Thứ bảy, ngày 06 tháng 07 năm 2024 | 06:35 AM - Giới thiệu | Ý nghĩa logo
Tài liệu
 

Đức Tin Và Phương Pháp Suy Tư Thần Học Của Edward Schillebeeckx

Joseph Tân Nguyễn, O.F.M.

 

 

DẪN NHẬP

Ở cao điểm của Tân Kinh Viện, Đức Giáo Hoàng Leo XIII muốn tái tạo nền triết học Công Giáo vững chắc trên nền tảng của Thánh Thomas d’Aquin, một di sản vàng son của thời Trung Cổ.[1] Rồi 40 năm sau đó, Đức Giáo Hoàng Benedict XV cũng đã ban hành một khoản Giáo Luật (1917) buộc tất cả các Chủng Viện khi nghiên cứu triết học và thần học phải dựa vào các luận điểm, học thuyết và nguyên tắc của Thánh Thomas d’Aquin. Sự nghiêm túc này đã xảy ra theo ý muốn của giáo quyền, nhưng hậu quả của việc nghiên cứu Thánh Thomas d’Aquin thì đi xa hơn những gì giáo quyền có thể đã dự tính. Với ảnh hưởng của Pierre Rouselot (1878-1915) và Joseph Maréchal (1878-1944), thần học gia Công Giáo bắt đầu nghiên cứu Thomas qua lăng kính lịch sử và hệ thống. Đa số các thần học gia nổi tiếng ở giai đoạn này như: Marie-Dominique Chenu, Henri Bouillard, Henry de Lubac,… đã chọn chủ đề Thánh Thomas d’Aquin để làm luận án tiến sĩ.

Tuy nhiên, các học giả trên đây đã khám phá ra một Thomas rất khác với Thomas của Tân Kinh Viện. Họ đã gặp một Thomas vừa là triết gia vừa là thần học gia; chịu ảnh hưởng của Aristotle và cả Augustine với Tân-Plato; nhấn mạnh về tính năng động của con người hướng về Thiên Chúa và chú tâm đến yếu tố tiên nghiệm của tri thức và đức tin. Các thần học gia này muốn kết nối tư tưởng Thomas của lịch sử với các triết thuyết đương thời (hiện tượng luận, hiện sinh, triết ngôn ngữ, phê bình lịch sử,…) để tạo nhịp cầu giữa hai trục của thần học: mạc khải & lý trí con người; ngôn ngữ tôn giáo & ngôn ngữ thường ngày; Tin Mừng & bối cảnh xã hội;… Cùng với các tác giả này và thế hệ thần học gia kế tiếp như: Rahner, Schillbeeckx, Lonegan,… đã cho ra đời một loạt sáng tác rất phong phú cả về chủ đề lẫn phương pháp thần học. Tất cả được gói ghém trong phong trào thần học có tên gọi là “Thần Học Mới” (La Nouvelle Théologie).

Bài viết luận này sẽ nhắm vào phương pháp thần học của Schillebeeckx. Trước tiên, chúng ta sẽ sơ lược qua bối cảnh mà qua đó thần học của Schillebeeckx đã trưởng thành. Sau đó, chúng ta sẽ phân tích cách tác giả tiếp cận các nguồn triết học và thần học đương thời trong các sáng tác của mình. Chúng ta sẽ khai thác ảnh hưởng của phương pháp “tương quan liên đới phê phán” trên các chủ đề thần học và các ứng dụng thời sự của nó. Cuối cùng, chúng ta sẽ rút tỉa một vài nhận định về phương pháp thần học của Schillebeeckx.

A. THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP

Edward Schillebeeckx (1914-2009) sinh ra tại Bỉ, gia đình thuộc gốc Flemish. Ông gia nhập Dòng Thánh Đaminh tại Ghent, học tập tại Cộng đoàn Đaminh ở Louvain và chịu chức linh mục vào năm 1941. Sau khi hoàn tất chương trình học tại Louvain (1943), Schillebeeckx dạy thần học. Cuối thế chiến thứ II, ông chuyển đến Học Viện Đaminh tại Le Saulchoir, Paris, để tiếp tục làm luận án tiến sĩ và tham dự các buổi giảng thuyết tại Sorbonne. Nơi đây, với sự hướng dẫn của Congar và Chenu, Schillebeeckx chú tâm đến khía cạnh lịch sử và các vấn đề công bằng xã hội đang thách đố thần học. Năm 1951, ông xuất bản luận án với tựa đề: “De Sacramentele Heilseconomie” (The Sacrament of Salvation), và sau đó, một tác phẩm khác khá nổi tiếng “Christ the Sacrament of Encounter with God”. Từ năm 1958 Schillebeeckx giữ chức Khoa Trưởng Thần Học tại Đại học Công Giáo Nijmegen, Hà Lan; và nơi đây ông đã liên tục dạy học cũng như nghiên cứu cho đến khi nghỉ hưu (1983). Schillebeeckx tham dự Công Đồng Vatican II như là cố vấn của các Giám mục Hà Lan, và có nhiều ảnh hưởng trong việc phác thảo “Thư Mục Vụ” của Hội Đồng Giám Mục Hà Lan.

Edward Schillebeeckx có một lối nhìn rất độc đáo về sứ mệnh của thần học. Trong lúc Kark Rahner xem sứ mệnh của thần học là khai triển các điều kiện tiên nghiệm của chủ thể để tạo nền tảng cho sự kết nối giữa mạc khải và tri thức, thì Schillebeeckx cho rằng, mục đích của thần học là làm chứng cho niềm hy vọng và khao khát đang thúc đẩy Kitô hữu dấn thân vào công cuộc phấn đấu, chống lại mọi hình thức tha hóa, bạo hành vô nhân đạo đang thống trị con người, và cùng lúc ấy giúp Kitô hữu tìm hiểu ý nghĩa niềm tin của mình cách sâu sắc hơn. Nói cách khác, thần học không chỉ đi tìm “câu trả lời” cho các nghi vấn hiện sinh của con người (Paul Tillich), mà còn phải phản ánh khía cạnh thực hành của đức tin (praxis) vốn đang được thể hiện trong nhiều bối cảnh lịch sử, xã hội. Vì thế, thần học mang một hình thức tương quan liên đới giữa các chiều kích của đức tin, ví dụ như: cảm nghiệm và ngôn ngữ tôn giáo, lý thuyết và thực hành của đức tin,… Nhưng đây là một mối tương quan phê phán, hai trục của thần học phải phê bình và bổ túc lẫn nhau, hầu để căn tính Kitô của thần học được trung thành với nguồn gốc của nó.

Qua gần năm thập niên sáng tác, phương pháp thần học của Schillebeeckx đã thay đổi rất nhiều. Bên dưới các thay đổi là một sự hoán chuyển về các mô biểu tri thức, từ hiện tượng luận sang giải thích học mang tính phê phán lịch sử, và cuối cùng là phê phán xã hội và chính trị. Sự chuyển đổi về phương pháp cũng đã ảnh hưởng đến nội dung của thần học. Trong các tác phẩm đầu tay, thay vì sử dụng phạm trù nhân quả của Aristotle để giải thích hiệu quả của bí tích như trong thần học truyền thống của trường phái Thomas, Schillebeeckx đã dùng phạm trù hiện tượng luận của De Petter vốn cho rằng kinh nghiệm của con người xảy ra bên trong một khung biện chứng của kinh nghiệm và ngôn ngữ. Tích lũy các kinh nghiệm trong quá khứ cho chúng ta cái khung ngôn ngữ để giải thích các kinh nghiệm mới, nhưng kinh nghiệm mới cũng làm sáng tỏ hơn hoặc sửa sai định hướng giải thích tiềm tàng trong khung ngôn ngữ này. Schillebeeckx áp dụng phạm trù “gặp gỡ và đối thoại” của Maurice Merleau-Ponty để giải thích cho sự của hiện diện của Đức Kitô trong bí tích.

Trong giai đoạn giữa, qua những tác phẩm về Kitô học và thừa tác vụ, Schillebeeckx muốn giải quyết vấn đề Kitô học giữa Tin Lành và Công Giáo ở thập niên 70’s (“Jesus of history” versus “Christ of faith”) bằng phương pháp phân tích và phê phán lịch sử. Schillebeeckx nhận ra mối tương quan phê phán giữa cách các môn đệ tiếp cận con người Đức Giêsu và sự hoán cải bên trong họ, và cách con người thời nay phấn đấu cho tự do và tìm ý nghĩa trong một thế giới đầy dẫy hận thù và bất công. Ông cũng đã khai thác thần học mục vụ từ khía cạnh nhu cầu thừa tác vụ của các cộng đoàn đức tin sơ khai.

Cuối cùng, các sáng tác thần học của Schillebeeckx từ sau thập niên 80 mang tính cách hệ thống hơn. Ông kết nối giải thích học với thuyết phê phán xã hội (critical social theory, Habermas) để phân tích mối tương quan phê phán giữa mầu nhiệm cứu rỗi và sự đau khổ đeo đẳng lịch sử nhân loại. Ở đây, chúng ta thấy phương pháp thần học của Schillebeeckx để lộ một mục tiêu rõ ràng, đó là liên kết mầu nhiệm cứu rỗi với niềm hy vọng và khao khát đang thúc đẩy con người dấn thân chống lại những hình thức tha hóa thống trị nhân loại.

