Thứ bảy, ngày 06 tháng 07 năm 2024 | 07:13 AM - Giới thiệu | Ý nghĩa logo
Tài liệu

Đức Maria: Đặc Sủng Thánh Thần Đầu Tiên Trong Giáo Hội

ĐỨC MARIA: TẤM GƯƠNG CHO GIÁO HỘI

(MARIA UNO SPECCHIO PER LA CHIESA)

Tác giả: Raniro Cantalamessa

Chuyển ngữ: Nhóm linh mục DaLat

***

***

DẪN NHẬP: ÐỨC MARIA - BỨC THƯ VIẾT BỞI NGÓN TAY THIÊN CHÚA

PHẦN I: ÐỨC MARIA - TẤM GƯƠNG CHO GIÁO HỘI TRONG NHẬP THỂ

PHẦN II: ĐỨC MARIA - TẤM GƯƠNG CHO GIÁO HỘI TRONG MẦU NHIỆM VƯỢT QUA

PHẦN III: ĐỨC MARIA: MẪU GƯƠNG CHO GIÁO HỘI TRONG LỄ NGŨ TUẦN

***

CHƯƠNG VII: “CHUYÊN CẦN CẦU NGUYỆN VỚI ĐỨC MARIA”

CHƯƠNG VIII: "THÁNH THẦN SẼ ĐẾN TRÊN NGƯỜI"

ÐỨC MARIA, CON NGƯỜI CỦA THÁNH LINH

ÐẶC SỦNG THÁNH THẦN ÐẦU TIÊN TRONG GIÁO HỘI

 

 

I. THÁNH THẦN TÁI HOẠT ĐỘNG

Nếu có thể nói đến một ơn đặc biệt của Giáo Hội hôm nay thì phải nói đó là ơn liên hệ đến chính Chúa Thánh Thần. Thế kỷ của chúng ta, đặt trong lịch sử Giáo Hội, sẽ mãi là thế kỷ Thánh Thần hoạt động. Không những do việc tái khám phá chỗ đứng của Chúa Thánh Thần trong thần học và phụng vụ Công Giáo sau Công Ðồng, mà hơn thế nữa, vì Giáo Hội cảm nghiệm thấy Thánh Thần đang liên tục được đổ xuống “trên mọi xác phàm”, và từ đó làm nẩy nở các phong trào Thánh Linh, đặc sủng Thánh Thần khác nhau (mouvements pentecotistes et charismatiques) trong hầu hết các Giáo Hội Kitô. Ðối với rất nhiều Kitô hữu, sấm ngôn của tiên tri Joel, không chỉ là một trưng dẫn thú vị được thánh Phêrô đưa ra trong bài giảng ngày Lễ Ngũ Tuần, nhưng đã thành hiện thực sống động trước mắt họ. Họ có thể làm chứng rằng“Trong những ngày sau hết, Thiên Chúa đã đổ Thần Khí của Ngài trên mọi xác phàm: trên các con trai, con gái, người thanh niên, kẻ già lão, trên các tôi nam tớ nữ của Ngài” (x. Ge 3,1tt; Cv 2,17-18).

Bất chấp mọi khó khăn, làn gió Hiện Xuống mạnh mẽ lại thổi trong Giáo Hội, và đó là hy vọng lớn lao nhất cho công cuộc hiệp nhất các Kitô hữu. Chính luồng gió này đã tạo nên sự hiệp nhất đại kết buổi ban đầu. Vào thời đó, có sự phân chia, phân rẽ sâu xa về mặt tôn giáo, chia cắt người Do Thái với dân ngoại: và chúng ta cũng đã biết sự chia cắt đó gây rất nhiều đau khổ cho Giáo Hội tiên khởi. Vậy Chúa Thánh Thần đã thúc đẩy Giáo Hội như thế nào để Giáo Hội đi đến với dân ngoại và đón nhận cả họ nữa trong cùng một niềm tin vào Ðức Kitô? Ngài đã phán bảo chính thủ lĩnh của Giáo Hội là thánh Phêrô đến nhà Cornelio, viên bách quản ngoại đạo, và trong lúc vị tông đồ còn đang phải giải thích các lý do khiến một người Do Thái không thể bước vào nhà một người dân ngoại, thì Thánh Thần cho ngài tham dự vào một cuộc Hiện Xuống mới trên mọi người hiện diện, với những dấu hiệu, đặc tính y như lần Thánh Thần ngự xuống lần đầu tiên trên các tông đồ. Phêrô chỉ còn biết rút ra kết luận: “Nếu Thiên Chúa đã ban cho họ cũng đồng một ơn huệ như Người đã ban cho chúng ta... thì tôi là ai mà có thể ngăn cấm được Thiên Chúa?” (Cv 11,17).

Ðó là điều đang tái diễn trong Giáo Hội hôm nay, một Giáo Hội cũng bị xâu xé bởi những phân ly, phân rẽ khác, ngay giữa những Kitô hữu với nhau. Thiên Chúa sai Thánh Thần của Ngài đến, thường là dưới những hình thức như nhau, trên các tín hữu thuộc các Giáo Hội Kitô khác nhau, để khiến chúng ta rút ra cùng một kết luận như thánh Phêrô: chúng tôi là ai mà có thể từ chối các anh em này, hay coi họ như người ở ngoài Thân Mình đích thực của Ðức Kitô, nếu Thiên Chúa đã ban cho họ cùng một Thánh Thần như chúng ta? Làm sao cả họ nữa lại không thể thuộc về Thân Mình Chúa Kitô trong khi họ được Thần Khí của Ðức Kitô nuôi dưỡng thúc đẩy?

Một trong những điểm đang được Thánh Thần chữa lành các thương tích và chuẩn bị cho sự hiệp nhất, đó là điểm liên hệ đến Mẹ Thiên Chúa. Tôi mong muốn qua cuốn sách này, đóng góp phần nhỏ bé của mình theo chiều hướng đó. Trong suy tư thần học sau Công Ðồng, mối quan tâm mới về Chúa Thánh Thần cũng tác động đến khoa Thánh Mẫu học. Và điều này biểu hiện theo chiều ngược lại, không đi từ Ðức Maria tới Giáo Hội nhưng từ Giáo Hội tới Ðức Maria. Giáo Hội một khi tự khám phá thấy mình là Giáo Hội Thần Khí (Église pneumatique), được Thánh Thần thúc đẩy, làm cho sinh động, thì tự nhiên nhận thấy khuôn mẫu của mình là Ðức Maria, người mà nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, đã cưu mang Ðầu và Cứu Chúa của Giáo Hội.

Mối quan hệ giữa “Ðức Maria và Thánh Thần” là một khía cạnh khá mới mẻ trong suy tư của Giáo Hội Latin cũng như Giáo Hội Ðông phương. Tất cả những gì người ta có thể góp nhặt được trong tư tưởng của các Giáo Phụ và các tác giả Trung Cổ, kể cả thánh Bernado, đều không vượt ra khỏi việc lặp lại một vài dữ kiện Kinh Thánh hiếm hoi, tức là Ðức Maria đã chịu thai “bởi tác động của Chúa Thánh Thần” với những chú giải rời rạc, thường nhằm làm sáng tỏ ngôi vị Thánh Thần hơn là chính Ðức Maria. Trái lại, ngày nay chúng ta chứng kiến nhiều cố gắng khác nhau có tính hệ thống nhằm quan hệ giữa Ðức Maria và Chúa Thánh Thần. Ở đây cũng như những nơi khác, tôi mong muốn dừng lại ở Lời Chúa, ở các dữ kiện Kinh Thánh. Ðiều đó cho phép ta nói ít hơn về mối tương quan trên, buộc phải chừng mực, nhưng bù lại, nó giúp cho ta đứng trên một cơ sở vững chắc hơn và dễ được tất cả các Kitô hữu chấp nhận. Những hệ thống thần học lớn, nhất thiết phải dành nhiều chỗ cho những giả thiết và những nguyên tắc gắn liền với hệ thống này hay hệ thống nọ, và do đó có tính đặc thù hơn.

Ngày nay, yếu tố mới soi sáng cho mối liên hệ giữa Ðức Maria và Chúa Thánh Thần chủ yếu là do sự kiện: chúng ta có được hiểu biết sâu rộng hơn so với quá khứ về sự tiến triển trong mạc khải về Chúa Thánh Thần trong Kinh Thánh, tôi muốn nói đến một hiểu biết đầy đủ hơn về khoa Thánh linh học Thần Khí (Pneumatologie biblique). Hiểu biết này chúng ta có được là nhờ những công trình nghiên cứu Kinh Thánh hiện đại, nhất là nhờ một khoa học mới mẻ mà các Giáo Phụ chưa biết tới, đó là khoa thần học Kinh Thánh.

