xuất từ bản tính nội tại và sứ mạng của mình”[2]. Vì thế, sống Tin Mừng chính là huấn luyện bản thân nhuần thấm Tin Mừng để có thể thực thi ơn gọi của mình cách trọn hảo. Thiên Chúa muốn người tín hữu trở thành muối, thành ánh sáng cho thế giới bằng chính đời sống Tin Mừng của mình, hay nói cách khác người tín hữu dấn thân phục vụ để trần gian nhận biết tình yêu của Ngài dành cho nhân loại, một tình yêu trọng đại đã được thánh Gioan diễn tả: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời” (Ga 3, 16). Nhưng để có thể sống Tin Mừng, dấn thân phục vụ cho Tin Mừng, đòi hỏi người tín hữu phải là người thấm đẫm Tin Mừng. Chỉ là men Tin Mừng khi người hữu phải đầy “chất” Tin Mừng. Vì thế, sống Tin Mừng trước tiên phải kết hợp mật thiết với Đức Kitô, vì Ngài chính là Tin Mừng. Vì thế, cuộc gặp gỡ với Tin Mừng là nền tảng cho việc sống Tin Mừng. Điều đó được thực hiện trước tiên chính là cuộc gặp gỡ Lời qua Kinh Thánh. Công đồng Vatican II trong hiến chế Mạc khải đã minh định: Chúa Cha muốn gặp gỡ con cái mình và ngỏ lời với họ qua Sách Thánh. Như vậy, tiếp cận với Lời Chúa, đọc Thánh Kinh là đi vào một cuộc gặp gỡ, tham gia một cuộc đối thoại với Thiên Chúa[3]. Quả thật việc đọc Thánh Kinh là cách thế tuyệt hảo để có được cuộc đối thoại với Thiên Chúa, vì “chúng ta ngỏ lời với Ngài khi cầu nguyện, và chúng ta nghe Ngài nói lúc chúng ta đọc các sấm ngôn thần linh”[4]. Trong Tông Thư “Khởi Đầu Ngàn Thứ Ba”, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II viết: “Lời Chúa phải trở nên một sự gặp gỡ ban sự sống, theo truyền thống xa xưa và luôn vững chắc về việc đọc Sách Thánh, cho phép rút ra từ bản văn Thánh Kinh Lời Hằng Sống, là lời chất vấn, hướng dẫn và hình thành cuộc sống chúng ta” (số 39)[5]. Người tín hữu chỉ có thể là men Tin Mừng, khi đời sống được đặt trên nền tảng Lời Chúa, không thường xuyên cầu nguyện với Lời Chúa không thể nào hoán cải cuộc đời để có thể làm cho đời mình trở thành men Tin Mừng. Dựa vào hoạt động của Giáo Hội tiên khởi được tường thuật trong sách Tông đồ công vụ, Đức Thánh cha Phanxicô nói: “Chúng ta khám phá động cơ mạnh mẽ của việc loan báo Tin Mừng chính là những buổi quy tụ cầu nguyện, nơi những người tham gia cảm nghiệm cách sống động sự hiện diện của Chúa Giêsu và được Chúa Thánh Thần đánh động. ...Lời cầu nguyện truyền lan ánh sáng và sự hăng hái: ân sủng của Chúa Thánh Thần làm nảy sinh trong lòng họ sự nhiệt thành”[6]. Dĩ nhiên việc tiếp cận Lời Chúa phải gắn chặt với Thánh Thể. Đức Thánh cha Phanxicô đã nói mạnh mẽ: Chỉ trong sự tôn sùng Thánh Thể, chỉ trước mặt Chúa, hương vị và sự say mê truyền giáo mới có thể được phục hồi. Lòng tôn sùng Thánh Thể là động lực giúp cho chúng ta vượt thắng những phong ba bão táp của cuộc đời, đặc biệt đó là nguồn khích lệ cho những người hết lòng chia sẻ Tin Mừng, chính vì trong Bí tích Thánh Thể, “chúng ta gặp gỡ Đấng đã ban mọi sự cho chúng ta” và đến lượt mình, chúng ta trở nên có khả năng chia sẻ tình yêu đó với người khác[7]. Để có thể sống Tin Mừng hầu trở thành