B. BỐI CẢNH THẦN HỌC CÔNG GIÁO CỦA SCHILLEBEECKX

Thần học của Schillebeeckx đã được thành hình song song với sự phát triển phức tạp của thần học Công Giáo trong thế kỷ XX. Ông đã chứng kiến nền thần học Công Giáo, thoát thai từ một lịch sử bao che và bảo thủ, một mặt lên án chủ thuyết tân thời,[2] mặt khác sự tái lên ngôi của chủ thuyết Tân Kinh Viện và triết Tân-Thomas. Một khi “cửa sổ” Vatican II được mở rộng, thần học Công Giáo đối đầu trực tiếp với thế giới bên ngoài và đưa đến các thay đổi khá nhanh chóng. Sau đây chúng ta sẽ nhận diện ba sợi “chỉ đỏ” trong các biến chuyển này.

Trước tiên, một khi cánh “cửa sổ Vatican II” được mở rộng, luồng khí mới đã mang lại nhiều phấn khởi. Tuy nhiên, khung cảnh của thế giới “bên ngoài” cửa sổ thì không được sáng sủa và lãng mạn cho lắm. Các “dấu chỉ thời đại” cho thấy Giáo Hội đang phải đương đầu với khủng hoảng về căn tính tôn giáo và thẩm quyền; tương lai nhân loại đang bị đe dọa bởi chính khả năng kỷ thuật tân tiến của nó; và niềm tin giữa con người bị chà đạp bởi bạo hành, đau khổ, bóc lột và bất công. Môi trường đang bị lạm dụng bởi tham vọng vô biên của con người. Hố sâu giữa Tin Mừng và thực tại xã hội, giữa mặc khải và trải nghiệm con người, giữa suy tư thần học và thực hành đức tin thì vẫn còn quá lớn. Trước bối cảnh phức tạp và phê phán triệt để này, thần học gia ở Vatican II được khuyến khích “trở về nguồn” (Kinh Thánh, Tín Lý, biểu tượng đức tin cổ truyền,…) để tìm lại căn tính và đoàn sủng Kitô.

Thế hệ thần học gia Công Giáo đầu tiên của Vatican II đã dùng các phạm trù hiện tượng luận để khai thác các điều kiện tiên nghiệm của tri thức, với mục đích mở rộng chân trời siêu nghiệm, mà qua đó lịch sử mạc khải của Thiên Chúa và sự tiếp cận của con người được gặp gỡ. Tiêu biểu là Rahner, người đã có công kết nối triết Tân Kinh Viện và hữu thể-giải thích luận (ontological hermeneutics) của Heidegger vào một cụm từ gọi là “tiên nghiệm-Thomas” (transcendental Thomism). Đặc điểm của cách tổng hợp trên đây chính là khuynh hướng “trở về với chủ thể”. Khuynh hướng này khẳng định rằng, con người cảm nghiệm tri thức và tự do như là một chân trời tuyệt đối và vô giới hạn, và cảm nghiệm sự gần kề thánh thiêng (divine-nearness) như là “ân sủng” hoặc điều kiện tiên nghiệm để con người có thể mạnh dạn đi tìm ý nghĩa tối hậu trong lịch sử, vì chính lịch sử cũng là “ân sủng”. Như thế, Rahner đã vạch ra một hướng đi mới cho thế hệ thần học tiên khởi sau Vatican II. Đây là một nỗ lực dùng hiện tượng luận để thiết lập mối tương quan liên đới giữa “nội dung” của mạc khải với “cấu trúc siêu nghiệm” của chủ thể con người. Lonergan và Dulles đã đóng góp bằng cách giải thích cấu trúc “siêu nghiệm” của chủ thể một cách phức hợp hơn với phương cách tri thức con người tiếp cận khoa học hoặc dùng mô biểu trong trải nghiệm thường ngày.

Kế tiếp, một khi chủ thể được hiểu như là “cấu trúc” của trải nghiệm và ngôn ngữ thì tính trình thuật (narrativity) của nó được nổi bật. Sợi “chỉ đỏ thứ hai” ở đây chính là “khúc quanh ngôn ngữ” (linguistic turn) được giới thiệu vào suy tư trong thần học. Hậu quả của “linguistic turn” là một lối hiểu biết mới về “khía cạnh tôn giáo” tiềm tàng trong các trải nghiệm và ngôn ngữ con người. Paul Ricoeur giải thích rằng, mạc khải không chỉ là những “tin nhắn” đến từ bên ngoài, nhưng đã được điều kiện hóa bởi khung ngôn ngữ mà chính mạc khải đó đã soi sáng và giúp chúng ta nhận thức thực tại qua một lăng kính mới. David Tracy, kết nối giải thích học của Gadamer, Lonergan và triết ngôn ngữ để kết luận rằng có một “chiều kích tôn giáo” được tỏ lộ qua ngôn ngữ của các bản văn tôn giáo cổ điển và qua tính giới hạn của khoa học, luân lý và triết học ngày nay. Thần học cần giải mã và nhận diện mối tương quan liên đới giữa hai trục này. Như thế, qua lăng kính “linguistic turn”, thần học trở thành một loại giải thích học phê phán có khả năng thiếp lập căn tính Kitô qua cách nó kết nối hai trục của đức tin: kinh nghiệm được lưu lại trong ký ức lịch sử (Kinh Thánh và Giáo truyền), và kinh nghiệm sống trong bối cảnh thế tục ngày nay. Hans Kung và Rosemary Ruether, dùng phương pháp phê bình lịch sử, cũng cho thấy có sự tương đồng và tương phản giữa hai trục của ngôn ngữ đức tin. Ý thức về vần đề này giúp cho thần học có thể tránh được khuynh hướng tuyệt đối hóa hoặc thần cách hóa cách thức diễn đạt đức tin.

Trong khi thần học cố gắng thiết lập “căn tính Kitô” dựa trên mối tương quan liên đới giữa hai trục của trải nghiệm đức tin, câu hỏi được đặt ra là liệu nó có thực sự làm chứng cho tác động của Tin Mừng Kitô trên bối cảnh xã hội hay không? Đây là sự mơ hồ tiềm tàng trong các thể loại thần học được xây dựng trên nền tảng phê phán lý thuyết. Như thế, làn “chỉ đỏ thứ ba” ra đời với khái niệm “thực hành” (praxis) của Metz. Ảnh hưởng bởi triết học của Blondel và thuyết phê phán xã hội (Ordo, Horkheimer), Metz chỉ trích phương pháp siêu nghiệm của Rahner như đốt giai đoạn trong hành trình của “Dasein”, và do đó không thể nhận diện được hành trỉnh này chính là “praxis” của con người trong lịch sử. Nếu thần học phải tiếp tục sứ mệnh làm chứng tá cho thực hành đức tin Kitô - một “praxis” được thôi thúc bởi niềm tin vào quyền năng của Thiên Chúa trong nổ lực xóa bỏ bất công và đau khổ vô nghĩa - thì thần học phải là một loại giải thích học thực hành (praxis) mang tính chính trị. Tính phổ quát của Tin Mừng Kitô sẽ lệ thuộc vào khả năng thần học làm chứng cho “thực hành đức tin”, và khả năng nó tác động và cụ thể hóa Tin Mừng giải phóng cho con người.

Một khi yếu tố “praxis” được đưa vào suy tư thần học, một nhạy cảm mới được giới thiệu vào thần học về các phân biệt giai cấp, chủng loại và giới tính đang tiềm tàng trong mọi hoạt động tri thức kể cả việc suy tư thần học. Do đó thần học “praxis” đã nhanh chóng được cụ thể hóa qua các thần học chính trị Âu Châu, thần học giải phóng Châu Mỹ Latin, thần học Da Đen ở Phi Châu, thần học Á Đông và thần học Phụ Nữ và các cộng đoàn Kitô cơ bản. Như thế, thần học Kitô có được nhiều “địa điểm” cụ thể để cho thực hành đức tin được thi thố. Nếu thần học là “praxis” của xây dựng Nước Chúa, thì trước tiên nó phải phê phán về chính thực hành đức tin của mình.

Cả ba “làn chỉ đỏ” trên đây (“turn to the subject” trong thần học tiên nghiệm, “linguistic turn” trong thần học giải thích, và “praxis” trong các thể loại thần học thực hành) cũng là những mô biểu tri thức đánh dấu các bước phát triển trong phương pháp suy tư thần học của Schillebeeckx. Một tác giả mà sáng tác đã trải dài hơn nửa thế kỷ (1952-2009) thì không thể nào tránh khỏi bị ảnh hưởng bởi thay đổi về tư tưởng triết học và phạm trù xã hội. Chúng ta sẽ phân tích các biến chuyển trong phương pháp thần học của Schillebeeckx theo tiến trình của “ba làn chỉ đỏ” trên đây.

C. NỖ LỰC KẾT NỐI MẠC KHẢI VỚI TRẢI NGHIỆM CON NGƯỜI

Trong suy tư thần học của Schillebeeckx có một niềm ưu tư triền miên, đó là mối tương quan giữa ngôn ngữ đức tin với ngôn ngữ thường ngày. Hay nói cách khác, làm sao có thể kết nối mạc khải với trải nghiệm con người trong cuộc sống thường ngày? Karl Rahmer, dưới ảnh hưởng của Joseph Marechal, đã phân tích tính siêu nghiệm của chủ thể để nói lên điều kiện tiên nghiệm mà con người sống trong thế giới hữu hạn vẫn có thể “lắng nghe” Lời của mạc khải. Schillebeeckx, theo tư tưởng của De Petter, quan niệm rằng không có “thực tại” bên ngoài vòng tròn ngôn ngữ mà tất cả chỉ là sự tương tác giữa trải nghiệm và “khung ngôn ngữ” vốn là sự tích lũy của các trải nghiệm trước đây và nay được soi sáng hoặc bổ túc bởi trải nghiệm mới.

