Thứ ba, ngày 09 tháng 07 năm 2024 | 06:38 AM - Giới thiệu | Ý nghĩa logo
Tài liệu

CÔNG ĐỒNG VATICANÔ

VÀ BÍ TÍCH THÁNH THỂ

                                Lm. Antôn Nguyễn Đức Khiết

 

NHẬP ĐỀ :

Công đồng Triđentinô (13.12.1545 - 4.12.1563) đã dành ba khoá họp XIII, XXI và XXII để trình bày giáo lý đức tin về Bí tích Thánh Thể trong bối cảnh chống lại Phong trào Cải cách.

Trong khóa họp XIII (11.10.1551), với “Sắc lệnh về Bí tích Thánh Thể”, gồm 8 khoản, 11 điều luật, Công Đồng bàn về sự hiện diện đích thực của Chúa Giêsu, [1] về việc Chúa Giêsu thiết lập Bí tích cực thánh [2] như dấu chỉ tình yêu của Ngài và về Bí tích Thánh Thể với ba chiều kích : tưởng niệm công trình cứu độ đã đuợc thực hiện trong quá khứ, thông ban ơn cứu độ trong hiện tại (= nuôi dưỡng và thanh luyện linh hồn) và loan báo sự viên mãn cánh chung (tương lai), về biến thể (Transsubstantiatio). [3]

Trong khóa họp XXII (17.9.1562), với “Sắc lệnh về Thánh Lễ”, gồm 9 khoản và 9 điều luật. Công Đồng bàn về việc thiết lập Hy tế Thánh Lễ [4] và minh chứng Thánh Lễ là hy tế đích thực, dựa vào việc thiết lập Bí tích Thánh Thể trong bữa Tiệc Ly. Hy tế Thánh Thể đã được thiết lập để “hiện tại hóa” hy tế thập giá.

Cuối cùng, vì phong trào Cải Cách đề cao chức tư tế cộng đồng đối chọi với chức tư tế thừa tác, cho nên trong khóa họp XXIII, Công đồng buộc phải bênh vực chức tư tế thừa tác do Đức Kitô thiết lập. Tuy nhiên, phản ứng này của Công đồng đã làm giảm nhẹ vai trò tham dự tích cực của các tín hữu : họ chỉ được coi như là những người hưởng nhờ bí tích và trong Thánh Lễ, họ chỉ tham dự với tư cách là những người “nghe Lễ”.

Công đồng Vaticanô II là một Công đồng mục vụ, khai mạc ngày 11.10.1962 và bế mạc ngày 8.12.1965 với 4 khoá họp :

-      Khoá họp thứ nhất (11.10.1962 – 8.12.1962)

-      Khoá họp thứ hai (29.9.1963 – 4.12.1963)

-      Khoá họp thứ ba (14.9.1964 – 21.11-1964)

-      Khoá họp thứ tư (14.9.1965 – 8.12.1965)

Ngày 4.12.1963, ngày bế mạc long trọng khoá họp thứ hai, Đức Giáo hoàng Phaolô VI công bố Hiến chế Phụng vụ Thánh (Sacrosanctum Concilium). Ngày 25.1.1964, Đức Phaolô VI ban Tự sắc Sacram Liturgiam công bố Hiến chế Phụng vụ Thánh bắt đầu có hiệu lực và thành lập một Hội Đồng để thực thi Hiến chế này.

Hiến chế về Phụng Vụ Thánh đã thổi một luồng gió canh tân vào Giáo Hội. Công cuộc canh tân được đón nhận cách mau lẹ, nhất là trên bình diện Phụng vụ. Hoa quả dễ thấy nhất của cuộc canh tân do Công đồng Vaticanô II thực hiện là việc Đức giáo hoàng Phaolô VI công bố Sách Lễ Rôma năm 1970 và tiếp theo là các sách Nghi thức của từng Bí tích. Hiến chế về Phụng vụ thánh đã đưa ra nguyên tắc cho việc canh tân này như sau :