Khi đọc Kinh Thánh, các Giáo Phụ theo phương pháp phân tích thuộc thời đại các ngài, phương pháp này giải thích từng cuốn sách, hết bản văn này sang bản văn khác, và mỗi bản văn thì giải thích hết chữ này sang chữ khác. Các ngài thiếu phương pháp lịch sử, là phương pháp giúp nắm bắt sự phát triển của một chủ đề xuyên qua toàn bộ Kinh Thánh, và ghi nhận không những những điểm giống nhau mà cả những điềm khác nhau giữa thời đại này với thời đại khác, giữa môi trường này với môi trường kia. Các ngài có cảm thức về tính duy nhất hơn là cảm thức về tính khác biệt trong Kinh Thánh. Có thể nói rằng, mỗi lần đọc Kinh Thánh là các ngài đọc “toàn thể trong từng phần”, nghĩa là nơi mỗi bản văn các ngài muốn giải thích, các ngài đều thấy đó là một phản ánh của toàn thể Kinh Thánh, không hề có sự đối nghịch. Chúng ta thì ngược lại, thích đọc “từng phần trong toàn thể”, định vị một bản văn trong văn mạch của nó, soi sáng một đoạn Kinh Thánh bằng văn thể, bằng môi trường nguyên thủy của nó.

Áp dụng vào chủ đề “Ðức Maria và Chúa Thánh Thần”, tôi muốn theo phương pháp thật đơn giản. Tôi sẽ thử giải thích phương pháp này. Ðể biết về mối liên hệ giữa Chúa Thánh Thần và Ðức Maria trong mầu nhiệm Nhập Thể, và trong lễ Hiện Xuống (Ngũ Tuần), chúng ta có Tin Mừng Luca; và riêng về mầu nhiệm Nhập Thể, có Tin Mừng Matthew. Vậy chúng ta xem thử đâu là quan niệm đặc biệt của thánh Luca về Chúa Thánh Thần. Tác động của Chúa Thánh Thần khi Ngài đến tìm một người hay trên Giáo Hội, đối với Luca là tác động gì? Từ đó chúng ta khám phá ra điều mà, theo thánh Luca, Chúa Thánh Thần thực hiện nơi Ðức Maria. Nhờ thế, chúng ta có thể tìm cách khai thác những dữ kiện hiếm hoi liên quan đến Ðức Maria và Chúa Thánh Thần, nhưng không khởi sự bằng cách khai triển mang tính chất hệ thống và suy lý, vì điều này tất sẽ dễ đưa vào những yếu tố chủ quan, mà sẽ khởi sự bằng cách khai triển rộng bên trong Kinh Thánh, và như thế sẽ có được tính thuần nhất và khách quan, vì được đặt trong cùng một não trạng và được diễn tả bằng ngôn ngữ của cùng một tác giả. Ðiều này có nghĩa là giải thích một bản văn dựa vào văn mạch của nó, như người ta phân tích một miếng vải nhỏ khi biết được tấm vải lớn từ đó nó được cắt ra. Chúng ta sẽ thấy công trình Chúa Thánh Thần thực hiện cho toàn thể Giáo Hội được phản ánh, thu nhỏ nơi Ðức Maria như thế nào.

II. ÐỨC MARIA VÀ CHÚA THÁNH THẦN TRONG TIN MỪNG LUCA

Trong sách Công Vụ, thánh Luca trình bày Ðức Maria chuyên cần cầu nguyện trong sự chờ đợi Chúa Thánh Thần. Ở đầu sách Tin Mừng, ngài trình bày cũng chính Ðức Maria là người đợi Thánh Thần ngự xuống trên mình. Một số yếu tố gợi cho thấy có sự song song(parallélisme) chặt chẽ giữa việc Chúa Thánh Thần xuống trên Ðức Maria vào ngày Truyền Tin và việc Ngài xuống trên Giáo Hội vào ngày Lễ Ngũ Tuần. Sự song song này hoặc do chủ ý của thánh sử, hoặc do sự tương hợp khách quan giữa hai hoàn cảnh.

Thánh Thần được hứa ban cho Ðức Maria như là “quyền năng Ðấng Tối Cao” “sẽ đến”trên Người (x. Lc 1,35). Thánh Thần cũng được hứa ban cho các tông đồ như là “quyền năng Trên ban” “sẽ đến” trên họ (x. Lc 24,29; Cv 2,8). Sau khi nhận lãnh Thánh Thần, Ðức Maria đã cất lời ngợi khen chúc tụng(megalynei) những việc lớn lao (megala) Chúa đã thực hiện nơi Người, bằng một ngôn ngữ thần hứng (Lc 1,46-49). Cũng vậy, sau khi lãnh nhận Thánh Thần, các tông đồ bắt đầu dùng những ngôn ngữ khác nhau mà công bố những việc lớn lao (megaleia) của Thiên Chúa(x. Cv 2,11). Công Ðồng Vatican II đã cho thấy có một mối liên hệ giữa hai biến cố: nơi nhà Tiệc Ly, ta thấy “Ðức Maria tha thiết cầu xin Thiên Chúa ban Thánh Thần, là Ðấng đã rợp bóng trên Người trong ngày Truyền Tin”.[1]

Tất cả những điều này chỉ có tầm quan trọng tương đối so với khẳng định hết sức rõ ràng về Ðức Maria được thuật lại trong Tin Mừng:“Thánh Thần sẽ đến trên Người và quyền năng Ðấng Tối Cao trên Người rợp bóng” (Lc 1,35). Song song với khẳng định rõ ràng này, chúng ta có thể thấy trong Tin Mừng Luca có một sự kiện khác cũng bộc lộ cho thấy điều đó. Sau khi được Thánh Thần ngự xuống, Ðức Maria được sai đến với ai thì người đó, đến lượt mình, cũng được Thánh Thần đụng chạm tới hoặc thúc đẩy bên trong (Lc 1,41; 2,27). Chắc chắn rằng chính sự hiện diện của Ðức Giêsu mới phát tỏa Thần Khí, nhưng Ðức Giêsu lại ở trong Ðức Maria và hành động nhờ Người: Người là như Hòm Bia hay Ðền Thờ Chúa Thánh Thần: đó chính là điều được gợi lên qua hình ảnh đám mây đã rợp bóng trên Người và cũng gợi nhớ đám mây tỏa sáng trong Cựu Ước, dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa hay việc Người đến nơi Trướng Tao Phùng (x. Xh 13,22; 19,16).

Thánh Matthew xác nhận dữ kiện căn bản đó về Ðức Maria và Chúa Thánh Thần khi ngài viết rằng, Ðức Maria “đã có thai do tự Thánh Thần” (Mt 1,18), và thai sinh nơi Người là “do tự Thánh Thần” (Mt 1,20).

Giáo Hội đã đón nhận dữ kiện được Mạc Khải này và đã nhanh chóng đặt nó vào giữa kinh Tin Kính của mình. Từ cuối thế kỷ II, người ta đã gặp thấy trong kinh Tin Kính các Tông Ðồ lời khẳng định: “Ðức Giêsu sinh bởi Thánh Thần và bởi Ðức Nữ Ðồng Trinh Maria”. Trong Công Ðồng chung Constantinople năm 381, là Công Ðồng định tín về thần tính của Chúa Thánh Thần, điều khoản đức tin này đã có chỗ đứng trong kinh Tin Kính Nicée-Constantinople: Ðức Kitô được trình bày là “Bởi phép Chúa Thánh Thần, người đã Nhập Thể trong lòng Trinh Nữ Maria”.

Như thế, đây là một dữ kiện đức tin được tất cả các Kitô hữu đón nhận, Ðông phương cũng như Tây phương, người Công Giáo cũng như người Tin Lành, và là một nền tảng chắc chắn, có bề dày của nó. Ðức Maria xuất hiện như là người được liên kết với Chúa Thánh Thần bằng một mối dây khách thể, cá vị và bất khả hủy: mối dây đó là chính con người Ðức Giêsu mà hai Ðấng cùng sinh ra, dù rằng phần đóng góp của mỗi bên hoàn toàn khác nhau. Nếu người ta muốn tách rời Ðức Maria khỏi Chúa Thánh Thần thì cũng phải tách rời chính Ðức Kitô nữa, vì các hoạt động khác nhau của Ðức Maria và Chúa Thánh Thần đã được cụ thể hóa và thể hiện (khách thể hóa, objectivées) nơi Ngài cách vĩnh viễn. Dù người ta có muốn hay không muốn gọi Ðức Maria là Hiền Thê của Chúa Thánh Thần, như thánh Phanxicô Assisi và các vị thánh khác sau ngài đã gọi, thì vẫn phải nhận rằng: Ðức Giêsu đã nối kết Ðức Maria và Chúa Thánh Thần còn sâu xa hơn một người con nối kết cha và mẹ mình, vì nếu đứa con, chỉ nguyên sự hiện diên của nó, đã nói lên việc cha và mẹ kết hợp với nhau theo xác thịt trong giây lát, thì người con là Ðức Giêsu nói lên rằng Chúa Thánh Thần và Ðức Maria đã kết hợp “theo Thần Khí” và do đó, là sự kết hợp cách bền vững, vĩnh viễn. Ngay cả nơi Giêrusalem Thiên Quốc, Ðức Giêsu Phục Sinh vẫn là Ðấng đã được “sinh ra bởi Chúa Thánh Thần và bởi Ðức Trinh Nữ Maria”. Trong Bí tích Thánh Thể cũng vậy, chúng ta nhận lãnh Ðấng đã được “sinh ra bởi Chúa Thánh Thần và bởi Trinh Nữ Maria”.