Trong một tiểu luận viết vào đầu thập niên 70 (The Understanding of Faith, Chương V), Schillebeeckx đã phê bình cách thần học gia Tin Lành Paul Tillich kết nối hình thức của “câu hỏi” hiện sinh với nội dung của “câu trả lời” đến từ mạc khải là vượt phạm trù. Schillebeeckx lý luận rằng, con người phải tự trả lời những câu hỏi hiện sinh cho chính mình, cho dù có khó khăn và nhiêu khê đến đâu nữa. Ngôn ngữ mạc khải và ngôn ngữ thường ngày mang cùng một cấu trúc. Chỉ xuyên qua sự hồi tưởng phê phán của ký ức lịch sử thì lời hứa Nước Trời và ơn cứu độ mới có thể được cảm nghiệm như là câu trả lời mang tính mạc khải và đầy ý nghĩa. Schillebeeckx áp dụng sự hiệp nhất giữa trải nghiệm và mạc khải vào công trình Kitô học “Jesus” (1974) và “Christ” (1977). Sau hai tác phẩm đồ sộ này, tác giả đã viết bài tiểu luận “Erfahrung und Glaube” (1980) để giải thích mối tương quan giữa mạc khải và trải nghiệm là một mối tương quan phê phán. Ông lý giải như sau.

Trước hết, Schillebeeckx quan niệm rằng, cả hai trải nghiệm tôn giáo và trải nghiệm thường ngày của con người đều nằm trong cùng một khung ngôn ngữ. Đây là “vòng tròn giải thích” vốn chính nó cũng chỉ là tích lũy của những kinh nghiệm có trước đó. Cùng với nhau, ngôn ngữ và trải nghiệm cấu thành một “chân trời trải nghiệm” điều phối hành động và niềm tin của chúng ta theo một định hướng nào đó. Các trải nghiệm mới qua phản tỉnh có thể phê phán hoặc sữa sai “chân trời trải nghiệm”, hoặc giúp chúng ta nhận thức ý nghĩa mới của các kinh nghiệm cũ qua ánh sáng mới. Đây là lý do tại sao các kinh nghiệm tiêu cực có thẩm quyền và nổi bật hơn các kinh nghiệm khác trong ký ức. Chúng hàm chứa một kỷ năng “mạc khải” và nói lên một “chân lý” mà chúng ta đã học được trong quá khứ. Nói cách khác, mỗi lần chúng ta thốt lên: “Đây là một sự mạc khải đối với tôi!”, tức là chúng ta khẳng định hai sự kiện: có một cái gì đó mới vừa được trải nghiệm, và “vòng tròn giải thích” vốn điều phối mọi kinh nghiệm chúng ta có vừa mới được làm sáng tỏ, củng cố hay bị thử thách một cách nào đó. Và qua đó chúng ta nhận diện “thực tại” dưới ánh sáng của mạc khải mới. Đó là lý do tại sao Schillebeeckx khẳng định rằng: “Trải nghiệm là hoa quả của mạc khải chân chính”.

Thứ nhì, trong chân trời phối hợp giữa kinh nghiệm quá khứ và trải nghiệm hiện tại, thì kinh nghiệm đau khổ để lại một trình thuật đầy “năng lực” hơn (powerful narrative, Ricoeur), và có một dư âm lịch sử lâu dài hơn (effective history, Gadamer) mọi trải nghiệm khác. Vì lẽ, qua đau khổ, chúng ta đối diện với giới hạn của thân xác, của môi sinh, và của khung ngôn ngữ hay vòng tròn giải thích của chính mình. Khi suy gẫm về ký ức đau khổ, chúng ta hồi tưởng lại cái giá con người phải trả để thủ đắt ý nghĩa cho hiện hữu của thân xác, hiện hữu của xã hội và của môi sinh,… tức là nền tảng cho linh đạo của con người. Loại “thực tại” này chỉ có thể tỏ hiện khi chúng ta bị thất vọng trong khi đi tìm ý nghĩa tích cực, hoặc khi chúng ta bị hạ nhục vì đặt quá nhiều kỳ vọng vào hứa hẹn của khoa học. Qua những trải nghiệm tiêu cực như thế, chúng ta khám phá rằng có một loại “tri thức thực hành” vốn không nhất thiết bị giới hạn trong cuộc đời của riêng ta, mà được tích lũy từ khôn ngoan và ký ức đau khổ của các bậc tiền nhân nữa. Schillebeeckx gọi đây là “sức mạnh tri thức của trải nghiệm trái ngược” (the epistemological power of contrast experience). Và như thế, tri thức tích cực về thế giới đòi hỏi phải có một sự tương quan phê phán giữa thực hành hiện tại và ký ức về đau khổ quá khứ.

Cuối cùng, thẩm quyền của trải nghiệm đau khổ tỏ hiện chính nó cách đặc biệt qua sự kiện là chúng ta còn ngần ngại, do dự, không vội vàng trong khi biện phân hướng đi tương lai cho thực hành. Chúng ta nhìn ngược lại vào trải nghiệm quá khứ vốn đã dạy ta những bài học đắt giá về “thực tại”. Có một loại “biện chứng pháp tiêu cực” (negative dialectics) tiềm tàng trong cách con người rút tỉa bài học từ trải nghiệm đau khổ quá khứ để xây dựng viễn tượng tương lai. Một mặt, chúng ta ý thức rằng ý nghĩa tích cực và viễn tượng tối hậu cho nhân loại chỉ có thể được “tạc nên” cách gián tiếp từ những trải nghiệm tổn thương và ký ức đau khổ. Mặc khác, viễn tượng tích cực mà chúng ta dự phóng qua những tranh đấu cho tự do đôi khi có thể nô lệ hóa và chống ngược lại mọi hy vọng được giải phóng của con người. Dù vậy, chúng ta không bỏ cuộc, nhưng vẫn tiếp tục hy vọng vào một tương lai xán lạn hơn. Đây chính là niềm hy vọng vào sự hoàn thành của ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa. Sự do dự này trở thành sức mạnh siêu nghiệm một khi phản tỉnh và thực hành được kết nối với nhau, vốn được trải nghiệm bởi Kitô hữu như là một sự “do dự cánh chung” (eschatological reservation).

Là Kitô hữu chúng ta ý thức rằng ký ức phê phán về Nước Trời mà Đức Giêsu rao giảng và lời hứa “thân xác loài người ngày sau sống lại” thì còn quá xa để trở thành hiện thực, và không thể đồng nghĩa chúng với bất cứ nổ lực nào của con người muốn đạt đến tự do trong lịch sử. Do đó, chỉ có thể qua sự tương quan liên đới phê phán giữa ký ức quá khứ (lời chứng tá của các tông đồ) và tranh đấu cho tự do trong hiện tại thì niềm tin của chúng ta vào ơn cứu độ nơi Đức Giêsu có thể trở thành “mạc khải”. Đây là lý do tại sao thần học, là một sự phản tỉnh phê phán về thực hành đức tin Kitô, đòi hỏi khoảng cách giữa “thực hành biến đổi” (transformative praxis) và “giải thích học tỏ hiện” (disclosive hermeneutic”). Khoảng cách này chỉ có thể đạt được bằng sự tương quan liên đới giữa thần học lý thuyết-phê phán (theoretic-critical theology) và thần học thực hành-phê phán (practico-critical theology).

D. “TƯƠNG QUAN LIÊN ĐỚI PHÊ PHÁN” NHƯ MỘT PHƯƠNG PHÁP THẦN HỌC

Schillebeeckx giải thích phương pháp thần học của ông ta qua ba giai đoạn, kéo dài trong gần ba thập niên. Cụm từ “tương quan liên đới” đầu tiên xuất hiện trong vào giai đoạn giữa, tuy nhiên cái gốc của nó đã bắt đầu từ nỗ lực đối thoại với bối cảnh thế tục hóa và triết phê phán xã hội ở Âu Châu vào cuối thập niên 60.

Trước 1967, cho dù Schillebeeckx chưa dùng cụm từ “tương quan liên đới” để mô tả lối suy tư thần học của mình, nhưng chúng ta vẫn thấy có một nổ lực chung trong các sáng tác của ông muốn kết nối hai khía cạnh của đức tin với nhau,… tâm linh với thân xác con người, hình ảnh về Thiên Chúa với hình ảnh về nhân loại, và tri thức thần học với các mô biểu tri thức dùng trong khoa học. Schillebeeckx muốn giữ choTin Mừng ơn cứu rỗi của Đức Giêsu được luôn mới mẽ và cập nhập cho mọi thế hệ thay vì chỉ là một cổ vật trong viện bảo tàng. Phương pháp dùng để suy tư thần học trong giai đoạn này được hiểu như là những nỗ lực chú giải, thông diễn và mang lại sự sống động cho Lời Chúa bằng các công cụ khoa học: chú giải học, ngôn ngữ học, hiện tượng luận, xã hội học về tri thức,… Đôi khi từ “tương quan”được dùng để nhấn mạnh cấu trúc “lưỡng cực” của mạc khải, nhưng nó chưa được dùng để mô tả phương pháp suy tư thần học. “Mục tiêu của thần học”, Schillebeeckx viết trong bài thuyết trình tại Hoa Kỳ (1967) “là nhận thức được sự ‘tương quan’ giữa hai trục của trải nghiệm đức tin và giúp cho đức tin vượt qua cách an toàn những khủng hoảng của thời đại”.