“Mẹ Hội Thánh tha thiết mong ước toàn thể tín hữu được hướng dẫn tham dự các cuộc cử hành Phụng vụ cách trọn vẹn, ý thức và linh động. Do chính bản tính Phụng vụ đòi hỏi việc tham dự như thế, lại nữa, nhờ Phép Rửa Tội, việc tham dự Phụng vụ trở thành quyền lợi và bổn phận của dân Kitô giáo, là dòng giống được lựa chọn, là tư tế vương giả, là chủng tộc thánh thiện, là dân được tuyển chọn” (1P 2,9). [5]

Từ nguyên tắc trên, Công Đồng đã đưa ra những chỉ thị về canh tân Phụng vụ như sau :

“Trong việc canh tân này, phải tu chính các bản văn và các nghi lễ, làm sao cho chúng diễn tả rõ ràng hơn những thực tại thánh mà chúng biểu thị, và để các tin hữu có thể dễ dàng thấu triệt các thực tại ấy càng nhiều càng tốt, cũng như có thể tham dự bằng việc cử hành những nghi lễ ấy cách trọn vẹn, linh động và cộng đồng”. [6]

Như vậy, trong việc canh tân Phụng vụ, hai việc làm cụ thể mà Công đồng đòi hỏi là :

-      Tu chính các bản văn ;

-      và tu chính nghi lễ.

Để tu chính các bản văn, trước hết, Công đồng nói đến vai trò của Thánh Kinh trong Phụng vụ :

“Để xúc tiến việc canh tân, phát triển và thích ứng Phụng vụ, cần phải phát huy lòng mộ mến Thánh Kinh đậm đà và sống động, đã được truyền thống khả kính của các nghi lễ Đông phương và Tây phương minh chứng”. [7]

“Trong các việc cử hành thánh, cần phải tu chính việc đọc Thánh Kinh cho dồi dào hơn, thay đổi hơn và thích hợp hơn”. [8]

Mục đích của việc canh tân Phụng vụ là giúp tín hữu “tham dự Phụng vụ một cách ý thức, linh động và hữu hiệu”, [9] do đó, Công đồng đã chấp thuận việc dùng tiếng bản quốc trong Phụng vụ. [10]

Còn đối với việc tu chính các nghi lễ, Công đồng đưa ra những tiêu chuẩn :

“Các nghi lễ phải chiếu toả nét đơn sơ cao quý, trong sáng, vắn gọn ; phải tránh những lập đi lập lại vô ích ; phải thích ứng với tầm lãnh hội của các tín hữu, cách chung không cần nhiều lời giải thích”.[11]

Trên đây là những nét căn bản để canh tân Phụng vụ nói chung. Riêng đối với Thánh Lễ, Công đồng đưa ra những chỉ thị cho việc canh tân từ số 47-58 trong Hiến chế về Phụng vụ thánh, Chúng ta sẽ trình bày ở phần II.

 Công đồng Vaticanô II không đưa ra một văn kiện riêng biệt nào về Bí tích Thánh Thể như Công Đồng Triđentinô. Tuy nhiên, Công Đồng đã đặc biệt nói về bí tích Thánh Thể trong Hiến chế về Phụng vụ Thánh và rất nhiều nơi trong các văn kiện khác.

Công đồng Vaticanô II bàn về Thánh Thể dưới nhiều góc cạnh khác nhau : thần học, phụng vụ, mục vụ và linh đạo.


I. Thần học về Bí tích Thánh Thể:

Công Đồng Triđentinô đã tóm tắt nội dung của thần học về bí tích Thánh Thể vào 3 đề tài : Sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu, Thánh Thể được xét như là bí tích và Thánh Lễ là Hy tế. Về phương diện giáo lý, Công Đồng Vaticanô II cũng không đi ra ngoài lược đồ “kinh viện” này. Tuy nhiên, Vaticanô II đã ưu tiên suy nghĩ về mầu nhiệm Thánh Thể trong tương quan với Giáo Hội.