Giờ đây, dựa vào thánh Luca và Tin Mừng Nhất Lãm nói chung, chúng ta hãy tìm hiểu Chúa Thánh Thần là Ðấng nào và Ngài đã thực hiện điều gì. Ở đây chúng ta có thể dựa vào sự tiến triển trong hiểu biết về Chúa Thánh Thần mà tôi đã nói ở trên. Luca và nhất là Matthew, đã đi theo tới cùng một hướng phát triển của Mạc Khải về Chúa Thánh Thần, hướng phát triển này gắn liền với Cựu Ước. Theo hướng tư tưởng đó, Chúa Thánh Thần được trình bày như là “sức mạnh của Thiên Chúa khiến con người có thể tuyên ngôn và thực hiện các hành động mà tự sức con người không thể nào làm được”.[2]

Ðể nắm vững khía cạnh đặc biệt của quan điểm trên, chúng ta cần nhớ lại một hướng phát triển mạc khải về Chúa Thánh Thần quan trọng khác, hướng này đạt tới đỉnh cao của nó nơi thánh Gioan và thánh Phaolô: theo hướng tư tưởng này, Chúa Thánh Thần được xem như sức mạnh thánh hóa, chiếm hữu con người, biến đổi cõi lòng và làm nên một tạo vật mới. Trong trường hợp thứ nhất, Chúa Thánh Thần đến trên một người để làm cho người đó có khả năng thực hiện một hành vi vượt quá sức mình. Hành động của ngài không dừng lại nơi người nhận lãnh, tiên tri, thủ lãnh, người được linh hứng hay một ai khác, nhưng qua người đó, tác động đến cộng đoàn hay lịch sử. Nơi bản thân và trước mặt Thiên Chúa, người lãnh nhận Thánh Thần có thể vẫn như trước kia, rất ít hoặc không hề được biến đổi do việc Thánh Thần đi qua con người mình. Trong trường hợp thứ hai thì không như thế: tác động của Chúa Thánh Thần trực tiếp nhằm vào người lãnh nhận Ngài, dừng lại, lưu lại nơi người đó và làm nảy sinh một tình trạng mới, một đời sống mới. Hiển nhiên đây không phải là sự mâu thuẩn nội tại trong Kinh Thánh nhưng là hai cách thể hiện, cũng chân thật và có giá trị cứu độ như nhau của cùng một Thánh Thần, và độc giả Kinh Thánh không được tách biệt hay đối lập (như một đôi khi người ta đã làm một cách đáng tiếc), nhưng phải liên kết chúng với nhau. Cả ở đây nữa, cũng cần phải tìm lại “cái toàn thể” (le tout) và trong trường hợp này, cái toàn thể là chính Chúa Thánh Thần trong thực tại trọn vẹn của Ngài gồm cả Ðoàn Sủng và Ðức Ái.

Quan niệm về Chúa Thánh Thần như là sức mạnh của Thiên Chúa, làm cho con người có khả năng thực hiện những hành động vượt trên sức nhân loại, lộ rõ hầu như trong mọi lần Tin Mừng Nhất Lãm đề cập đến Thánh Thần. Thánh Thần đến trên Ðức Giêsu khi Ngài chịu Phép Rửa và chúng ta thấy Ðức Giêsu chiến thắng Satan trong những cơn cám dỗ, xua trừ ma quỉ, loan báo Nước Trời, giảng dạy với uy quyền và thực hiện những việc lạ lùng (Mt 12,28). Hoạt động của Chúa Thánh Thần, mỗi lần thể hiện, đều đưa tới kết quả rõ ràng, có thể sờ chạm được. Vai trò độc nhất vô nhị của Ðức Giêsu bộc lộ qua việc Ngài là Ðấng mang Thánh Thần cách trọn vẹn, tối hậu, Ngài hành động luôn luôn là trong Thần Khí và là Ðấng“đầy” Thánh Thần (x. Lc 4,1; 14,18), không như các tiên tri hay những người được linh hứng trong quá khứ, vì họ hành động trong Thần Khí chỉ trong một số thời điểm.

Hướng tư tưởng trên phát xuất từ Cựu Ước, trong đó Thần Khí (Ruăh) thường được xem như là sức mạnh sáng tạo của Thiên Chúa, sức mạnh này xâm chiếm con người và làm cho người đó được đầy khôn ngoan hoặc có được các năng khiếu nghệ thuật (x. Xh 31,3; 35,31); ban cho người khác đặc sủng tiên tri (Mt 3,8); đổ tràn trên người khác nữa và ban cho người đó có khả năng cai trị phi thường (Is 11,2) hay khả năng biện biệt (x. Dn 13,45-46).

Hai trích dẫn của thánh Luca, một trong sách Tin Mừng và một trong sách Công Vụ, làm sáng tỏ quan niệm nói trên về Thần Khí trong dòng tư tưởng của Cựu Ước. Trích dẫn thứ nhất lấy trong Isaia 61,1: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi...”. Trích dẫn này muốn nói lên rằng: sức mạnh đặc sủng của Thần Khí đã đổ xuống đầy tràn viên mãn nơi Ðức Giêsu, trong tư cách là người và là Ðấng Messiah, khiến Ngài có thể đem Tin Mừng cho người nghèo khó, cho kẻ mù được thấy và giải thoát kẻ bị áp bức. Trong trích dẫn thứ hai, lấy từ sách Joel 3, thánh Luca cũng khẳng định hoạt động của Thần Khí, nhưng là đối với Giáo Hội. Chính Thánh Thần làm cho Giáo Hội sẵn sàng trước sứ vụ tiên tri bằng cách ban cho Giáo Hội đủ các hình thức đặc sủng: chiêm điềm mộng, thị kiến và nhất là Thần Khí tiên tri (x. Cv 2,17-18).

Tuy nhiên, có một khía cạnh khiến cho hoạt động đặc sủng và tiên tri của Thánh Thần trong Giáo Hội khác biệt hơn so với Cựu Ước. Ngày xưa Thánh Thần được dành riêng cho một vài người và chỉ ban cho họ trong một số trường hợp nào đó, tùy theo sứ mạng riêng biệt của họ. Từ nay, Ngài được ban cho tất cả mọi thành phần của cộng đoàn mới và ban một cách thường xuyên. Như thế, lời ước nguyện của Moses đã được thực hiện: “Phải chi toàn dân Giavê đều được làm tiên tri bởi được Giavê ban Thần Khí xuống trên họ” (Ds 11,2a). vâng, mong ước đó đã trở thành hiện thực; tất cả mọi người trong toàn dân Thiên Chúa đều là tiên tri.

III. ÐỨC MARIA: NGƯỜI ĐƯỢC ĐẶC SỦNG ĐẦU TIÊN CỦA GIÁO HỘI

Tất cả những điều trên cho chúng ta biết gì về mối liên hệ giữa Ðức Maria và Chúa Thánh Thần? Cho biết rằng: sau Ðức Giêsu, Ðức Maria là người được đặc sủng lớn lao nhất trong lịch sử cứu độ. Nhưng không theo nghĩa là người được hưởng số lượng đặc sủng nhiều nhất. Ngược lại là khác, vì xét bên ngoài, Người dường như không thực thi được mấy đặc sủng. Ðâu là những phép lạ Người thực hiện được? Về các tông đồ, người ta bảo ngay cả bóng của các ngài cũng chữa lành được những bệnh nhân (Cv 5,15). Còn về Ðức Maria, chúng ta không hề thấy Người làm được phép lạ, hành vi ngoạn mục hay kỳ diệu nào lúc sinh thời. Người là kẻ được đặc sủng lớn lao nhất chính là vì nơi Người, Thánh Thần đã thực hiện hành vi tuyệt vời nhất trong số các hành vi kỳ diệu của Ngài, đó là hành vi khơi dậy nơi Ðức Maria, không phải một lời khôn ngoan, không phải ơn cai trị, không phải một thị kiến, một giấc chiêm bao hay một lời tiên báo, mà là chính sự sống của Ðấng Messiah!