Một thập niên sau đó, sau khi đã xuất bản hai tác phẩm về Kitô học (Jesus & Christ) và bị giáo quyền Rôma điều tra, Schillebeeckx dùng cơ hội này giải thích các hiểu lầm và làm sáng tỏ phương pháp “tương quan liên đới phê phán” của mình. Trong tác phẩm “The Interim Report” (1980), Schillebeeckx giải thích rằng, cả hai phần của bộ sách Kitô học thì được kết nối bằng ba “bản lề”:

- (1) Tương quan giữa mạc khải và trải nghiệm,

- (2) Tương quan giữa trải nghiệm và giải thích,

- (3) Tương quan phê phán (đôi khi tương phản) giữa các hằng tố cấu trúc tiềm tàng nơi trải nghiệm căn bản của Tin Mừng và truyền thống Kitô, với phân tích của chúng ta về thế giới và trải nghiệm trong hiện tại.

Như thế phương cách Schillebeeckx kết nối thuyết xã hội phê phán (critical social theory) với giải thích học (hermeneutics) thì cũng không khác gì mấy so với cách Ricoeur dung hòa cuộc tranh luận giữa Habermas và Gadamer.

Cuối cùng vào đầu thập niên 90, qua tác phẩm thứ ba của bộ Kitô học: “Church: the human story of God” (1990), Schillebeeckx đã khai triển một cách giải thích về Giáo Hội như là trình thuật của con người về Thiên Chúa. Lối giải thích này thì dựa trên mối tương quan liên đới phê phán giữa ngôn ngữ đức tin và ngôn ngữ dùng thường ngày trong nỗ lực tranh đấu cho tự do của con người. Schillebeeckx tiếp cận thần học mạc khải cũng bằng phương pháp tương quan phê phán này. Cũng trong tác phẩm này, tác giả cố gắng giải quyết vấn nạn “hai ngôn ngữ” (tôn giáo và thường ngày) vốn đã đeo đuổi suy tư thần học của ông suốt ba thập niên trước đó. Nếu sự hiện diện và hành động của Thiên Chúa có thể và phải được tìm gặp trong thế giới chúng ta thì trình thuật về Thiên Chúa (theo-logy) cần phải được tiếp tục, cách tương quan và phê phán, song song với những nỗ lực tranh đấu cho tự do và sung mãn của con người.

E. ÁP DỤNG “TƯƠNG QUAN LIÊN ĐỚI” VÀO CÁC VẤN NẠN THỜI SỰ

Khi nhìn lại tiến trình suy tư thần học của Schillebeeckx ta sẽ thấy có thay đổi rõ rệt về phương pháp nơi bài thuyết trình tại Hoa Kỳ (1969). Trong đó, tác giả bàn về hai “khủng hoảng” thời sự cần được giải quyết:

- (1) Não trạng “thế tục hóa” (secularism),

- (2) Phong trào “cái chết của Thiên Chúa” (the death of God movement).

Schillebeeckx đón nhận các khủng hoảng này như thử thách cho thần học. Nếu thần học có sứ mệnh giúp con người tìm gặp Thiên Chúa trong cuộc sống và nói lên niềm tin căn bản về sự thiện hảo đang hiện diện trong thế giới thì thần học gia phải liên tục cập nhập hóa ngôn ngữ và hình ảnh Thiên Chúa cho phức hợp với thay đổi trong bối cảnh. Hai vấn nạn thời sự trên đây là những bối cảnh mà đòi hỏi thần học gia phải tiếp tục suy tư. Chúng ta hãy phân tích hiệu quả của phương pháp “tương quan liên đới phê phán” qua cách Schillebeeckx giải quyết hai vấn nạn này.

Trước tiên, khi quan sát não trạng “thế tục hóa” - quan điểm cho rằng tất cả mọi sự phải được giải thích qua lăng kính suy lý - Schillebeeckx thấy có một sự rạn nức giữa quan điểm tôn giáo và quan điểm suy lý. Thay vì xét đoán não trạng “thế tục hóa” như là chối bỏ đức tin, ta hãy xem nó như là một khe hở hay hố sâu mà thần học phải vượt qua. Có hai khía cạnh của não trạng “thế tục hóa”. Một mặt, “thế tục hóa” đại diện cho sự thành tựu của con người về khoa học, kỹ thuật và chính trị. Khởi đầu từ thời Kinh Viện, khái niệm “luật tự nhiên” giới thiệu một “cái chêm” vào sự hiểu biết về luật Thiên Chúa và lương tâm con người, tương tự như khái niệm “intellectus agens”của Thomas giới thiệu “chiều ngang” vào sự hiểu biết “chiều dọc” trong thuyết soi sáng của Augustine. Kế tiếp nguyên lý “pure nature” của Bellarmine giới thiệu một loại suy tư “chiều ngang” về hai khuynh hướng tự nhiên và siêu nhiên trong “bản tính” con người sống trong thế giới. Các thần học gia Cải Cách dùng thuyết duy tín (fidelism) để diễn tả hoạt động của Thiên Chúa rất khác với cách của Kinh Viện. Cuối củng với khái niệm “intellegere” của Kant thì niềm tin tôn giáo được đặt trên nền tảng luân lý thay vì mạc khải. Từ đó, Thiên Chúa chỉ là một “giả định” cần thiết cho sự tự do căn bản con người và là nền tảng cho lý tính thực hành. Như vậy, não trạng thế tục hóa nói lên sự trưởng thành và tự tin của lý trí con người.

Mặc khác, trong não trạng “thế tục hóa” có một sự “mơ hồ” mà chủ nghĩa tân thời đã tạo ra cho chính nó. Vì lẽ, quá trình “thế tục hóa” bằng lộ trình lý tính hóa (secularization = rationalization) cuối cùng cũng chỉ dừng lại ở mức độ công cụ (instrumentality, Weber). Công cuộc giải phóng con người bằng con đường của tiến bộ khoa học và kỹ thuật đã không đưa đến một sự thăng tiến toàn bộ cho nhân phẩm con người. Trái lại khoa học, kỹ thuật càng phát triển, các giá trị nhân bản càng bị đè bẹp, tự do con người càng bị trói buộc vào hệ thống kinh tế hay chính trị, và niềm hy vọng được giải phóng hoàn toàn càng trở nên mong manh. Vấn đề không phải là ở sự phát triển của khoa học và kỷ thuật, mà là những hứa hẹn và khẳng định phản-khoa học của nó,… khoa học và kỷ thuật cuối cùng sẽ giải phóng mang lại sự sung mãn toàn diện cho con người! Khoa học và kỹ thuật là thành tựu đáng kể nhưng cũng có thể trở nên công cụ thống trị và tha hóa rất hữu hiệu. Tiếng nói của khoa học và kỹ thuật càn

Các tin khác

VIDEO

  Bài 2: HIỆP HÀNH: Hiệp Thông - Tham Gia - Sứ Vụ | Thường huấn linh mục GP Ban Mê Thuột 2023

  Bài 1: Tầm Nhìn Hoàn Vũ | Thường huấn linh mục GP Ban Mê Thuột 2023

  ĐỨC TIN | Tròn Đầy & Trong Sáng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh

  Mục Vụ Văn Hóa: DANH - LỢI - NGHĨA | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh

  Cử Hành Phụng Vụ | Gặp Gỡ Chúa Kitô - Loan Báo Tin Mừng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn văn Hinh

  Thần Học Mục Vụ & Công đồng Vatican II: Con người - Giáo hội - Môi trường

  Hiệp Hành Hội Ý Dựng lại Mùa Xuân | Người Giáo dân Thiên niên kỷ mới

  Bài 4: Văn Hóa Tổ Chức - Đời Sống Cá Nhân

  Hiệp Hành Kín Đáo và Minh Bạch

  Văn Hóa Tổ Chức - Tổ Chức Cộng Đồng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh (Phần 3)

  Tìm hiểu về văn hóa (Phần 2) - Lm Gioan Kim Nguyễn Văn Hinh

  Tìm hiểu về văn hóa (Phần 1) - Lm Gioan Kim Nguyễn Văn Hinh

  TRỰC TUYẾN BÀI 29: MỤC VỤ THÁNH THIỆN THUẬN THEO

  TRỰC TUYẾN BÀI 28 : MỤC VỤ TÍCH HỢP VĂN HÓA ĐÔNG TÂY

  TRỰC TUYẾN BÀI 27 : MỤC VỤ LỜI CHÚA NGÀY NAY

  TRỰC TUYẾN BÀI : TÌM HIỂU VỀ VĂN HÓA VÀ BẢN SẮC VĂN HÓA VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 26: MỤC VỤ ĐẠO ĐỨC KINH TẾ DỊCH VỤ

