Ngày thứ nhất: 10.3.2014
Từ chiều thứ hai, 10.3.2014, đến sáng thứ sáu, 14.3.2014, 117 anh em Linh mục Huế và 9 Linh mục Dòng Nam tại Huế tham dự Tuần Tĩnh Tâm Năm tại Trung Tâm Mục Vụ Huế.
Có mặt trong Tuần Tĩnh tâm này, có Đức Tổng Giám Mục Huế, Đức Cha Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng; Đức Tổng Giám Mục Têphanô Nguyễn Như Thể; Linh mục Tổng Đại Diện Antôn Dương Quỳnh.
Vị giảng phòng là Đức Viện phụ Đôminicô Phạm Văn Hiền, thuộc Viện tu Phước Sơn.
+++
Lời khai mạc của Đức Cha Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng, Tổng Giám Mục TGP Huế, lúc 16g30 ngày thứ hai (10.3.2014)
Khai mạc Tuần Tĩnh Tâm lúc 16g30, Đức Tổng Giám Mục Huế nhắn nhủ anh em linh mục đoàn Huế hãy đi vào Tuần Tĩnh Tâm quan trọng này bằng cách bỏ lại đằng sau những công việc mục vụ hằng ngày, những bận rộn lo toan cho đoàn chiên, hầu dành trọn thì giờ cho việc gặp gỡ Chúa, lắng nghe Chúa Thánh Thần thúc đẩy và tiếng lương tâm dạy bảo. Hãy nhìn lại con người của mình, nhìn lại đời sống trong một năm qua để khám phá ra những lệch lạc, những khiếm khuyết, những lỗi lầm, và can đảm sửa sai điều chỉnh cho đúng như lòng Chúa mong ước. Để làm được việc quan trọng này, anh em linh mục cần có sự thinh lặng trong tâm hồn và cả sự thinh lặng bên ngoài. Theo như một nhà tu đức kia xác quyết: nếu trong buổi tĩnh tâm mà ta giữ được sự thinh lặng cả bên ngoài và bên trong thì ta đã làm được 50% cuộc tĩnh tâm rồi.
Đức Tổng Giám Mục khuyên anh em linh mục những điều thực tế để tránh rộn ràng và gây lo ra cho cộng đoàn như tránh trao đổi khi không cần thiết, tắt điện thoại di động, dành thời gian để suy ngẫm các đề tài giảng phòng.
Đức Tổng khuyên anh em sống Tuần Tĩnh Tâm như vậy thì Lời Chúa mới thấm sâu, bén rễ, mới kết hoa đơm trái trong mỗi lòng chúng ta vì tĩnh tâm không phải là việc của Cha Giảng phòng, mà là việc của mỗi người chúng ta. Không ai có quyền, không ai có thể làm thay cho chúng ta trong cuộc tĩnh tâm vì Cha giảng phòng chỉ là người gợi ý dọn bữa tiệc Lời Chúa, còn chúng ta là những người chủ động trong việc dùng bữa tiệc này.
+++
Bài giảng thứ nhất - “Xin Thiên Chúa là Cha, xin Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ban cho anh ân sủng, tình thương xót và bình an” (2 Tm 1,2)
Mở đầu tuần tĩnh tâm, con xin mượn lời thánh Phaolô gửi Timôthê để kính chúc quý...Nội dung câu chúc ấy cũng là đề tài cho buổi suy niệm đầu tiên này.