Khi chúng ta đọc thấy trong Tin Mừng Luca: “Thánh Thần sẽ đến trên Người và quyền năng Ðấng Tối Cao trên Người rợp bóng”, thì từ nay chúng ta hiều “Thánh Thần”đó là gì: là “quyền năng của Ðấng Tối Cao”, là sức mạnh sáng tạo của Thiên Chúa hình thành nên sự sống của Hài Nhi vô song đó. Trong đoạn văn này cũng như trong Matthew 1,20 “niềm tin vào sự can thiệp sáng tạo của Thần Khí Thiên Chúa đã có trong Cựu Ước”.[3] Thánh Ambrosio chú giải Lc 1,35 rất hợp lý khi ngài viết: “Việc sinh con của Ðức Trinh Nữ Maria là công trình của Thánh Thần... vì thế Thần Khí mà chúng ta biết là tác giả việc Nhập Thể của Chúa, là Thần Khí “sáng tạo”, đó là điều chúng ta không thể nghi ngờ... Ðiều đó bởi một người thì hoặc do bởi bản thể hoặc do bởi quyền năng người đó... Vậy Ðức Maria lãnh nhận trong lòng điều do bởi Thánh Thần là theo nghĩa nào? Chắc chắn không phải bởi bản thể của Ngài, vì như vậy Thánh Thần sẽ trở thành xương, thịt. Vậy nếu Ðức Trinh Nữ đã thụ thai nhờ hoạt động và quyền năng của Thánh Thần thì ai có thể phủ nhận Thánh Thần đó là Thánh Thần Sáng Tạo”.[4] Thánh Ambrosio đã đồng hóa Thánh Thần được nói đến trong Lc 1,35 với chính Ngôi Thánh Thần, Ngôi Ba trong Ba Ngôi Thiên Chúa. Và điều này sẽ trở thành cách hiểu chung của toàn Giáo Hội, dưới ánh sáng mà giáo lý về Chúa Thánh Thần, trong quá trình phát triển, đón nhận từ nơi thánh Phaolô và Gioan, dù rằng thánh Augustin sau này cẩn thận xác định rõ: Việc gán cho Thánh Thần công trình Nhập Thể cũng như việc linh hứng Thánh Kinh chỉ là sự qui gán thích hợp mà thôi (par appropriation), chứ tự thân thì đó là công trình của cả Ba Ngôi.[5]

Ðể hiểu rõ đặc tính độc nhất vô nhị của mối quan hệ giữa Ðức Maria và Chúa Thánh Thần, chúng ta có thể khởi đi từ mối quan hệ mà hành vi sáng tạo của Thiên Chúa thiết lập giữa Ðức Maria và Chúa Thánh Thần, một mối quan hệ khác biệt và cao hơn, sánh với tất cả các tiên tri. Cho đến Gioan Tẩy Giả, lời Thiên Chúa “đến” trên các tiên tri (factum set verbum Domini super…) (x. Lc 3,2), theo nghĩa, Lời trở thành một “thực tại hoạt động” (réalité active)nơi họ. Còn nơi Ðức Maria, Lời không chỉ đến trong một khoảnh khắc, nhưng bởi phép Chúa Thánh Thần, Lời đã lưu ngụ nơi Người, Lời không chỉ trở thành thực tại hoạt động, mà đả trở thành xác phàm (Ga 1,14). Hơn nữa, dù tiên tri đã “ăn” đã nhét đầy lòng cuộn sách ghi Lời Chúa (x. Gr 15,16; Ed 3,1tt; Kh 10,8tt). Nhưng điều đó có nghĩa gì sánh với điều đã xảy đến nơi Ðức Maria? Lòng Người tràn đầy Lời, không phải chỉ theo nghĩa ẩn dụ mà là trên bình diện thực tại.

Các tin khác

VIDEO

  Bài 2: HIỆP HÀNH: Hiệp Thông - Tham Gia - Sứ Vụ | Thường huấn linh mục GP Ban Mê Thuột 2023

  Bài 1: Tầm Nhìn Hoàn Vũ | Thường huấn linh mục GP Ban Mê Thuột 2023

  ĐỨC TIN | Tròn Đầy & Trong Sáng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh

  Mục Vụ Văn Hóa: DANH - LỢI - NGHĨA | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh

  Cử Hành Phụng Vụ | Gặp Gỡ Chúa Kitô - Loan Báo Tin Mừng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn văn Hinh

  Thần Học Mục Vụ & Công đồng Vatican II: Con người - Giáo hội - Môi trường

  Hiệp Hành Hội Ý Dựng lại Mùa Xuân | Người Giáo dân Thiên niên kỷ mới

  Bài 4: Văn Hóa Tổ Chức - Đời Sống Cá Nhân

  Hiệp Hành Kín Đáo và Minh Bạch

  Văn Hóa Tổ Chức - Tổ Chức Cộng Đồng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh (Phần 3)

  Tìm hiểu về văn hóa (Phần 2) - Lm Gioan Kim Nguyễn Văn Hinh

  Tìm hiểu về văn hóa (Phần 1) - Lm Gioan Kim Nguyễn Văn Hinh

  TRỰC TUYẾN BÀI 29: MỤC VỤ THÁNH THIỆN THUẬN THEO

  TRỰC TUYẾN BÀI 28 : MỤC VỤ TÍCH HỢP VĂN HÓA ĐÔNG TÂY

  TRỰC TUYẾN BÀI 27 : MỤC VỤ LỜI CHÚA NGÀY NAY

  TRỰC TUYẾN BÀI : TÌM HIỂU VỀ VĂN HÓA VÀ BẢN SẮC VĂN HÓA VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 26: MỤC VỤ ĐẠO ĐỨC KINH TẾ DỊCH VỤ

  TRỰC TUYẾN BÀI 25: MỤC VỤ TUẦN THÁNH UY VÀ ĐỨC

  TRỰC TUYẾN BÀI 24: MỤC VỤ GIA TÀI CỦA MẸ

  TRỰC TUYẾN BÀI 23: MỤC VỤ BỔ VÀ TẢ

  mvgd20162016

  TRỰC TUYẾN BÀI 21: MỤC VỤ LUẬT CÂN BẰNG

  TRỰC TUYẾN BÀI 20: TRUY TÌM MÃNH LỰC

  TRỰC TUYẾN BÀI 19: THẾ GIỚI HÔM NAY CẦN NHỮNG NGƯỜI CHA NHÂN HẬU LÝ TƯỞNG VÀ THỰC TIỄN

  TRỰC TUYẾN BÀI 18: NĂM THÁNH THÁNH CẢ GIUSE LÃNH ĐẠO VÀ NIỀM TIN

  TRỰC TUYẾN BÀI 17: MỪNG XUÂN TÂN SỬU 2021 - LÒNG BIẾT ƠN TIN VUI ĐẠO ĐỨC VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 17: MỪNG XUÂN TÂN SỬU 2021 - LÒNG BIẾT ƠN TIN VUI ĐẠO ĐỨC VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 16: ĐỀ TÀI ĐIỂM TỰA

  TRỰC TUYẾN BÀI 14: VĂN HÓA KHÔNG NHẬN SAI NHƯNG SỬA SAI

  TRỰC TUYẾN BÀI 13: VUN TRỒNG NỀN VĂN HÓA “TÂM LINH – KHOA HỌC”

  TRỰC TUYẾN BÀI 12: NĂM MỚI 2021 XÂY DỰNG NỀN VĂN MINH TÂM LINH & KHOA HỌC

  TRỰC TUYẾN BÀI 11: GIÁNG SINH 2020 - LÀM NGƯỜi - GIÊSU

  TRỰC TUYẾN BÀI 10: PHÍA ĐẰNG SAU TÂM LINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 9: ĐỂ CÓ CHÚA THÁNH THẦN

  TRỰC TUYẾN BÀI 8: LOAN BÁO TIN MỪNG

  TRỰC TUYẾN BÀI 7: PHÒNG ĐÀO LUYỆN TÂM LINH CỦA TÍN HỮU DÂN CHÚA

  TRỰC TUYẾN BÀI 6: ĐÀO LUYỆN TÍN HỮU DÂN CHÚA

  TRỰC TUYẾN BÀI 5: TẦM NHÌN THIÊN NIÊN KỶ MỚI

  TRỰC TUYẾN BÀI 4: ĐÀO LUYỆN TÂM LINH BẮT ĐẦU TỪ THÁNH THỂ HAY THÁNH KINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 3: PHƯƠNG THỨC CẦU NGUYỆN CẢM NGHIỆM- SỐNG THÁNH GIỮA ĐỜI

  TRỰC TUYẾN: BÀI 2: GIẢI THÍCH ĐÀO LUYỆN TÂM LINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 1: ĐÀO LUYỆN TÂM LINH