  TRỰC TUYẾN BÀI 25: MỤC VỤ TUẦN THÁNH UY VÀ ĐỨC

  TRỰC TUYẾN BÀI 24: MỤC VỤ GIA TÀI CỦA MẸ

  TRỰC TUYẾN BÀI 23: MỤC VỤ BỔ VÀ TẢ

  mvgd20162016

  TRỰC TUYẾN BÀI 21: MỤC VỤ LUẬT CÂN BẰNG

  TRỰC TUYẾN BÀI 20: TRUY TÌM MÃNH LỰC

  TRỰC TUYẾN BÀI 19: THẾ GIỚI HÔM NAY CẦN NHỮNG NGƯỜI CHA NHÂN HẬU LÝ TƯỞNG VÀ THỰC TIỄN

  TRỰC TUYẾN BÀI 18: NĂM THÁNH THÁNH CẢ GIUSE LÃNH ĐẠO VÀ NIỀM TIN

  TRỰC TUYẾN BÀI 17: MỪNG XUÂN TÂN SỬU 2021 - LÒNG BIẾT ƠN TIN VUI ĐẠO ĐỨC VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 17: MỪNG XUÂN TÂN SỬU 2021 - LÒNG BIẾT ƠN TIN VUI ĐẠO ĐỨC VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 16: ĐỀ TÀI ĐIỂM TỰA

  TRỰC TUYẾN BÀI 14: VĂN HÓA KHÔNG NHẬN SAI NHƯNG SỬA SAI

  TRỰC TUYẾN BÀI 13: VUN TRỒNG NỀN VĂN HÓA “TÂM LINH – KHOA HỌC”

  TRỰC TUYẾN BÀI 12: NĂM MỚI 2021 XÂY DỰNG NỀN VĂN MINH TÂM LINH & KHOA HỌC

  TRỰC TUYẾN BÀI 11: GIÁNG SINH 2020 - LÀM NGƯỜi - GIÊSU

  TRỰC TUYẾN BÀI 10: PHÍA ĐẰNG SAU TÂM LINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 9: ĐỂ CÓ CHÚA THÁNH THẦN

  TRỰC TUYẾN BÀI 8: LOAN BÁO TIN MỪNG

  TRỰC TUYẾN BÀI 7: PHÒNG ĐÀO LUYỆN TÂM LINH CỦA TÍN HỮU DÂN CHÚA

  TRỰC TUYẾN BÀI 6: ĐÀO LUYỆN TÍN HỮU DÂN CHÚA

  TRỰC TUYẾN BÀI 5: TẦM NHÌN THIÊN NIÊN KỶ MỚI

  TRỰC TUYẾN BÀI 4: ĐÀO LUYỆN TÂM LINH BẮT ĐẦU TỪ THÁNH THỂ HAY THÁNH KINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 3: PHƯƠNG THỨC CẦU NGUYỆN CẢM NGHIỆM- SỐNG THÁNH GIỮA ĐỜI

  TRỰC TUYẾN: BÀI 2: GIẢI THÍCH ĐÀO LUYỆN TÂM LINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 1: ĐÀO LUYỆN TÂM LINH