men của Tin Mừng, chúng ta cần phải liên kết chặt chẽ với Chúa Kitô qua Lời Chúa, Thánh Thể và cầu nguyện và sống tình huynh đê. Bốn yếu tố: Lời Chúa, tìm kiếm tình hiệp thông huynh đệ, Thánh Thể và cầu nguyện, theo Đức Thánh Cha Phanxicô, chính là tiêu chuẩn để phân định một sự việc. Bất cứ trường hợp nào thiếu những yếu tố này điều thiếu tính Giáo hội, không phải của Giáo hội, yếu tố quan trọng để chứng thực chúng ta thực sự là Men của Tin Mừng.[8] Sống Tin Mừng giữa đời thường Nhìn vào thực tế, trăn trở lớn của Giáo Hội Việt Nam là vấn đề Loan Báo Tin Mừng. Thật vậy, con số tín hữu Việt Nam đến nhà thờ dâng lễ mỗi Chúa Nhật có thể nói cho đến lúc này vẫn đáng tự hào, thế nhưng niềm tự hào này có thực sự là niềm vui đích thực không? Bởi nhìn vào cánh đồng truyền giáo mỗi địa phương vẫn còn ngổn ngang, vẫn còn có qua nhiều người chưa được tiếp cận với Tin Mừng, vẫn còn đó nhưng lương dân là hàng xóm của các gia đình Công giáo, nhưng họ chẳng nghe nói về Chúa Giêsu, không một lần tiếp cận được với Tin Mừng. Câu trả lời được tìm thầy nơi lối sống của người tín hữu Công giáo. Là men Tin Mừng, nhưng họ lại không thể hiện lối sống Tin Mừng ngay trong môi trường mình sinh sống. Họ tách rời đức tin và cuộc sống thường ngày, họ đóng khung lối sống Tin Mừng trong nhà thờ, họ không làm cho men Tin Mừng được dậy lên trong người môi trường mình sống. Cha mẹ vẫn đi dâng lễ ngày Chúa nhật, nhưng chưa một lần hướng dẫn con cái về đời sống đức tin. Người tín hữu vẫn thường xuyên gặp gỡ bạn bè là lương dân, nhưng chưa một lần họ nghe về Chúa Giêsu, nhiều khi còn tệ hơn, để làm vui lòng bạn bè lương dân, người Công Giáo sẵn sàng bỏ đi lễ Chúa nhật; ngoài phố chợ, những chủ cửa hàng Công Giáo vẫn ngần ngại thể hiện lối sống Tin Mừng để giữ đức công bình và đức yêu thương... Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhấn mạnh: “Người tín hữu không được mời gọi rời bỏ vị thế họ đang sống nơi trần gian. Thực vậy, Bí tích Thánh Tẩy không kéo họ ra khỏi trần gian, như thánh Phaolô đã nhấn mạnh: ‘Thưa anh em, khi được kêu gọi ở địa vị nào, mỗi người cứ ở địa vị đó trước mặt Thiên Chúa’ (1 Cr 7,24); trái lại, Ngài trao cho họ một ơn gọi có liên hệ đích thực với tình huống của họ trong trần gian: thực vậy, giáo dân được ‘Thiên Chúa kêu gọi để, dưới sự hướng dẫn của tinh thần phúc âm, như men từ bên trong, họ thánh hóa thế giới bằng việc thi hành những nhiệm vụ của mình; và như thế, với lòng tin cậy mến sáng ngời, nhất là với chứng tá đời sống, họ tỏ lộ Chúa Kitô cho kẻ khác’ (Tông huấn Người Tín hữu Giáo dân, số 15) Cha Mến kể câu chuyện: Chứng nhân trong đời thường như sau: Nhà giáo dục vĩ đại Booker T. Washington có viết như sau trong cuốn tự thuật mang tựa đề: “Từ ách nô lệ đi lên” của ông: “Càng lớn tôi càng tin chắc rằng, không một sự giáo dục nào có thể gặt hái được từ sách vở, hay từ những dụng cụ đắt tiền, mà có thể sánh ví được với những gì ta có thể gặt hái được, do tiếp xúc với các bậc vĩ nhân”. Cách đây ít lâu, một phụ nữ Ấn độ giáo đã trở lại Công