  TintucVatican

  Thánh Lễ Tuyên Thánh Jacinta và Francisco Marto

  Muối và ánh sáng

  Thế Giới Nhìn Từ Vatican

  Nghi thức đóng Cửa Thánh

  Xin Mẹ Thương

  Thế Giới Nhìn Từ Vatican

  Suy Niệm với Đức Thánh Cha Phanxicô

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__3

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__1

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__2

  Thường huấn HĐMVGX Ban Mê Thuật

  Quốc tế thiếu nhi 01-6-2014

  Thể dục Dưỡng Sinh

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  CƠM TRƯA TRUNG THU 2013

  Thi đấu thăng cấp sơ đẳng Vovinam

  Khai mạc kỳ thi thăng cấp Vovinam

  Vovinam

  Đào luyện tâm linh

  Nghệ thuật cân bằng

  Đào Luyện Tinh Thần

  Đào Luyện Thể Chất

Bài viết mới
BÀI GIẢNG ĐỨC THÁNH CHA - CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN NĂM B
BÀI GIẢNG ĐỨC THÁNH CHA - CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN NĂM B.
SỨ ĐIỆP ĐỨC THÁNH CHA NHÂN NGÀY THẾ GIỚI CẦU NGUYỆN CHO VIỆC CHĂM SÓC THỤ TẠO NĂM 2024: HY VỌNG VÀ HÀNH ĐỘNG VỚI THỤ TẠO
SỨ ĐIỆP ĐỨC THÁNH CHA NHÂN NGÀY THẾ GIỚI CẦU NGUYỆN CHO VIỆC ...
ỦY BAN GIÁO DÂN - THƯỜNG HUẤN THÁNG 07/2024: TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN - MUỐI VÀ ÁNH SÁNG CHO THẾ GIỚI avatar Ủy ban Giáo dân 01/07/2024 Giáo hội là Dân Thiên Chúa, nơi mỗi người tín hữu, dù là giáo sĩ hay giáo dân, đều đóng góp vai trò không thể thiếu trong sứ mạng loan báo Tin Mừng. Chủ đề “Tông đồ giáo dân: Muối và ánh sáng cho thế giới” tập trung vào việc khai triển và cổ võ vai trò của giáo dân trong việc trở thành muối ướp mặn đời và ánh sáng soi sáng trần gian. Ủy ban Giáo dân Hội đồng Giám mục Việt Nam THƯỜNG HUẤN THÁNG 07/2024: TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN: MUỐI VÀ ÁNH SÁNG CHO THẾ GIỚI BÀI 1: HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN DỰA TRÊN LỜI CHÚA - Phanxicô Xaviê Nguyễn Thái BÀI 2: SỐNG TIN MỪNG TRONG ĐỜI THƯỜNG – Lm. Antôn Hà Văn Minh BÀI 3: BIẾN ĐỔI THẾ GIỚI TỪ BÊN TRONG - Lm. Tôma Vũ Ngọc Tín, S.J. BÀI 4: LÒNG CAN ĐẢM VÀ SỰ KHÔN NGOAN KHI DẤN THÂN VÀO ĐỜI SỐNG TRẦN THẾ - Lm. Tôma Vũ Ngọc Tín, S.J. BÀI 1: HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN DỰA TRÊN LỜI CHÚA - Phanxicô Xaviê Nguyễn Thái “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. “Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá. Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành” (Mt 7, 21.24 – 27). Đọc đoạn Tin Mừng trên cho chúng ta thấy: sống Tin Mừng trong đời thường là một hành trình đức tin mà qua đó, người Kitô hữu áp dụng lời dạy của Chúa Giêsu vào cuộc sống hàng ngày. Yêu Chúa không chỉ là tham dự các thánh lễ, các giờ kinh, mà phải thi hành ý muốn của Chúa Cha qua việc lãnh nhận các bí tích thường xuyên và qua cách chúng ta tương tác với mọi người xung quanh, cách chúng ta hành xử với thử thách và cách thực hiện các quyết định. Dưới đây là một số suy tư của giáo dân và một số cách để sống Tin Mừng trong đời thường: 1. Suy niệm và cầu nguyện với Lời Chúa: chúng ta không thể kết hiệp mật thiết với Chúa mà không cầu nguyện với Ngài. Việc dành thời gian mỗi ngày để suy niệm và cầu nguyện với Lời Chúa giúp nuôi dưỡng tâm hồn chúng ta ngày càng trở nên thánh thiện hơn, yêu Chúa nhiều hơn và được Chúa hướng dẫn hành động. 2. Yêu thương tha nhân là yếu tố quan trọng khi ta sống theo Tin Mừng. Yêu thương mọi người xung quanh mình, cho dù họ là ai, tôn giáo nào, giàu hay nghèo. “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” ( Ga 15, 12 ). Điều này áp dụng qua việc giúp đỡ những người nghèo khó, an ủi những người đang gặp khó khăn, và chia sẻ cho cộng đồng đang cần đến tình thương của mình. 3. Hiền lành và khiêm nhường: là ứng xử một cách nhẹ nhàng, không gây ra xung đột, luôn lắng nghe và tôn trọng ý kiến của người khác, và tìm cách giải quyết mọi vấn đề một cách dịu dàng và an bình. Tuy nhiên, hiền lành và khiêm nhường không đồng nghĩa với sự yếu đuối, mà chính là một cách để thể hiện sự mạnh mẽ và tự tin của bản thân thông qua sự kiểm soát cảm xúc và nhận thức. 4. Sống công bằng và bác ái: cố gắng sống công bằng với mọi người, không phân biệt đối xử, không chỉ dựa trên sự thỏa thuận mà dựa trên giá trị cốt lõi là phẩm giá con người, và thực hiện các hành động bác ái, như viếng thăm người đau yếu, quyên góp cho từ thiện, chia sẻ Chúa cho anh em, tham gia phục vụ cộng đồng dân Chúa cũng như cộng đồng xã hội. 5. Kiên nhẫn tha thứ: sống theo Tin Mừng đòi hỏi lòng kiên nhẫn và sẵn lòng tha thứ, dù trong những hoàn cảnh khó khăn nhất. Tha thứ đến cùng, tha thứ không giới hạn cho những lỗi lầm của người khác. Lý do chính mà chúng ta làm là vì Chúa đã tha thứ cho mỗi người chúng ta. 6. Chia sẻ niềm vui: sống vui tươi, dịu dàng với mọi người qua lối sống khó nghèo, tìm kiếm sự hài lòng, phấn khởi trong những điều giản dị và ý nghĩa của cuộc sống. 7. Sống Tin Mừng trong đời thường là chúng ta làm chứng về một Đức Giêsu con Thiên Chúa đã xuống trần gian, chịu chết và sống lại cho chúng ta được sống và được sống lại. Chứng nhân không chỉ trong một giai đoạn của cuộc sống nhưng là một đời Kitô hữu được kết hiệp với Chúa, bằng nguồn sống của Chúa. Qua hành động và lời nói hàng ngày, qua cách sống và tương tác với tha nhân làm sao bày tỏ được tình yêu và lòng thương xót của Chúa. Những suy tư Sống Tin Mừng trong đời thường không chỉ là làm một số việc đạo mà là cách sống thánh thiện và yêu thương mọi người xung quanh. Mỗi người cần gìn giữ và phát triển niềm tin của mình để sống đúng lý tưởng và hạnh phúc theo tinh thần của Tin Mừng. Sống Tin Mừng trong đời thường không phải lúc nào cũng dễ dàng, mỗi người giáo dân có cách sống Tin Mừng trong cuộc sống của họ một cách khác nhau. Nhiều giáo dân chưa mở lòng nên không nhận được ơn Chúa. Họ sống khép kín, không tham gia vào giáo xứ hoặc nếu có cũng chỉ là hình thức. Có những người không biết về Tin Mừng hoặc có biết qua loa thì cũng chưa áp dụng Tin Mừng vào cuộc sống, có khi còn không dám cho người khác biết mình là người Công Giáo, không dám sống đức tin của mình. Những người giáo dân khác sống theo lời dạy của Chúa Giêsu và thực hành lòng nhân từ, yêu thương và tha thứ. Trong khi một số khác có thể gặp khó khăn trong việc áp dụng những giá trị đạo đức từ Tin Mừng vào cuộc sống hàng ngày. Tuy nhiên, quan trọng nhất là họ luôn cố gắng học hỏi và phát triển trong đức tin của mình để trở thành những người sống theo Tin Mừng mẫu mực. Được như thế là giáo dân cũng đang tham gia vào đời sống của Giáo Hội, dần dần góp phần xây dựng một Giáo Hội hiệp hành và một thế giới tốt đẹp hơn. Hồi Tâm 1/ Làm cách nào giúp mọi người Công Giáo, hay ít nhất là những người đi lễ mỗi tuần có thể học, suy niệm và cầu nguyện với Tin Mừng? Nếu đang làm việc trong Hội đồng mục vụ giáo xứ hay trong các Hội đoàn Công giáo tiến hành, bạn sẽ làm gì? 2/ Chứng nhân Tin Mừng trong đời thường là phương cách hữu hiệu giúp người khác dễ dàng sống theo gương, bạn có thể chia sẻ chứng nhân trong những buổi họp, hay những lúc riêng tư cho những người chung quanh không? 