  TintucVatican

  Thánh Lễ Tuyên Thánh Jacinta và Francisco Marto

  Muối và ánh sáng

  Thế Giới Nhìn Từ Vatican

  Nghi thức đóng Cửa Thánh

  Xin Mẹ Thương

  Thế Giới Nhìn Từ Vatican

  Suy Niệm với Đức Thánh Cha Phanxicô

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__3

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__1

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__2

  Thường huấn HĐMVGX Ban Mê Thuật

  Quốc tế thiếu nhi 01-6-2014

  Thể dục Dưỡng Sinh

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  CƠM TRƯA TRUNG THU 2013

  Thi đấu thăng cấp sơ đẳng Vovinam

  Khai mạc kỳ thi thăng cấp Vovinam

  Vovinam

  Đào luyện tâm linh

  Nghệ thuật cân bằng

  Đào Luyện Tinh Thần

  Đào Luyện Thể Chất

Bài viết mới
BÀI GIẢNG ĐỨC THÁNH CHA - CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN NĂM B
BÀI GIẢNG ĐỨC THÁNH CHA - CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN NĂM B.
ỦY BAN GIÁO DÂN - THƯỜNG HUẤN THÁNG 07/2024: TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN - MUỐI VÀ ÁNH SÁNG CHO THẾ GIỚI avatar Ủy ban Giáo dân 01/07/2024 Giáo hội là Dân Thiên Chúa, nơi mỗi người tín hữu, dù là giáo sĩ hay giáo dân, đều đóng góp vai trò không thể thiếu trong sứ mạng loan báo Tin Mừng. Chủ đề “Tông đồ giáo dân: Muối và ánh sáng cho thế giới” tập trung vào việc khai triển và cổ võ vai trò của giáo dân trong việc trở thành muối ướp mặn đời và ánh sáng soi sáng trần gian. Ủy ban Giáo dân Hội đồng Giám mục Việt Nam THƯỜNG HUẤN THÁNG 07/2024: TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN: MUỐI VÀ ÁNH SÁNG CHO THẾ GIỚI BÀI 1: HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN DỰA TRÊN LỜI CHÚA - Phanxicô Xaviê Nguyễn Thái BÀI 2: SỐNG TIN MỪNG TRONG ĐỜI THƯỜNG – Lm. Antôn Hà Văn Minh BÀI 3: BIẾN ĐỔI THẾ GIỚI TỪ BÊN TRONG - Lm. Tôma Vũ Ngọc Tín, S.J. BÀI 4: LÒNG CAN ĐẢM VÀ SỰ KHÔN NGOAN KHI DẤN THÂN VÀO ĐỜI SỐNG TRẦN THẾ - Lm. Tôma Vũ Ngọc Tín, S.J. BÀI 1: HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN DỰA TRÊN LỜI CHÚA - Phanxicô Xaviê Nguyễn Thái “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. “Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá. Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành” (Mt 7, 21.24 – 27). Đọc đoạn Tin Mừng trên cho chúng ta thấy: sống Tin Mừng trong đời thường là một hành trình đức tin mà qua đó, người Kitô hữu áp dụng lời dạy của Chúa Giêsu vào cuộc sống hàng ngày. Yêu Chúa không chỉ là tham dự các thánh lễ, các giờ kinh, mà phải thi hành ý muốn của Chúa Cha qua việc lãnh nhận các bí tích thường xuyên và qua cách chúng ta tương tác với mọi người xung quanh, cách chúng ta hành xử với thử thách và cách thực hiện các quyết định. Dưới đây là một số suy tư của giáo dân và một số cách để sống Tin Mừng trong đời thường: 1. Suy niệm và cầu nguyện với Lời Chúa: chúng ta không thể kết hiệp mật thiết với Chúa mà không cầu nguyện với Ngài. Việc dành thời gian mỗi ngày để suy niệm và cầu nguyện với Lời Chúa giúp nuôi dưỡng tâm hồn chúng ta ngày càng trở nên thánh thiện hơn, yêu Chúa nhiều hơn và được Chúa hướng dẫn hành động. 2. Yêu thương tha nhân là yếu tố quan trọng khi ta sống theo Tin Mừng. Yêu thương mọi người xung quanh mình, cho dù họ là ai, tôn giáo nào, giàu hay nghèo. “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” ( Ga 15, 12 ). Điều này áp dụng qua việc giúp đỡ những người nghèo khó, an ủi những người đang gặp khó khăn, và chia sẻ cho cộng đồng đang cần đến tình thương của mình. 3. Hiền lành và khiêm nhường: là ứng xử một cách nhẹ nhàng, không gây ra xung đột, luôn lắng nghe và tôn trọng ý kiến của người khác, và tìm cách giải quyết mọi vấn đề một cách dịu dàng và an bình. Tuy nhiên, hiền lành và khiêm nhường không đồng nghĩa với sự yếu đuối, mà chính là một cách để thể hiện sự mạnh mẽ và tự tin của bản thân thông qua sự kiểm soát cảm xúc và nhận thức. 4. Sống công bằng và bác ái: cố gắng sống công bằng với mọi người, không phân biệt đối xử, không chỉ dựa trên sự thỏa thuận mà dựa trên giá trị cốt lõi là phẩm giá con người, và thực hiện các hành động bác ái, như viếng thăm người đau yếu, quyên góp cho từ thiện, chia sẻ Chúa cho anh em, tham gia phục vụ cộng đồng dân Chúa cũng như cộng đồng xã hội. 5. Kiên nhẫn tha thứ: sống theo Tin Mừng đòi hỏi lòng kiên nhẫn và sẵn lòng tha thứ, dù trong những hoàn cảnh khó khăn nhất. Tha thứ đến cùng, tha thứ không giới hạn cho những lỗi lầm của người khác. Lý do chính mà chúng ta làm là vì Chúa đã tha thứ cho mỗi người chúng ta. 6. Chia sẻ niềm vui: sống vui tươi, dịu dàng với mọi người qua lối sống khó nghèo, tìm kiếm sự hài lòng, phấn khởi trong những điều giản dị và ý nghĩa của cuộc sống. 7. Sống Tin Mừng trong đời thường là chúng ta làm chứng về một Đức Giêsu con Thiên Chúa đã xuống trần gian, chịu chết và sống lại cho chúng ta được sống và được sống lại. Chứng nhân không chỉ trong một giai đoạn của cuộc sống nhưng là một đời Kitô hữu được kết hiệp với Chúa, bằng nguồn sống của Chúa. Qua hành động và lời nói hàng ngày, qua cách sống và tương tác với tha nhân làm sao bày tỏ được tình yêu và lòng thương xót của Chúa. Những suy tư Sống Tin Mừng trong đời thường không chỉ là làm một số việc đạo mà là cách sống thánh thiện và yêu thương mọi người xung quanh. Mỗi người cần gìn giữ và phát triển niềm tin của mình để sống đúng lý tưởng và hạnh phúc theo tinh thần của Tin Mừng. Sống Tin Mừng trong đời thường không phải lúc nào cũng dễ dàng, mỗi người giáo dân có cách sống Tin Mừng trong cuộc sống của họ một cách khác nhau. Nhiều giáo dân chưa mở lòng nên không nhận được ơn Chúa. Họ sống khép kín, không tham gia vào giáo xứ hoặc nếu có cũng chỉ là hình thức. Có những người không biết về Tin Mừng hoặc có biết qua loa thì cũng chưa áp dụng Tin Mừng vào cuộc sống, có khi còn không dám cho người khác biết mình là người Công Giáo, không dám sống đức tin của mình. Những người giáo dân khác sống theo lời dạy của Chúa Giêsu và thực hành lòng nhân từ, yêu thương và tha thứ. Trong khi một số khác có thể gặp khó khăn trong việc áp dụng những giá trị đạo đức từ Tin Mừng vào cuộc sống hàng ngày. Tuy nhiên, quan trọng nhất là họ luôn cố gắng học hỏi và phát triển trong đức tin của mình để trở thành những người sống theo Tin Mừng mẫu mực. Được như thế là giáo dân cũng đang tham gia vào đời sống của Giáo Hội, dần dần góp phần xây dựng một Giáo Hội hiệp hành và một thế giới tốt đẹp hơn. Hồi Tâm 1/ Làm cách nào giúp mọi người Công Giáo, hay ít nhất là những người đi lễ mỗi tuần có thể học, suy niệm và cầu nguyện với Tin Mừng? Nếu đang làm việc trong Hội đồng mục vụ giáo xứ hay trong các Hội đoàn Công giáo tiến hành, bạn sẽ làm gì? 2/ Chứng nhân Tin Mừng trong đời thường là phương cách hữu hiệu giúp người khác dễ dàng sống theo gương, bạn có thể chia sẻ chứng nhân trong những buổi họp, hay những lúc riêng tư cho những người chung quanh không? 3/ Trong đời thường, bạn làm gì để bày tỏ lòng yêu mến Chúa qua tha nhân? BÀI 2: SỐNG TIN MỪNG TRONG ĐỜI THƯỜNG – Lm. Antôn Hà Văn Minh Qua Bí tích Rửa tội, người tín hữu được dự phần vào sứ vụ của Chúa Giêsu. Sứ vụ đó chính làm cho mọi người nhận biết ơn cứu độ của Thiên Chúa Cha tỏ bày cho nhân loại qua Đức Giêsu Kitô. Thi hành sứ vụ chính là sống Tin Mừng giữa lòng thế giới, cụ thể trong cuộc sống thường ngày của mỗi tín hữu. Công Đồng nói về cảnh sống trần thế của giáo dân bằng cách trình bày cảnh sống ấy, trước tiên, như là môi trường trong đó họ được Thiên Chúa mời gọi: “Đó là nơi Thiên Chúa gọi họ” (LG số 31). Và thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã giải nghĩa: “nơi” được trình bày bằng những hạn từ có tính cách năng động: giáo dân sống giữa trần gian, nghĩa là dấn thân vào tất cả cũng như từng công việc và bổn phận của trần thế, giữa những cảnh sống thường ngày trong gia đình và ngoài xã hội, tất cả những điều đó như dệt thành cuộc sống của họ. Đó là những con người có một đời sống bình thường trong trần gian, học hỏi, làm việc, thiết lập những tương quan bạn bè, xã hội, nghề nghiệp, văn hóa”[1]. Sống Tin Mừng là gì? Trích dẫn Lời Chúa: “Chính anh em là muối cho đời… là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,13–14), Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã trình bày: “Lời mời gọi của Chúa Giêsu chính là sứ mạng của người tín hữu sống trong thế giới này. Người Kitô hữu không coi thế gian là địa ngục, là nơi giam cầm của những nỗi thống khổ, cũng như không coi thế gian là hạnh phúc vĩnh cửu cho cuộc đời mình, nhưng là nơi để Thiên Chúa tỏ lộ tình yêu của Ngài qua sự cộng tác của con người, và là nơi để con người được thực thi ơn gọi và sứ mạng Kitô hữu của mình trong một tình yêu dấn thân và thánh hóa thế giới: Tham dự vào lãnh vực trần thế, là phận vụ phát xuất từ bản tính nội tại và sứ mạng của mình”[2]. Vì thế, sống Tin Mừng chính là huấn luyện bản thân nhuần thấm Tin Mừng để có thể thực thi ơn gọi của mình cách trọn hảo. Thiên Chúa muốn người tín hữu trở thành muối, thành ánh sáng cho thế