Kính thưa…
Trong lời chúc của thánh Phaolô, chúng ta cần tô đậm nét ba chữ: Ân sủng, tình thương, bình an. Ba chữ này được nhắc lại hầu như trong mỗi thư của thánh Tông dồ, đặc biệt trong: Rm 1,7 (Kính gửi tất cả anh em ở Rôma, những người được Thiên Chúa yêu thương, được kêu gọi làm dân thánh. Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giêsu Kitô ban cho anh em ân sủng và bình an.); 2 Cr 13,13 (Cầu chúc toàn thể anh em được đầy tràn ân sủng của Chúa Giêsu Kitô, đầy tình thương của Thiên Chúa, và ơn hiệp thông của Thánh Thần. Amen.); 1 Tm 1,1-2 (Tôi là Phaolô, Tông Đồ của Đức Kitô Giêsu theo lệnh Thiên Chúa, ... gửi anh Timôthê, người con tôi đã sinh ra trong đức tin. Xin Thiên Chúa là Cha và xin Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta, ban cho anh ân sủng, lòng thương xót và sự bình an.). 2 Tm 1,2 (Xin Thiên Chúa là Cha và xin Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ban cho anh được ân sủng, lòng thương xót và sự bình an.)
Đối với thánh Phaolô, có một sự liên hệ mật thiết giữa ba từ này. Quả thật, làm sao ta nhận dược ân sủng, tức hồng ân cứu độ của Chúa Kitô, nếu nó không xuất phát từ tình yêu của Thiên Chúa Cha (Ga 3,16: Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời).Ân sủng ấy là kết quả của một sự giao hoà giữa Thiên Chúa và nhân loại qua Đức Giêsu. Chính theo nghĩa này, Đức Giêsu được thánh Tông đồ gọi là ‘Bình an của chúng ta’ (Eph 2, 14-16: Thật vậy, chính Người là bình an của chúng ta: Người đã liên kết đôi bên, dân Do Thái và dân ngoại, thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét; Người đã huỷ bỏ Luật cũ gồm các điều răn và giới luật. Như vậy, khi thiết lập hoà bình, Người đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhất nơi chính bản thân Người. Nhờ thập giá, Người đã làm cho đôi bên được hoà giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất; trên thập giá, Người đã tiêu diệt sự thù ghét). Tóm lại, cả ba từ đều nói lên Tình yêu Thiên Chúa
Cảm nhận tìnhthương Thiên Chúa là bí quyết hạnh phúc.
(Rm 8,28:Chúng ta biết rằng: Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người, tức là cho những kẻ được Người kêu gọi theo như ý Người định.)
Khẳng định như thế có ngoa lắm không? Thưa không, đúng hơn, đó là một xác tín Tin Mừng. Nếu Đức Phaolô VI bảo: Niềm tin của chúng ta chỉ vững chắc, khi nó đặt cơ sở trên một xác tín Tin Mừng. Thế mà đức tin mang lại cho Kitô hữu hạnh phúc trường cửu kia mà! Các vị thánh như Phanxicô Assisi, Têrêxa Hài Đồng Giêsu… luôn vui tươi trong phó thác, là vì bao giờ các ngài cũng cảm nhận tình thương Thiên Chúa. Chính chúng ta đây, trong những ngày tháng bi thương nhất của cuộc đời, chẳng hạn ai đó đang nằm vò vỏ như heo trong cũi ở một góc nào đó, mà còn hát được ‘Nhớ đến Giêsu, ôi ngọt ngào dường bao! Jesu dulcis memoria… ’ thì hẳn lúc ấy, tình yêu Chúa đang ngập tràn tâm hồn!
Nhưng cụm từ ‘tình yêu Thiên Chúa’ phải hiểu theo nghĩa nào: Tình Chúa yêu tôi hay tình tôi yêu Chúa? Trước đây, vì muốn nhấn mạnh bổn phận thứ nhất trong thập điều, người ta hiểu theo nghĩa thứ hai, tức tình ta yêu Chúa: ‘Ngươi hãy yêu mên Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết sức ngươi’ (Lc 10,27).