3/ Trong đời thường, bạn làm gì để bày tỏ lòng yêu mến Chúa qua tha nhân? BÀI 2: SỐNG TIN MỪNG TRONG ĐỜI THƯỜNG – Lm. Antôn Hà Văn Minh Qua Bí tích Rửa tội, người tín hữu được dự phần vào sứ vụ của Chúa Giêsu. Sứ vụ đó chính làm cho mọi người nhận biết ơn cứu độ của Thiên Chúa Cha tỏ bày cho nhân loại qua Đức Giêsu Kitô. Thi hành sứ vụ chính là sống Tin Mừng giữa lòng thế giới, cụ thể trong cuộc sống thường ngày của mỗi tín hữu. Công Đồng nói về cảnh sống trần thế của giáo dân bằng cách trình bày cảnh sống ấy, trước tiên, như là môi trường trong đó họ được Thiên Chúa mời gọi: “Đó là nơi Thiên Chúa gọi họ” (LG số 31). Và thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã giải nghĩa: “nơi” được trình bày bằng những hạn từ có tính cách năng động: giáo dân sống giữa trần gian, nghĩa là dấn thân vào tất cả cũng như từng công việc và bổn phận của trần thế, giữa những cảnh sống thường ngày trong gia đình và ngoài xã hội, tất cả những điều đó như dệt thành cuộc sống của họ. Đó là những con người có một đời sống bình thường trong trần gian, học hỏi, làm việc, thiết lập những tương quan bạn bè, xã hội, nghề nghiệp, văn hóa”[1]. Sống Tin Mừng là gì? Trích dẫn Lời Chúa: “Chính anh em là muối cho đời… là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,13–14), Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã trình bày: “Lời mời gọi của Chúa Giêsu chính là sứ mạng của người tín hữu sống trong thế giới này. Người Kitô hữu không coi thế gian là địa ngục, là nơi giam cầm của những nỗi thống khổ, cũng như không coi thế gian là hạnh phúc vĩnh cửu cho cuộc đời mình, nhưng là nơi để Thiên Chúa tỏ lộ tình yêu của Ngài qua sự cộng tác của con người, và là nơi để con người được thực thi ơn gọi và sứ mạng Kitô hữu của mình trong một tình yêu dấn thân và thánh hóa thế giới: Tham dự vào lãnh vực trần thế, là phận vụ phát xuất từ bản tính nội tại và sứ mạng của mình”[2]. Vì thế, sống Tin Mừng chính là huấn luyện bản thân nhuần thấm Tin Mừng để có thể thực thi ơn gọi của mình cách trọn hảo. Thiên Chúa muốn người tín hữu trở thành muối, thành ánh sáng cho thế giới bằng chính đời sống Tin Mừng của mình, hay nói cách khác người tín hữu dấn thân phục vụ để trần gian nhận biết tình yêu của Ngài dành cho nhân loại, một tình yêu trọng đại đã được thánh Gioan diễn tả: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời” (Ga 3, 16). Nhưng để có thể sống Tin Mừng, dấn thân phục vụ cho Tin Mừng, đòi hỏi người tín hữu phải là người thấm đẫm Tin Mừng. Chỉ là men Tin Mừng khi người hữu phải đầy “chất” Tin Mừng. Vì thế, sống Tin Mừng trước tiên phải kết hợp mật thiết với Đức Kitô, vì Ngài chính là Tin Mừng. Vì thế, cuộc gặp gỡ với Tin Mừng là nền tảng cho việc sống Tin Mừng. Điều đó được thực hiện trước tiên chính là cuộc gặp gỡ Lời qua Kinh Thánh. Công đồng Vatican II trong hiến chế Mạc khải đã minh định: Chúa Cha muốn gặp gỡ con cái mình và ngỏ lời với họ qua Sách Thánh. Như vậy, tiếp cận với Lời Chúa, đọc Thánh Kinh là đi vào một cuộc gặp gỡ, tham gia một cuộc đối thoại với Thiên Chúa[3]. Quả thật việc đọc Thánh Kinh là cách thế tuyệt hảo để có được cuộc đối thoại với Thiên Chúa, vì “chúng ta ngỏ lời với Ngài khi cầu nguyện, và chúng ta nghe Ngài nói lúc chúng ta đọc các sấm ngôn thần linh”[4]. Trong Tông Thư “Khởi Đầu Ngàn Thứ Ba”, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II viết: “Lời Chúa phải trở nên một sự gặp gỡ ban sự sống, theo truyền thống xa xưa và luôn vững chắc về việc đọc Sách Thánh, cho phép rút ra từ bản văn Thánh Kinh Lời Hằng Sống, là lời chất vấn, hướng dẫn và hình thành cuộc sống chúng ta” (số 39)[5]. Người tín hữu chỉ có thể là men Tin Mừng, khi đời sống được đặt trên nền tảng Lời Chúa, không thường xuyên cầu nguyện với Lời Chúa không thể nào hoán cải cuộc đời để có thể làm cho đời mình trở thành men Tin Mừng. Dựa vào hoạt động của Giáo Hội tiên khởi được tường thuật trong sách Tông đồ công vụ, Đức Thánh cha Phanxicô nói: “Chúng ta khám phá động cơ mạnh mẽ của việc loan báo Tin Mừng chính là những buổi quy tụ cầu nguyện, nơi những người tham gia cảm nghiệm cách sống động sự hiện diện của Chúa Giêsu và được Chúa Thánh Thần đánh động. ...Lời cầu nguyện truyền lan ánh sáng và sự hăng hái: ân sủng của Chúa Thánh Thần làm nảy sinh trong lòng họ sự nhiệt thành”[6]. Dĩ nhiên việc tiếp cận Lời Chúa phải gắn chặt với Thánh Thể. Đức Thánh cha Phanxicô đã nói mạnh mẽ: Chỉ trong sự tôn sùng Thánh Thể, chỉ trước mặt Chúa, hương vị và sự say mê truyền giáo mới có thể được phục hồi. Lòng tôn sùng Thánh Thể là động lực giúp cho chúng ta vượt thắng những phong ba bão táp của cuộc đời, đặc biệt đó là nguồn khích lệ cho những người hết lòng chia sẻ Tin Mừng, chính vì trong Bí tích Thánh Thể, “chúng ta gặp gỡ Đấng đã ban mọi sự cho chúng ta” và đến lượt mình, chúng ta trở nên có khả năng chia sẻ tình yêu đó với người khác[7]. Để có thể sống Tin Mừng hầu trở thành men của Tin Mừng, chúng ta cần phải liên kết chặt chẽ với Chúa Kitô qua Lời Chúa, Thánh Thể và cầu nguyện và sống tình huynh đê. Bốn yếu tố: Lời Chúa, tìm kiếm tình hiệp thông huynh đệ, Thánh Thể và cầu nguyện, theo Đức Thánh Cha Phanxicô, chính là tiêu chuẩn để phân định một sự việc. Bất cứ trường hợp nào thiếu những yếu tố này điều thiếu tính Giáo hội, không phải của Giáo hội, yếu tố quan trọng để chứng thực chúng ta thực sự là Men của Tin Mừng.[8] Sống Tin Mừng giữa đời thường Nhìn vào thực tế, trăn trở lớn của Giáo Hội Việt Nam là vấn đề Loan Báo Tin Mừng. Thật vậy, con số tín hữu Việt Nam đến nhà thờ dâng lễ mỗi Chúa Nhật có thể nói cho đến lúc này vẫn đáng tự hào, thế nhưng niềm tự hào này có thực sự là niềm vui đích thực không? Bởi nhìn vào cánh đồng truyền giáo mỗi địa phương vẫn còn ngổn ngang, vẫn còn có qua nhiều người chưa được tiếp cận với Tin Mừng, vẫn còn đó nhưng lương dân là hàng xóm của các gia đình Công giáo, nhưng họ chẳng nghe nói về Chúa Giêsu, không một lần tiếp cận được với Tin Mừng. Câu trả lời được tìm thầy nơi lối sống của người tín hữu Công giáo. Là men Tin Mừng, nhưng họ lại không thể hiện lối sống Tin Mừng ngay trong môi trường mình sinh sống. Họ tách rời đức tin và cuộc sống thường ngày, họ đóng khung lối sống Tin Mừng trong nhà thờ, họ không làm cho men Tin Mừng được dậy lên trong người môi trường mình sống. Cha mẹ vẫn đi dâng lễ ngày Chúa nhật, nhưng chưa một lần hướng dẫn con cái về đời sống đức tin. Người tín hữu vẫn thường xuyên gặp gỡ bạn bè là lương dân, nhưng chưa một lần họ nghe về Chúa Giêsu, nhiều khi còn tệ hơn, để làm vui lòng bạn bè lương dân, người Công Giáo sẵn sàng bỏ đi lễ Chúa nhật; ngoài phố chợ, những chủ cửa hàng Công Giáo vẫn ngần ngại thể hiện lối sống Tin Mừng để giữ đức công bình và đức yêu thương... Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhấn mạnh: “Người tín hữu không được mời gọi rời bỏ vị thế họ đang sống nơi trần gian. Thực vậy, Bí tích Thánh Tẩy không kéo họ ra khỏi trần gian, như thánh Phaolô đã nhấn mạnh: ‘Thưa anh em, khi được kêu gọi ở địa vị nào, mỗi người cứ ở địa vị đó trước mặt Thiên Chúa’ (1 Cr 7,24); trái lại, Ngài trao cho họ một ơn gọi có liên hệ đích thực với tình huống của họ trong trần gian: thực vậy, giáo dân được ‘Thiên Chúa kêu gọi để, dưới sự hướng dẫn của tinh thần phúc âm, như men từ bên trong, họ thánh hóa thế giới bằng việc thi hành những nhiệm vụ của mình; và như thế, với lòng tin cậy mến sáng ngời, nhất là với chứng tá đời sống, họ tỏ lộ Chúa Kitô cho kẻ khác’ (Tông huấn Người Tín hữu Giáo dân, số 15) Cha Mến kể câu chuyện: Chứng nhân trong đời thường như sau: Nhà giáo dục vĩ đại Booker T. Washington có viết như sau trong cuốn tự thuật mang tựa đề: “Từ ách nô lệ đi lên” của ông: “Càng lớn tôi càng tin chắc rằng, không một sự giáo dục nào có thể gặt hái được từ sách vở, hay từ những dụng cụ đắt tiền, mà có thể sánh ví được với những gì ta có thể gặt hái được, do tiếp xúc với các bậc vĩ nhân”. Cách đây ít lâu, một phụ nữ Ấn độ giáo đã trở lại Công giáo, sau một thời gian nghe rao giảng Lời Chúa. Bà chịu nhiều gièm pha, đay nghiến từ người chồng và bao người thân, do việc bà trở lại đạo. Có lần cha xứ hỏi bà: “Khi chồng con nổi giận và hành hạ con, thì con làm gì”? Bà đáp: “Thưa Cha, con cố gắng nấu ăn ngon hơn. Khi ông than trách, con lau chùi nhà sạch hơn. Khi ông ăn nói cộc cằn, con trả lời ôn tồn nhỏ nhẹ. Con cố gắng để chứng tỏ cho ông ta thấy: Khi con trở lại đạo Chúa, con phải là người vợ và người mẹ tốt hơn”. Một thời gian sau, chính ông chồng cũng xin trở lại đạo Công giáo, không phải vì lời giảng của cha xứ, cho bằng chính nhờ gương sáng sống đạo của bà vợ đạo đức của ông.[9] Sắp tới đây Đức Thánh cha Phanxicô sẽ phong thánh cho chân phước Carlo Arcutis, một vị thánh trẻ, được gọi vị thánh thuộc thế hệ Y. Thánh nhân có gì đặc biệt? Không có gì đặc biệt ngoài việc ngài sống Tin Mừng giữa đời thường. Đức hồng y Vallini trong bài giảng lễ phong chân phước đã nói về Carlo Arcutis như sau: Carlo có lòng yêu mến Thánh Thể và gắn bó với Thánh Thể cách đặc biệt. Chúa Giêsu là Bạn, là Thầy, là Đấng Cứu Độ và là sức mạnh cho cuộc sống của Acutis và là động lực của mọi việc cậu làm. Từ đó, Carlo mong muốn mãnh liệt đưa người khác đến với Chúa và cậu làm điều này trên hết bằng gương mẫu cuộc sống. Carlo dùng mọi cách, cả cách thức hiện đại, với tài năng về tin học Chúa ban, để gặp gỡ và loan truyền các giá trị Kitô giáo cho người khác[10]. BÀI 3: BIẾN ĐỔI THẾ GIỚI TỪ BÊN TRONG - Lm. Tôma Vũ Ngọc Tín, S.J. Đời sống Kitô hữu giữa lòng trần thế như những hạt muối tinh tế thấm vào lòng đời, lặng lẽ làm biến đổi thế giới, như men trong bột làm dậy lên cả khối bột. Hành trình hy vọng nhưng cũng đầy thách đố này đòi hỏi sự biến đổi sâu sắc từ bên trong tâm hồn và đời sống mỗi người tín hữu. Khi mỗi người thay đổi từ nội tâm, họ trở thành ánh sáng lan tỏa, chiếu rọi khắp nơi, góp phần biến đổi thế giới bằng chính đời sống đức tin của mình. Theo Sắc Lệnh về Tông Đồ Giáo Dân, linh đạo tông đồ giáo dân không chỉ là sống đức tin một cách cá vị, mà còn là tham gia tích cực vào sứ mạng của Giáo Hội. Giáo dân được mời gọi trở thành những tông đồ giữa đời, mang Tin Mừng đến mọi nơi (Apostolicam Actuositatem-AA, 4). Linh đạo này giúp mỗi người giáo dân nhận ra rằng, họ có một vai trò đặc biệt trong việc xây dựng Nước Trời nơi trần thế, không chỉ qua lời nói mà còn qua hành động cụ thể trong cuộc sống thường ngày: “Bản chất riêng biệt của người giáo dân là sống giữa đời và làm việc đời nên chính họ được Thiên Chúa mời gọi để một khi tràn đầy tinh thần Kitô giáo, họ làm việc tông đồ giữa đời như men trong bột” (AA 2). Sống linh đạo tông đồ giáo dân như thế, trước hết người giáo dân gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu qua Lời Chúa và Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể là tâm điểm đời sống người tín hữu, nuôi dưỡng mỗi người trong hành trình Kitô hữu giữa đời, giúp mỗi người kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu và dấn thân phục vụ sứ mạng của Người: “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu, đó không chỉ là lời mời gọi, mà còn là một yêu cầu thiết yếu, để mỗi Kitô hữu có thể sống đức tin và thực thi sứ mạng của mình. Tham dự Thánh lễ, cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa,… là những phương thế giúp giáo dân nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của mình. Cầu nguyện giúp người giáo dân sống tình thân mật thiết với Chúa, trong khi suy niệm Lời Chúa giúp họ hiểu rõ hơn về ý nghĩa và sứ mạng của mình như được Chúa mời gọi. Kết hiệp với Chúa Giêsu qua Thánh Thể và Lời Chúa là những phương thế sống động để mỗi người trở nên men trong bột, biến đổi thế giới từ bên trong. Từ đời sống gắn kết với Chúa Giêsu, người giáo dân sống đức tin của mình qua những hành động cụ thể trong gia đình, nơi làm việc, và cộng đồng. Điều này có thể bao gồm việc tham gia vào các hoạt động xã hội, hỗ trợ người nghèo, bảo vệ môi trường, và tham gia vào các phong trào xã hội nhằm thúc đẩy công lý và hòa bình. Ý nghĩa của việc trở thành men trong bột là mỗi Kitô hữu đều có thể đóng góp một phần nhỏ nhưng quan trọng vào việc biến đổi thế giới xung quanh. Điều này đòi hỏi mỗi người phải sống đời sống đức tin một cách chân thật và nhiệt thành. Tình yêu và công lý là hai yếu tố không thể thiếu trong linh đạo giáo dân. Mỗi giáo dân được mời gọi sống yêu thương qua những hành động cụ thể, đồng thời nỗ lực thực thi công lý và xây dựng hòa bình. Các hoạt động xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc thực hành tông đồ giáo dân. Tham gia vào các hoạt động này không chỉ giúp mỗi người thực thi sứ mạng truyền giáo, mà còn góp phần xây dựng một xã hội công bằng và yêu thương hơn. Sau cùng, qua đời sống đức tin và dấn thân tông đồ, mỗi người góp phần xây dựng và phát triển cộng đoàn giáo xứ. Qua việc tham gia tích cực vào đời sống giáo xứ, giáo dân không chỉ đóng góp vào sự phát triển của cộng đoàn mà còn tạo ra một môi trường yêu thương và hiệp nhất. Một cộng đoàn yêu thương sẽ là nền tảng vững chắc để mỗi giáo dân có thể thực thi sứ mạng truyền giáo của mình một cách hiệu quả. Tóm lại, hành trình Kitô hữu giữa lòng trần thế là trở thành muối và men, âm thầm, trung kiên, nhẫn nại thấm vào mọi ngóc ngách của cuộc sống, làm biến đổi thế giới từ nội tại. Sống đức tin trong đời thường, thể hiện qua