giới bằng chính đời sống Tin Mừng của mình, hay nói cách khác người tín hữu dấn thân phục vụ để trần gian nhận biết tình yêu của Ngài dành cho nhân loại, một tình yêu trọng đại đã được thánh Gioan diễn tả: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời” (Ga 3, 16). Nhưng để có thể sống Tin Mừng, dấn thân phục vụ cho Tin Mừng, đòi hỏi người tín hữu phải là người thấm đẫm Tin Mừng. Chỉ là men Tin Mừng khi người hữu phải đầy “chất” Tin Mừng. Vì thế, sống Tin Mừng trước tiên phải kết hợp mật thiết với Đức Kitô, vì Ngài chính là Tin Mừng. Vì thế, cuộc gặp gỡ với Tin Mừng là nền tảng cho việc sống Tin Mừng. Điều đó được thực hiện trước tiên chính là cuộc gặp gỡ Lời qua Kinh Thánh. Công đồng Vatican II trong hiến chế Mạc khải đã minh định: Chúa Cha muốn gặp gỡ con cái mình và ngỏ lời với họ qua Sách Thánh. Như vậy, tiếp cận với Lời Chúa, đọc Thánh Kinh là đi vào một cuộc gặp gỡ, tham gia một cuộc đối thoại với Thiên Chúa[3]. Quả thật việc đọc Thánh Kinh là cách thế tuyệt hảo để có được cuộc đối thoại với Thiên Chúa, vì “chúng ta ngỏ lời với Ngài khi cầu nguyện, và chúng ta nghe Ngài nói lúc chúng ta đọc các sấm ngôn thần linh”[4]. Trong Tông Thư “Khởi Đầu Ngàn Thứ Ba”, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II viết: “Lời Chúa phải trở nên một sự gặp gỡ ban sự sống, theo truyền thống xa xưa và luôn vững chắc về việc đọc Sách Thánh, cho phép rút ra từ bản văn Thánh Kinh Lời Hằng Sống, là lời chất vấn, hướng dẫn và hình thành cuộc sống chúng ta” (số 39)[5]. Người tín hữu chỉ có thể là men Tin Mừng, khi đời sống được đặt trên nền tảng Lời Chúa, không thường xuyên cầu nguyện với Lời Chúa không thể nào hoán cải cuộc đời để có thể làm cho đời mình trở thành men Tin Mừng. Dựa vào hoạt động của Giáo Hội tiên khởi được tường thuật trong sách Tông đồ công vụ, Đức Thánh cha Phanxicô nói: “Chúng ta khám phá động cơ mạnh mẽ của việc loan báo Tin Mừng chính là những buổi quy tụ cầu nguyện, nơi những người tham gia cảm nghiệm cách sống động sự hiện diện của Chúa Giêsu và được Chúa Thánh Thần đánh động. ...Lời cầu nguyện truyền lan ánh sáng và sự hăng hái: ân sủng của Chúa Thánh Thần làm nảy sinh trong lòng họ sự nhiệt thành”[6]. Dĩ nhiên việc tiếp cận Lời Chúa phải gắn chặt với Thánh Thể. Đức Thánh cha Phanxicô đã nói mạnh mẽ: Chỉ trong sự tôn sùng Thánh Thể, chỉ trước mặt Chúa, hương vị và sự say mê truyền giáo mới có thể được phục hồi. Lòng tôn sùng Thánh Thể là động lực giúp cho chúng ta vượt thắng những phong ba bão táp của cuộc đời, đặc biệt đó là nguồn khích lệ cho những người hết lòng chia sẻ Tin Mừng, chính vì trong Bí tích Thánh Thể, “chúng ta gặp gỡ Đấng đã ban mọi sự cho chúng ta” và đến lượt mình, chúng ta trở nên có khả năng chia sẻ tình yêu đó với người khác[7]. Để có thể sống Tin Mừng hầu trở thành men của Tin Mừng, chúng ta cần phải liên kết chặt chẽ với Chúa Kitô qua Lời Chúa, Thánh Thể và cầu nguyện và sống tình huynh đê. Bốn yếu tố: Lời Chúa, tìm kiếm tình hiệp thông huynh đệ, Thánh Thể và cầu nguyện, theo Đức Thánh Cha Phanxicô, chính là tiêu chuẩn để phân định một sự việc. Bất cứ trường hợp nào thiếu những yếu tố này điều thiếu tính Giáo hội, không phải của Giáo hội, yếu tố quan trọng để chứng thực chúng ta thực sự là Men của Tin Mừng.[8] Sống Tin Mừng giữa đời thường Nhìn vào thực tế, trăn trở lớn của Giáo Hội Việt Nam là vấn đề Loan Báo Tin Mừng. Thật vậy, con số tín hữu Việt Nam đến nhà thờ dâng lễ mỗi Chúa Nhật có thể nói cho đến lúc này vẫn đáng tự hào, thế nhưng niềm tự hào này có thực sự là niềm vui đích thực không? Bởi nhìn vào cánh đồng truyền giáo mỗi địa phương vẫn còn ngổn ngang, vẫn còn có qua nhiều người chưa được tiếp cận với Tin Mừng, vẫn còn đó nhưng lương dân là hàng xóm của các gia đình Công giáo, nhưng họ chẳng nghe nói về Chúa Giêsu, không một lần tiếp cận được với Tin Mừng. Câu trả lời được tìm thầy nơi lối sống của người tín hữu Công giáo. Là men Tin Mừng, nhưng họ lại không thể hiện lối sống Tin Mừng ngay trong môi trường mình sinh sống. Họ tách rời đức tin và cuộc sống thường ngày, họ đóng khung lối sống Tin Mừng trong nhà thờ, họ không làm cho men Tin Mừng được dậy lên trong người môi trường mình sống. Cha mẹ vẫn đi dâng lễ ngày Chúa nhật, nhưng chưa một lần hướng dẫn con cái về đời sống đức tin. Người tín hữu vẫn thường xuyên gặp gỡ bạn bè là lương dân, nhưng chưa một lần họ nghe về Chúa Giêsu, nhiều khi còn tệ hơn, để làm vui lòng bạn bè lương dân, người Công Giáo sẵn sàng bỏ đi lễ Chúa nhật; ngoài phố chợ, những chủ cửa hàng Công Giáo vẫn ngần ngại thể hiện lối sống Tin Mừng để giữ đức công bình và đức yêu thương... Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhấn mạnh: “Người tín hữu không được mời gọi rời bỏ vị thế họ đang sống nơi trần gian. Thực vậy, Bí tích Thánh Tẩy không kéo họ ra khỏi trần gian, như thánh Phaolô đã nhấn mạnh: ‘Thưa anh em, khi được kêu gọi ở địa vị nào, mỗi người cứ ở địa vị đó trước mặt Thiên Chúa’ (1 Cr 7,24); trái lại, Ngài trao cho họ một ơn gọi có liên hệ đích thực với tình huống của họ trong trần gian: thực vậy, giáo dân được ‘Thiên Chúa kêu gọi để, dưới sự hướng dẫn của tinh thần phúc âm, như men từ bên trong, họ thánh hóa thế giới bằng việc thi hành những nhiệm vụ của mình; và như thế, với lòng tin cậy mến sáng ngời, nhất là với chứng tá đời sống, họ tỏ lộ Chúa Kitô cho kẻ khác’ (Tông huấn Người Tín hữu Giáo dân, số 15) Cha Mến kể câu chuyện: Chứng nhân trong đời thường như sau: Nhà giáo dục vĩ đại Booker T. Washington có viết như sau trong cuốn tự thuật mang tựa đề: “Từ ách nô lệ đi lên” của ông: “Càng lớn tôi càng tin chắc rằng, không một sự giáo dục nào có thể gặt hái được từ sách vở, hay từ những dụng cụ đắt tiền, mà có thể sánh ví được với những gì ta có thể gặt hái được, do tiếp xúc với các bậc vĩ nhân”. Cách đây ít lâu, một phụ nữ Ấn độ giáo đã trở lại Công giáo, sau một thời gian nghe rao giảng Lời Chúa. Bà chịu nhiều gièm pha, đay nghiến từ người chồng và bao người thân, do việc bà trở lại đạo. Có lần cha xứ hỏi bà: “Khi chồng con nổi giận và hành hạ con, thì con làm gì”? Bà đáp: “Thưa Cha, con cố gắng nấu ăn ngon hơn. Khi ông than trách, con lau chùi nhà sạch hơn. Khi ông ăn nói cộc cằn, con trả lời ôn tồn nhỏ nhẹ. Con cố gắng để chứng tỏ cho ông ta thấy: Khi con trở lại đạo Chúa, con phải là người vợ và người mẹ tốt hơn”. Một thời gian sau, chính ông chồng cũng xin trở lại đạo Công giáo, không phải vì lời giảng của cha xứ, cho bằng chính nhờ gương sáng sống đạo của bà vợ đạo đức của ông.[9] Sắp tới đây Đức Thánh cha Phanxicô sẽ phong thánh cho chân phước Carlo Arcutis, một vị thánh trẻ, được gọi vị thánh thuộc thế hệ Y. Thánh nhân có gì đặc biệt? Không có gì đặc biệt ngoài việc ngài sống Tin Mừng giữa đời thường. Đức hồng y Vallini trong bài giảng lễ phong chân phước đã nói về Carlo Arcutis như sau: Carlo có lòng yêu mến Thánh Thể và gắn bó với Thánh Thể cách đặc biệt. Chúa Giêsu là Bạn, là Thầy, là Đấng Cứu Độ và là sức mạnh cho cuộc sống của Acutis và là động lực của mọi việc cậu làm. Từ đó, Carlo mong muốn mãnh liệt đưa người khác đến với Chúa và cậu làm điều này trên hết bằng gương mẫu cuộc sống. Carlo dùng mọi cách, cả cách thức hiện đại, với tài năng về tin học Chúa ban, để gặp gỡ và loan truyền các giá trị Kitô giáo cho người khác[10]. BÀI 3: BIẾN ĐỔI THẾ GIỚI TỪ BÊN TRONG - Lm. Tôma Vũ Ngọc Tín, S.J. Đời sống Kitô hữu giữa lòng trần thế như những hạt muối tinh tế thấm vào lòng đời, lặng lẽ làm biến đổi thế giới, như men trong bột làm dậy lên cả khối bột. Hành trình hy vọng nhưng cũng đầy thách đố này đòi hỏi sự biến đổi sâu sắc từ bên trong tâm hồn và đời sống mỗi người tín hữu. Khi mỗi người thay đổi từ nội tâm, họ trở thành ánh sáng lan tỏa, chiếu rọi khắp nơi, góp phần biến đổi thế giới bằng chính đời sống đức tin của mình. Theo Sắc Lệnh về Tông Đồ Giáo Dân, linh đạo tông đồ giáo dân không chỉ là sống đức tin một cách cá vị, mà còn là tham gia tích cực vào sứ mạng của Giáo Hội. Giáo dân được mời gọi trở thành những tông đồ giữa đời, mang Tin Mừng đến mọi nơi (Apostolicam Actuositatem-AA, 4). Linh đạo này giúp mỗi người giáo dân nhận ra rằng, họ có một vai trò đặc biệt trong việc xây dựng Nước Trời nơi trần thế, không chỉ qua lời nói mà còn qua hành động cụ thể trong cuộc sống thường ngày: “Bản chất riêng biệt của người giáo dân là sống giữa đời và làm việc đời nên chính họ được Thiên Chúa mời gọi để một khi tràn đầy tinh thần Kitô giáo, họ làm việc tông đồ giữa đời như men trong bột” (AA 2). Sống linh đạo tông đồ giáo dân như thế, trước hết người giáo dân gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu qua Lời Chúa và Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể là tâm điểm đời sống người tín hữu, nuôi dưỡng mỗi người trong hành trình Kitô hữu giữa đời, giúp mỗi người kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu và dấn thân phục vụ sứ mạng của Người: “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu, đó không chỉ là lời mời gọi, mà còn là một yêu cầu thiết yếu, để mỗi Kitô