giáo, sau một thời gian nghe rao giảng Lời Chúa. Bà chịu nhiều gièm pha, đay nghiến từ người chồng và bao người thân, do việc bà trở lại đạo. Có lần cha xứ hỏi bà: “Khi chồng con nổi giận và hành hạ con, thì con làm gì”? Bà đáp: “Thưa Cha, con cố gắng nấu ăn ngon hơn. Khi ông than trách, con lau chùi nhà sạch hơn. Khi ông ăn nói cộc cằn, con trả lời ôn tồn nhỏ nhẹ. Con cố gắng để chứng tỏ cho ông ta thấy: Khi con trở lại đạo Chúa, con phải là người vợ và người mẹ tốt hơn”. Một thời gian sau, chính ông chồng cũng xin trở lại đạo Công giáo, không phải vì lời giảng của cha xứ, cho bằng chính nhờ gương sáng sống đạo của bà vợ đạo đức của ông.[9] Sắp tới đây Đức Thánh cha Phanxicô sẽ phong thánh cho chân phước Carlo Arcutis, một vị thánh trẻ, được gọi vị thánh thuộc thế hệ Y. Thánh nhân có gì đặc biệt? Không có gì đặc biệt ngoài việc ngài sống Tin Mừng giữa đời thường. Đức hồng y Vallini trong bài giảng lễ phong chân phước đã nói về Carlo Arcutis như sau: Carlo có lòng yêu mến Thánh Thể và gắn bó với Thánh Thể cách đặc biệt. Chúa Giêsu là Bạn, là Thầy, là Đấng Cứu Độ và là sức mạnh cho cuộc sống của Acutis và là động lực của mọi việc cậu làm. Từ đó, Carlo mong muốn mãnh liệt đưa người khác đến với Chúa và cậu làm điều này trên hết bằng gương mẫu cuộc sống. Carlo dùng mọi cách, cả cách thức hiện đại, với tài năng về tin học Chúa ban, để gặp gỡ và loan truyền các giá trị Kitô giáo cho người khác[10]. BÀI 3: BIẾN ĐỔI THẾ GIỚI TỪ BÊN TRONG - Lm. Tôma Vũ Ngọc Tín, S.J. Đời sống Kitô hữu giữa lòng trần thế như những hạt muối tinh tế thấm vào lòng đời, lặng lẽ làm biến đổi thế giới, như men trong bột làm dậy lên cả khối bột. Hành trình hy vọng nhưng cũng đầy thách đố này đòi hỏi sự biến đổi sâu sắc từ bên trong tâm hồn và đời sống mỗi người tín hữu. Khi mỗi người thay đổi từ nội tâm, họ trở thành ánh sáng lan tỏa, chiếu rọi khắp nơi, góp phần biến đổi thế giới bằng chính đời sống đức tin của mình. Theo Sắc Lệnh về Tông Đồ Giáo Dân, linh đạo tông đồ giáo dân không chỉ là sống đức tin một cách cá vị, mà còn là tham gia tích cực vào sứ mạng của Giáo Hội. Giáo dân được mời gọi trở thành những tông đồ giữa đời, mang Tin Mừng đến mọi nơi (Apostolicam Actuositatem-AA, 4). Linh đạo này giúp mỗi người giáo dân nhận ra rằng, họ có một vai trò đặc biệt trong việc xây dựng Nước Trời nơi trần thế, không chỉ qua lời nói mà còn qua hành động cụ thể trong cuộc sống thường ngày: “Bản chất riêng biệt của người giáo dân là sống giữa đời và làm việc đời nên chính họ được Thiên Chúa mời gọi để một khi tràn đầy tinh thần Kitô giáo, họ làm việc tông đồ giữa đời như men trong bột” (AA 2). Sống linh đạo tông đồ giáo dân như thế, trước hết người giáo dân gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu qua Lời Chúa và Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể là tâm điểm đời sống người tín hữu, nuôi dưỡng mỗi người trong hành trình Kitô hữu giữa đời, giúp mỗi người kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu và dấn thân phục vụ sứ mạng của Người: “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu, đó không chỉ là lời mời gọi, mà còn là một yêu cầu thiết yếu, để mỗi Kitô hữu có thể sống đức tin và thực thi sứ mạng của mình. Tham dự Thánh lễ, cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa,… là những phương thế giúp giáo dân nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của mình. Cầu nguyện giúp người giáo dân sống tình thân mật thiết với Chúa, trong khi suy niệm Lời Chúa giúp họ hiểu rõ hơn về ý nghĩa và sứ mạng của mình như được Chúa mời gọi. Kết hiệp với Chúa Giêsu qua Thánh Thể và Lời Chúa là những phương thế sống động để mỗi người trở nên men trong bột, biến đổi thế giới từ bên trong. Từ đời sống gắn kết với Chúa Giêsu, người giáo dân sống đức tin của mình qua những hành động cụ thể trong gia đình, nơi làm việc, và cộng đồng. Điều này có thể bao gồm việc tham gia vào các hoạt động xã hội, hỗ trợ người nghèo, bảo vệ môi trường, và tham gia vào các phong trào xã hội nhằm thúc đẩy công lý và hòa bình. Ý nghĩa của việc trở thành men trong bột là mỗi Kitô hữu đều có thể đóng góp một phần nhỏ nhưng quan trọng vào việc biến đổi thế giới xung quanh. Điều này đòi hỏi mỗi người phải sống đời sống đức tin một cách chân thật và nhiệt thành. Tình yêu và công lý là hai yếu tố không thể thiếu trong linh đạo giáo dân. Mỗi giáo dân được mời gọi sống yêu thương qua những hành động cụ thể, đồng thời nỗ lực thực thi công lý và xây dựng hòa bình. Các hoạt động xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc thực hành tông đồ giáo dân. Tham gia vào các hoạt động này không chỉ giúp mỗi người thực thi sứ mạng truyền giáo, mà còn góp phần xây dựng một xã hội công bằng và yêu thương hơn. Sau cùng, qua đời sống đức tin và dấn thân tông đồ, mỗi người góp phần xây dựng và phát triển cộng đoàn giáo xứ. Qua việc tham gia tích cực vào đời sống giáo xứ, giáo dân không chỉ đóng góp vào sự phát triển của cộng đoàn mà còn tạo ra một môi trường yêu thương và hiệp nhất. Một cộng đoàn yêu thương sẽ là nền tảng vững chắc để mỗi giáo dân có thể thực thi sứ mạng truyền giáo của mình một cách hiệu quả. Tóm lại, hành trình Kitô hữu giữa lòng trần thế là trở thành muối và men, âm thầm, trung kiên, nhẫn nại thấm vào mọi ngóc ngách của cuộc sống, làm biến đổi thế giới từ nội tại. Sống đức tin trong đời thường, thể hiện qua những hành động cụ thể trong gia đình, nơi làm việc và cộng đồng, là cách mỗi Kitô hữu trở thành men trong bột, biến đổi thế giới bằng tình yêu và công lý. Kết hiệp với Chúa qua cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa, cùng tham gia vào các hoạt động xã hội, là nền tảng để mỗi giáo dân góp phần xây dựng một xã hội công bằng và yêu thương, biến đổi thế giới từ bên trong. Hồi tâm 1/ Nhìn lại kinh nghiệm sống đạo, tôi thấy mình trở nên ánh sáng và muối và men trong môi trường sống như thế nào? Tôi có thể làm gì để thẩm thấu và lan tỏa tinh thần Kitô giáo trong gia đình, nơi làm việc, và cộng đồng của mình? 2/ Tôi cảm nghiệm thế nào về ơn gọi và sứ mạng Kitô hữu khi cầu nguyện và suy