Nhưng ngày nay, các nhà tu đức như cha R.Cantalamessa khuyên chúng ta trở về với cách hiểu của Kinh Thánh (Đời sống mới trong Chúa Kitô, trg 11). Hẳn thật Kinh Thánh Tân Ước minh xác: ‘Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng là chính Ngài đã yêu thương chúng ta’ (1 Ga 4,10). Đó là một ân huệ do sự chiếu cố của Thiên Chúa. Bổn phận phải đi liền sau ân huệ: ‘Chúng ta hãy yêu mến, vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước’(1 Ga 4,19). Vậy để sẵn sàng và quảng đại thực hiện chữ HẾT (hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực), chúng ta phải biết Thiên Chúa yêu chúng ta như thế nào. Thành công trong việc giáo dục thiêng liêng nằm ở chỗ này. Còn có quá nhiều người chưa hiểu câu nói của thánh Benađô: Modus diligendi Deum est diligere sine modo, mức độ yêu mến Thiên Chúa là yêu không mức độ! Ở đây chúng ta tìm được cách lý giải cho những cái ‘liều’ nơi các thánh! Quả thật chữ yêu đi trước chữ liều. Nói cách khác: người ta chỉ dám hy sinh mạng sống khi cảm nhận được tình yêu của Chúa đối mình và đối với tha nhân.
Nhưng làm sao biết được tình Chúa yêu ta? Đức thánh cha Phanxicô khuyên ta hãy có ký ức về các ơn lành của Thiên Chúa (TĐ Lumen Fidei 40). Trong sách Thánh vịnh, rất nhiêu bài nhắc lại bao việc Yahweh đã làm cho Israen suốt thời gian trong sa mạc. Còn thánh Phaolô nêu rõ ân huệ lớn nhất chính là Đức Giêsu Kitô, ngài viết: ‘Đến như Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì chúng ta hết thảy. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại không rộng ban tất cả cho chúng ta’ (Rm 8,32).
Tình thương hải hà của Thiên Chúa, ngôn từ nhân loại làm sao diễn tả hết ý nghĩa! Kinh Thánh đã phải dùng nhiều hình ảnh để giúp ta cảm nhận phần nào. Sau đây thiết tưởng nêu lên mấy hình ảnh, đó là hình ảnh của tình cha (hesed) hoặc hình ảnh dạ mẹ (Rahamin). Hesed là tình yêu mang nam tính, dũng mạnh và trung thành; còn Rahamin nói lên lòng mẹ bao dung, bởi đã hun đúc lên hình hài đứa con trong dạ, phản ứng của tình mẹ là mở rộng vòng tay ôm con, dù nó ngỗ nghịch đến đâu. Nơi Thiên Chúa, trong dụ ngôn người cha nhân hậu có cả tình cha lẫn tình mẹ (x. Lc 15).
Ngoài ra, Thánh Kinh còn áp dụng tình yêu vợ chồng cho Thiên Chúa nữa. Phải chăng vì muốn nói đến giao ước, Thiên Chúa đã ký kết với Israel, đã biến họ thành bạn trăm năm ngang qua mối tình có chọn lựa. Tình bạn mang tính phu thê này còn được thánh Phaolô áp dụng cho tình yêu Chúa Kitô dành cho Hội Thánh, và dĩ nhiên cho cả mỗi kitô hữu, trong tư cách là thành viên của Hội Thánh. Nhiều người nhân danh sự thánh thiện siêu việt của Thiên Chúa, đặt nghi vấn về một mối tình quá ư gần gũi như thế. Nhưng theo thánh Bênađô, mọi kết hợp giữa Thiên Chúa và con người đều trở nên có thể dưới ánh sáng mầu nhiệm nhập thể. Chính Đức Kitô đã khẳng định: ‘Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thày. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến ở lại trong người ấy’ (Ga 14,23); 17,26: ‘Con đã cho họ biết danh Cha, và sẽ còn cho họ biết nữa, để tình Cha đã yêu thương con, ở trong họ, và con cũng ở trong họ nữa.’). Thánh Augustino khẳng định: ‘Thiên Chúa trở thành sự sống của hồn tôi, sự sống của sự sống tôi, thân mật với tôi còn hơn cả bản thân tôi đối với tôi’.
WTGP-HUẾ
Các tin khác