hữu có thể sống đức tin và thực thi sứ mạng của mình. Tham dự Thánh lễ, cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa,… là những phương thế giúp giáo dân nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của mình. Cầu nguyện giúp người giáo dân sống tình thân mật thiết với Chúa, trong khi suy niệm Lời Chúa giúp họ hiểu rõ hơn về ý nghĩa và sứ mạng của mình như được Chúa mời gọi. Kết hiệp với Chúa Giêsu qua Thánh Thể và Lời Chúa là những phương thế sống động để mỗi người trở nên men trong bột, biến đổi thế giới từ bên trong. Từ đời sống gắn kết với Chúa Giêsu, người giáo dân sống đức tin của mình qua những hành động cụ thể trong gia đình, nơi làm việc, và cộng đồng. Điều này có thể bao gồm việc tham gia vào các hoạt động xã hội, hỗ trợ người nghèo, bảo vệ môi trường, và tham gia vào các phong trào xã hội nhằm thúc đẩy công lý và hòa bình. Ý nghĩa của việc trở thành men trong bột là mỗi Kitô hữu đều có thể đóng góp một phần nhỏ nhưng quan trọng vào việc biến đổi thế giới xung quanh. Điều này đòi hỏi mỗi người phải sống đời sống đức tin một cách chân thật và nhiệt thành. Tình yêu và công lý là hai yếu tố không thể thiếu trong linh đạo giáo dân. Mỗi giáo dân được mời gọi sống yêu thương qua những hành động cụ thể, đồng thời nỗ lực thực thi công lý và xây dựng hòa bình. Các hoạt động xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc thực hành tông đồ giáo dân. Tham gia vào các hoạt động này không chỉ giúp mỗi người thực thi sứ mạng truyền giáo, mà còn góp phần xây dựng một xã hội công bằng và yêu thương hơn. Sau cùng, qua đời sống đức tin và dấn thân tông đồ, mỗi người góp phần xây dựng và phát triển cộng đoàn giáo xứ. Qua việc tham gia tích cực vào đời sống giáo xứ, giáo dân không chỉ đóng góp vào sự phát triển của cộng đoàn mà còn tạo ra một môi trường yêu thương và hiệp nhất. Một cộng đoàn yêu thương sẽ là nền tảng vững chắc để mỗi giáo dân có thể thực thi sứ mạng truyền giáo của mình một cách hiệu quả. Tóm lại, hành trình Kitô hữu giữa lòng trần thế là trở thành muối và men, âm thầm, trung kiên, nhẫn nại thấm vào mọi ngóc ngách của cuộc sống, làm biến đổi thế giới từ nội tại. Sống đức tin trong đời thường, thể hiện qua những hành động cụ thể trong gia đình, nơi làm việc và cộng đồng, là cách mỗi Kitô hữu trở thành men trong bột, biến đổi thế giới bằng tình yêu và công lý. Kết hiệp với Chúa qua cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa, cùng tham gia vào các hoạt động xã hội, là nền tảng để mỗi giáo dân góp phần xây dựng một xã hội công bằng và yêu thương, biến đổi thế giới từ bên trong. Hồi tâm 1/ Nhìn lại kinh nghiệm sống đạo, tôi thấy mình trở nên ánh sáng và muối và men trong môi trường sống như thế nào? Tôi có thể làm gì để thẩm thấu và lan tỏa tinh thần Kitô giáo trong gia đình, nơi làm việc, và cộng đồng của mình? 2/ Tôi cảm nghiệm thế nào về ơn gọi và sứ mạng Kitô hữu khi cầu nguyện và suy niệm lời Chúa? Làm thế nào tôi có thể biến những cảm nghĩ thiêng liêng ấy thành hành động cụ thể để xây dựng Nước Trời ngay cuộc sống đời thường của tôi? 3/ Khi đối diện với những thách thức trong cuộc sống và xã hội, tôi trải nghiệm thế nào về tình yêu và công lý như men trong bột, làm dậy lên sự thay đổi tích cực? Tôi có sẵn sàng dấn thân hơn nữa để trở thành người tông đồ truyền giáo giữa đời, lan toả tình yêu và công lý trong môi trường sống thường ngày? BÀI 4: LÒNG CAN ĐẢM VÀ SỰ KHÔN NGOAN KHI DẤN THÂN VÀO ĐỜI SỐNG TRẦN THẾ - Lm. Tôma Vũ Ngọc Tín, S.J. Lòng can đảm và sự khôn ngoan là hai phẩm chất quan trọng mà mỗi Kitô hữu cần có để sống và làm chứng cho đức tin trong đời sống trần thế. Lòng can đảm giúp chúng ta vượt qua những thử thách và khó khăn, dám đứng lên bảo vệ sự thật và công lý. Sự khôn ngoan, hướng dẫn chúng ta hành động một cách sáng suốt, biết phân định phải trái, đúng sai và chọn lựa đường hướng đẹp lòng Chúa. Trong một thế giới đầy biến động và thách thức, lòng can đảm và sự khôn ngoan trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Đối với giáo dân, hai phẩm chất này không chỉ giúp họ sống đức tin một cách mạnh mẽ và vững vàng mà còn đóng góp tích cực vào việc xây dựng một xã hội công bằng và nhân ái hơn. Lòng can đảm là một chủ đề được nhắc đến nhiều trong Kinh Thánh: “Mạnh bạo lên, can đảm lên! Đó chẳng phải là lệnh Ta đã truyền cho ngươi sao? Đừng run khiếp, đừng sợ hãi, vì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, sẽ ở với ngươi bất cứ nơi nào ngươi đi tới” (Gs 1,9). Lời khích lệ này không chỉ dành cho Thủ lãnh Giôsuê mà còn dành cho tất cả chúng ta, những người đang sống và làm chứng cho đức tin. Lòng can đảm giúp chúng ta đứng vững trước những thử thách, bảo vệ niềm tin và dám sống theo những giá trị Tin Mừng trong một thế giới đầy cám dỗ, bạo loạn và bất công. Sự khôn ngoan cũng là một đức tính quan trọng được Kinh Thánh đề cao: “Nếu ai trong anh em thiếu đức khôn ngoan, thì hãy cầu xin Thiên Chúa, Người sẽ ban cho. Vì Thiên Chúa ban cho mọi người cách rộng rãi, không quở trách” (Gc 1,5). Sự khôn ngoan giúp chúng ta biết phân định đúng sai, tốt xấu, lựa chọn đường hướng đẹp lòng Chúa và hành động một cách sáng suốt trong mọi hoàn cảnh. Nó không chỉ là tri thức mà còn là khả năng ứng dụng tri thức đó vào cuộc sống một cách đúng đắn và hiệu quả tốt đẹp. Mỗi người vẫn thường đối diện với những thách đố và nghịch cảnh trong đời sống. Điều quan trọng là cách chúng ta đối diện và vượt qua chúng. Cuộc sống trần thế có muôn vàn cảnh huống mà ở đó, người giáo dân thể hiện lòng can đảm và sự khôn ngoan khi luôn tin cậy Chúa và đối diện khó khăn, chẳng hạn như việc bảo vệ sự thật và công lý trong môi trường làm việc, nơi có thể gặp phải những áp lực và cám dỗ. Lòng can đảm giúp chúng ta không lùi bước, trong khi sự khôn ngoan giúp chúng ta chọn lựa cách hành động phù hợp và hiệu quả. Đời sống đức tin không dừng ở việc tham dự các cử hành phục vụ mà còn sống theo những giá trị Kitô giáo trong đời sống thường ngày. Giáo dân có thể thể hiện lòng can đảm và sự khôn ngoan bằng cách làm gương sáng trong môi trường làm việc, trong gia đình, và trong cộng đồng. Những hành động cụ thể như giúp đỡ người khó khăn, bảo vệ môi trường, và tham gia vào các hoạt động từ thiện đều là những cách thể hiện đức tin một cách sống động và thực tế. Trong nhiều hoàn cảnh, lòng can đảm và sự khôn ngoan của người giáo dân có thể thể hiện trong vai trò lãnh đạo cộng đồng. Trong hoàn cảnh đó, lòng can đảm và sự khôn ngoan không chỉ giúp giáo dân đối mặt với những thách thức mà còn giúp họ hành động một cách sáng suốt và hiệu quả. Sau cùng, giáo dục con cái về lòng can đảm và sự khôn ngoan là một nhiệm vụ quan trọng của các bậc cha mẹ Công Giáo. Giáo dân có thể giúp con cái hiểu và thực hành hai phẩm chất này qua gương sáng trò chuyện thường ngày trước những vấn đề thực tế trong đời sống, giúp con cái phát triển lòng can đảm và sự khôn ngoan trong cuộc sống. Tóm lại, lòng can đảm và sự khôn ngoan là những phẩm chất không thể thiếu để mỗi Kitô hữu sống đức tin trong đời sống trần thế. Những phẩm chất này hằng giúp chúng ta vượt qua thử thách, bảo vệ sự thật và công lý, và hành động minh bạch, tư duy độc lập sáng suốt, mang lại ích lợi chính đáng cho bản thân và cộng đồng. Trong một thế giới đầy biến động, giáo dân cần lòng can đảm để kiên vững vượt qua những trở ngại và sự khôn ngoan để phân định và lựa chọn đúng đắn. Đó là hai phẩm chất giúp người giáo dân dấn thân sống đức tin giữa lòng trần thế, góp phần xây dựng đời sống xã hội thấm đượm Tin Mừng. Hồi tâm 1/ Trong những tình huống cụ thể nào, tôi thường cần đến lòng can đảm để bảo vệ sự thật và công lý? Tôi đã từng phản ứng ra sao và kết quả như thế nào? 2/ Làm thế nào tôi có thể áp dụng sự khôn ngoan để phân định đúng sai và đưa ra quyết định sáng suốt trong các hoạt động và công việc tại giáo xứ của mình? 3/ Nhớ lại một trải nghiệm khi lòng can đảm và sự khôn ngoan của người Công giáo đã tạo ra sự khác biệt tích cực trong cộng đồng xã hội? Tôi cảm nghĩ thế nào về sự dấn thân của người giáo dân, với lòng can đảm và khôn ngoan, vào đời sống xã hội? ________ [1] Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Tông Huấn Người Tín Hữu Giáo dân (Christifideles Laici), số 15. [2] Nt. [3]X. Hiến chế Mạc Khải (Dei Verbum), số 21 [4] X Hiến chế Mạc Khải (Dei Verbum), số 25. [5] Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông thư Ngàn Năm Thứ Ba (Millennio Adveniente), số 39> [6] Đức Phanxicô, buổi tiếp kiến chung trực tuyến sáng thứ Tư 25/11/2020), nguồn Vatican News. [7] Nguồn: www.ncregister.com/commentaries/without-adoration-there-s-no-evangelization [8] Nguồn: www.vaticannews.va/vi/pope/news/2020-11/ [9] Nguồn: https://linhmucmen.com/news/kho-sach-quy/chung-nhan-giua-doi-thuong [10] Nguồn: https://www.vaticannews.va/vi/church/news/2020-10/le-phong-chan-phuoc-carlo-acutis.html
ỦY BAN GIÁO DÂN - THƯỜNG HUẤN THÁNG 07/2024: TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN - MUỐI ...
LINH ĐẠO DUNG NẠP
LINH ĐẠO DUNG NẠP