niệm lời Chúa? Làm thế nào tôi có thể biến những cảm nghĩ thiêng liêng ấy thành hành động cụ thể để xây dựng Nước Trời ngay cuộc sống đời thường của tôi? 3/ Khi đối diện với những thách thức trong cuộc sống và xã hội, tôi trải nghiệm thế nào về tình yêu và công lý như men trong bột, làm dậy lên sự thay đổi tích cực? Tôi có sẵn sàng dấn thân hơn nữa để trở thành người tông đồ truyền giáo giữa đời, lan toả tình yêu và công lý trong môi trường sống thường ngày? BÀI 4: LÒNG CAN ĐẢM VÀ SỰ KHÔN NGOAN KHI DẤN THÂN VÀO ĐỜI SỐNG TRẦN THẾ - Lm. Tôma Vũ Ngọc Tín, S.J. Lòng can đảm và sự khôn ngoan là hai phẩm chất quan trọng mà mỗi Kitô hữu cần có để sống và làm chứng cho đức tin trong đời sống trần thế. Lòng can đảm giúp chúng ta vượt qua những thử thách và khó khăn, dám đứng lên bảo vệ sự thật và công lý. Sự khôn ngoan, hướng dẫn chúng ta hành động một cách sáng suốt, biết phân định phải trái, đúng sai và chọn lựa đường hướng đẹp lòng Chúa. Trong một thế giới đầy biến động và thách thức, lòng can đảm và sự khôn ngoan trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Đối với giáo dân, hai phẩm chất này không chỉ giúp họ sống đức tin một cách mạnh mẽ và vững vàng mà còn đóng góp tích cực vào việc xây dựng một xã hội công bằng và nhân ái hơn. Lòng can đảm là một chủ đề được nhắc đến nhiều trong Kinh Thánh: “Mạnh bạo lên, can đảm lên! Đó chẳng phải là lệnh Ta đã truyền cho ngươi sao? Đừng run khiếp, đừng sợ hãi, vì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, sẽ ở với ngươi bất cứ nơi nào ngươi đi tới” (Gs 1,9). Lời khích lệ này không chỉ dành cho Thủ lãnh Giôsuê mà còn dành cho tất cả chúng ta, những người đang sống và làm chứng cho đức tin. Lòng can đảm giúp chúng ta đứng vững trước những thử thách, bảo vệ niềm tin và dám sống theo những giá trị Tin Mừng trong một thế giới đầy cám dỗ, bạo loạn và bất công. Sự khôn ngoan cũng là một đức tính quan trọng được Kinh Thánh đề cao: “Nếu ai trong anh em thiếu đức khôn ngoan, thì hãy cầu xin Thiên Chúa, Người sẽ ban cho. Vì Thiên Chúa ban cho mọi người cách rộng rãi, không quở trách” (Gc 1,5). Sự khôn ngoan giúp chúng ta biết phân định đúng sai, tốt xấu, lựa chọn đường hướng đẹp lòng Chúa và hành động một cách sáng suốt trong mọi hoàn cảnh. Nó không chỉ là tri thức mà còn là khả năng ứng dụng tri thức đó vào cuộc sống một cách đúng đắn và hiệu quả tốt đẹp. Mỗi người vẫn thường đối diện với những thách đố và nghịch cảnh trong đời sống. Điều quan trọng là cách chúng ta đối diện và vượt qua chúng. Cuộc sống trần thế có muôn vàn cảnh huống mà ở đó, người giáo dân thể hiện lòng can đảm và sự khôn ngoan khi luôn tin cậy Chúa và đối diện khó khăn, chẳng hạn như việc bảo vệ sự thật và công lý trong môi trường làm việc, nơi có thể gặp phải những áp lực và cám dỗ. Lòng can đảm giúp chúng ta không lùi bước, trong khi sự khôn ngoan giúp chúng ta chọn lựa cách hành động phù hợp và hiệu quả. Đời sống đức tin không dừng ở việc tham dự các cử hành phục vụ mà còn sống theo những giá trị Kitô giáo trong đời sống thường