những hành động cụ thể trong gia đình, nơi làm việc và cộng đồng, là cách mỗi Kitô hữu trở thành men trong bột, biến đổi thế giới bằng tình yêu và công lý. Kết hiệp với Chúa qua cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa, cùng tham gia vào các hoạt động xã hội, là nền tảng để mỗi giáo dân góp phần xây dựng một xã hội công bằng và yêu thương, biến đổi thế giới từ bên trong. Hồi tâm 1/ Nhìn lại kinh nghiệm sống đạo, tôi thấy mình trở nên ánh sáng và muối và men trong môi trường sống như thế nào? Tôi có thể làm gì để thẩm thấu và lan tỏa tinh thần Kitô giáo trong gia đình, nơi làm việc, và cộng đồng của mình? 2/ Tôi cảm nghiệm thế nào về ơn gọi và sứ mạng Kitô hữu khi cầu nguyện và suy niệm lời Chúa? Làm thế nào tôi có thể biến những cảm nghĩ thiêng liêng ấy thành hành động cụ thể để xây dựng Nước Trời ngay cuộc sống đời thường của tôi? 3/ Khi đối diện với những thách thức trong cuộc sống và xã hội, tôi trải nghiệm thế nào về tình yêu và công lý như men trong bột, làm dậy lên sự thay đổi tích cực? Tôi có sẵn sàng dấn thân hơn nữa để trở thành người tông đồ truyền giáo giữa đời, lan toả tình yêu và công lý trong môi trường sống thường ngày? BÀI 4: LÒNG CAN ĐẢM VÀ SỰ KHÔN NGOAN KHI DẤN THÂN VÀO ĐỜI SỐNG TRẦN THẾ - Lm. Tôma Vũ Ngọc Tín, S.J. Lòng can đảm và sự khôn ngoan là hai phẩm chất quan trọng mà mỗi Kitô hữu cần có để sống và làm chứng cho đức tin trong đời sống trần thế. Lòng can đảm giúp chúng ta vượt qua những thử thách và khó khăn, dám đứng lên bảo vệ sự thật và công lý. Sự khôn ngoan, hướng dẫn chúng ta hành động một cách sáng suốt, biết phân định phải trái, đúng sai và chọn lựa đường hướng đẹp lòng Chúa. Trong một thế giới đầy biến động và thách thức, lòng can đảm và sự khôn ngoan trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Đối với giáo dân, hai phẩm chất này không chỉ giúp họ sống đức tin một cách mạnh mẽ và vững vàng mà còn đóng góp tích cực vào việc xây dựng một xã hội công bằng và nhân ái hơn. Lòng can đảm là một chủ đề được nhắc đến nhiều trong Kinh Thánh: “Mạnh bạo lên, can đảm lên! Đó chẳng phải là lệnh Ta đã truyền cho ngươi sao? Đừng run khiếp, đừng sợ hãi, vì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, sẽ ở với ngươi bất cứ nơi nào ngươi đi tới” (Gs 1,9). Lời khích lệ này không chỉ dành cho Thủ lãnh Giôsuê mà còn dành cho tất cả chúng ta, những người đang sống và làm chứng cho đức tin. Lòng can đảm giúp chúng ta đứng vững trước những thử thách, bảo vệ niềm tin và dám sống theo những giá trị Tin Mừng trong một thế giới đầy cám dỗ, bạo loạn và bất công. Sự khôn ngoan cũng là một đức tính quan trọng được Kinh Thánh đề cao: “Nếu ai trong anh em thiếu đức khôn ngoan, thì hãy cầu xin Thiên Chúa, Người sẽ ban cho. Vì Thiên Chúa ban cho mọi người cách rộng rãi, không quở trách” (Gc 1,5). Sự khôn ngoan giúp chúng ta biết phân định đúng sai, tốt xấu, lựa chọn đường hướng đẹp lòng Chúa và hành động một cách sáng suốt trong mọi hoàn cảnh. Nó không chỉ là tri thức mà còn là khả năng ứng dụng tri thức đó vào cuộc sống một cách đúng đắn và hiệu quả tốt đẹp. Mỗi người vẫn thường đối diện với những thách đố và nghịch cảnh trong đời sống. Điều quan trọng là cách chúng ta đối diện và vượt qua chúng. Cuộc sống trần thế có muôn vàn cảnh huống mà ở đó, người giáo dân thể hiện lòng can đảm và sự khôn ngoan khi luôn tin cậy Chúa và đối diện khó khăn, chẳng hạn như việc bảo vệ sự thật và công lý trong môi trường làm việc, nơi có thể gặp phải những áp lực và cám dỗ. Lòng can đảm giúp chúng ta không lùi bước, trong khi sự khôn ngoan giúp chúng ta chọn lựa cách hành động phù hợp và hiệu quả. Đời sống đức tin không dừng ở việc tham dự các cử hành phục vụ mà còn sống theo những giá trị Kitô giáo trong đời sống thường ngày. Giáo dân có thể thể hiện lòng can đảm và sự khôn ngoan bằng cách làm gương sáng trong môi trường làm việc, trong gia đình, và trong cộng đồng. Những hành động cụ thể như giúp đỡ người khó khăn, bảo vệ môi trường, và tham gia vào các hoạt động từ thiện đều là những cách thể hiện đức tin một cách sống động và thực tế. Trong nhiều hoàn cảnh, lòng can đảm và sự khôn ngoan của người giáo dân có thể thể hiện trong vai trò lãnh đạo cộng đồng. Trong hoàn cảnh đó, lòng can đảm và sự khôn ngoan không chỉ giúp giáo dân đối mặt với những thách thức mà còn giúp họ hành động một cách sáng suốt và hiệu quả. Sau cùng, giáo dục con cái về lòng can đảm và sự khôn ngoan là một nhiệm vụ quan trọng của các bậc cha mẹ Công Giáo. Giáo dân có thể giúp con cái hiểu và thực hành hai phẩm chất này qua gương sáng trò chuyện thường ngày trước những vấn đề thực tế trong đời sống, giúp con cái phát triển lòng can đảm và sự khôn ngoan trong cuộc sống. Tóm lại, lòng can đảm và sự khôn ngoan là những phẩm chất không thể thiếu để mỗi Kitô hữu sống đức tin trong đời sống trần thế. Những phẩm chất này hằng giúp chúng ta vượt qua thử thách, bảo vệ sự thật và công lý, và hành động minh bạch, tư duy độc lập sáng suốt, mang lại ích lợi chính đáng cho bản thân và cộng đồng. Trong một thế giới đầy biến động, giáo dân cần lòng can đảm để kiên vững vượt qua những trở ngại và sự khôn ngoan để phân định và lựa chọn đúng đắn. Đó là hai phẩm chất giúp người giáo dân dấn thân sống đức tin giữa lòng trần thế, góp phần xây dựng đời sống xã hội thấm đượm Tin Mừng. Hồi tâm 1/ Trong những tình huống cụ thể nào, tôi thường cần đến lòng can đảm để bảo vệ sự thật và công lý? Tôi đã từng phản ứng ra sao và kết quả như thế nào? 2/ Làm thế nào tôi có thể áp dụng sự khôn ngoan để phân định đúng sai và đưa ra quyết định sáng suốt trong các hoạt động và công việc tại giáo xứ của mình? 3/ Nhớ lại một trải nghiệm khi lòng can đảm và sự khôn ngoan của người Công giáo đã tạo ra sự khác biệt tích cực trong cộng đồng xã hội? Tôi cảm nghĩ thế nào về sự dấn thân của người giáo dân, với lòng can đảm và khôn ngoan, vào đời sống xã hội? ________ [1] Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Tông Huấn Người Tín Hữu Giáo dân (Christifideles Laici), số 15. [2] Nt. [3]X. Hiến chế Mạc Khải (Dei Verbum), số 21 [4] X Hiến chế Mạc Khải (Dei Verbum), số 25. [5] Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông thư Ngàn Năm Thứ Ba (Millennio Adveniente), số 39> [6] Đức Phanxicô, buổi tiếp kiến chung trực tuyến sáng thứ Tư 25/11/2020), nguồn Vatican News. [7] Nguồn: www.ncregister.com/commentaries/without-adoration-there-s-no-evangelization [8] Nguồn: www.vaticannews.va/vi/pope/news/2020-11/ [9] Nguồn: https://linhmucmen.com/news/kho-sach-quy/chung-nhan-giua-doi-thuong [10] Nguồn: https://www.vaticannews.va/vi/church/news/2020-10/le-phong-chan-phuoc-carlo-acutis.html
ỦY BAN GIÁO DÂN - THƯỜNG HUẤN THÁNG 07/2024: TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN - MUỐI ...
LINH ĐẠO DUNG NẠP
LINH ĐẠO DUNG NẠP