ngày. Giáo dân có thể thể hiện lòng can đảm và sự khôn ngoan bằng cách làm gương sáng trong môi trường làm việc, trong gia đình, và trong cộng đồng. Những hành động cụ thể như giúp đỡ người khó khăn, bảo vệ môi trường, và tham gia vào các hoạt động từ thiện đều là những cách thể hiện đức tin một cách sống động và thực tế. Trong nhiều hoàn cảnh, lòng can đảm và sự khôn ngoan của người giáo dân có thể thể hiện trong vai trò lãnh đạo cộng đồng. Trong hoàn cảnh đó, lòng can đảm và sự khôn ngoan không chỉ giúp giáo dân đối mặt với những thách thức mà còn giúp họ hành động một cách sáng suốt và hiệu quả. Sau cùng, giáo dục con cái về lòng can đảm và sự khôn ngoan là một nhiệm vụ quan trọng của các bậc cha mẹ Công Giáo. Giáo dân có thể giúp con cái hiểu và thực hành hai phẩm chất này qua gương sáng trò chuyện thường ngày trước những vấn đề thực tế trong đời sống, giúp con cái phát triển lòng can đảm và sự khôn ngoan trong cuộc sống. Tóm lại, lòng can đảm và sự khôn ngoan là những phẩm chất không thể thiếu để mỗi Kitô hữu sống đức tin trong đời sống trần thế. Những phẩm chất này hằng giúp chúng ta vượt qua thử thách, bảo vệ sự thật và công lý, và hành động minh bạch, tư duy độc lập sáng suốt, mang lại ích lợi chính đáng cho bản thân và cộng đồng. Trong một thế giới đầy biến động, giáo dân cần lòng can đảm để kiên vững vượt qua những trở ngại và sự khôn ngoan để phân định và lựa chọn đúng đắn. Đó là hai phẩm chất giúp người giáo dân dấn thân sống đức tin giữa lòng trần thế, góp phần xây dựng đời sống xã hội thấm đượm Tin Mừng. Hồi tâm 1/ Trong những tình huống cụ thể nào, tôi thường cần đến lòng can đảm để bảo vệ sự thật và công lý? Tôi đã từng phản ứng ra sao và kết quả như thế nào? 2/ Làm thế nào tôi có thể áp dụng sự khôn ngoan để phân định đúng sai và đưa ra quyết định sáng suốt trong các hoạt động và công việc tại giáo xứ của mình? 3/ Nhớ lại một trải nghiệm khi lòng can đảm và sự khôn ngoan của người Công giáo đã tạo ra sự khác biệt tích cực trong cộng đồng xã hội? Tôi cảm nghĩ thế nào về sự dấn thân của người giáo dân, với lòng can đảm và khôn ngoan, vào đời sống xã hội? ________ [1] Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Tông Huấn Người Tín Hữu Giáo dân (Christifideles Laici), số 15. [2] Nt. [3]X. Hiến chế Mạc Khải (Dei Verbum), số 21 [4] X Hiến chế Mạc Khải (Dei Verbum), số 25. [5] Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông thư Ngàn Năm Thứ Ba (Millennio Adveniente), số 39> [6] Đức Phanxicô, buổi tiếp kiến chung trực tuyến sáng thứ Tư 25/11/2020), nguồn Vatican News. [7] Nguồn: www.ncregister.com/commentaries/without-adoration-there-s-no-evangelization [8] Nguồn: www.vaticannews.va/vi/pope/news/2020-11/ [9] Nguồn: https://linhmucmen.com/news/kho-sach-quy/chung-nhan-giua-doi-thuong [10] Nguồn: https://www.vaticannews.va/vi/church/news/2020-10/le-phong-chan-phuoc-carlo-acutis.html
ỦY BAN GIÁO DÂN - THƯỜNG HUẤN THÁNG 07/2024: TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN - MUỐI ...
LINH ĐẠO DUNG NẠP
LINH ĐẠO DUNG NẠP