Hy tế Thánh Lễ

Bản chất hy tế của Thánh Lễ được Công Đồng Triđentinô long trọng xác quyết, một lần nữa được tuyên xưng trong Công Đồng Vaticanô II, với những lời rất có ý nghĩa sau đây :

"Trong bữa tiệc sau hết, vào đêm bị nộp, Đấng Cứu Chuộc chúng ta đã thiết lập Hy Tế Tạ Ơn bằng Mình và Máu Người, để nhờ đó, Hy Tế Thập Giá kéo dài qua các thời đại cho tới khi Người lại đến, và cũng để ủy thác cho Hiền Thê yêu quý của Người là Hội Thánh tưởng nhớ sự chết và phục sinh của Người :đây là bí tích tình yêu, dấu chỉ hiệp nhất, mối dây bác ái, bữa tiệc Vượt Qua. Trong tiệc này, chúng ta nhận được Chúa Kitô làm của ăn, được tràn đầy ân sủng và được bảo đảm vinh quang tương lai".[12]

Đây là đoạn văn quan trọng tóm tắt thần học của Vaticanô II về Thánh Thể. Hy tế Thánh Lễ do chính Chúa Giêsu thiết lập, để nhờ đó Hy tế thập giá được hiện tại hoá qua các thời đại cho đến ngày tận thế. Bí tích Thánh Thể được Chúa trao lại cho Giáo Hội để tưởng nhớ mầu nhiệm Vượt qua của Người. Bí tích Thánh Thể là hồng ân tuyệt hảo nhất cho Giáo Hội, là bí tích tình yêu, dấu chỉ hiệp nhất, mối dây bác ái, bữa tiệc vượt qua. Công đồng nhấn mạnh nhiều đến hiệu quả của việc lãnh nhận Mình Chúa như lương thực thiêng liêng, đem lại cho những ai lãnh nhận tràn đầy ân sủng và niềm hy vọng vinh quang. Chiều kích cánh chung của Thánh Thể cũng được đề cập đến trong đoạn văn này.

Như vậy, theo Vaticanô II, mỗi khi cử hành bí tích Thánh Thể, Giáo Hội tưởng nhớ (Anamnèse) cuộc Vượt Qua của Đức Kitô ; lúc đó, cuộc Vượt Qua này trở nên hiện diện giữa cộng đoàn, vì lễ tế của Đức Kitô trên thập giá chỉ dâng một lần là đủ và luôn sống động để đem lại ơn cứu độ. "Mỗi lần hy tế thập giá được cử hành trên bàn thờ, lúc đó Chúa Kitô, Chiên Vượt Qua của chúng ta chịu hiến tế, thì công trình cứu chuộc chúng ta được thực hiện". [13]

Hy tế (Sacrifice) của Chúa Kitô và hy tế Thánh Lễ chỉ là một. Lễ vật duy nhất là Đức Kitô, xưa chính Người dâng trên thập giá, nay được dâng lên nhờ thừa tác vụ linh mục. Chỉ khác biệt ở cách dâng.[14] Công đồng đã nói đến sự duy nhất và sự khác biệt này trong Sắc lệnh về chức vụ và đời sống linh mục :

"Nhờ thừa tác vụ của các linh mục, hy tế thiêng liêng của các tín hữu được hoàn tất vì kết hợp với hy tế của Đức Kitô, Đấng Trung Gian Duy Nhất. Nhân danh Hội Thánh, hy tế này nhờ tay các linh mục được hiến dâng một cách bí tích và không đổ máu, cho tới khi Chúa lại đến". [15]

Sự hiện diện thực sự

Mầu nhiệm về sự hiện diện thực sự của Chúa dưới hình bánh và hình rượu, đã được xác nhận trong Công Đồng Vaticanô II với cùng một ý nghĩa và tư tưởng như đã được Công Đồng Triđentinô đặt thành tín điều.

Công đồng Vaticanô II đã nói đến các hình thức hiện diện của Chúa trong Giáo Hội : “Người hiện diện trong các Bí tích nhờ quyền năng của Người, vì thế ai rửa tội thì chính là Chúa Kitô rửa. Người hiện diện trong Lời của Người, vì chính Người nói khi người ta đọc Thánh Kinh trong Hội Thánh. Người hiện diện trong khi Hội Thánh cầu khẩn và hát Thánh vịnh, như chính Người đã hứa : “Ở đâu có hai, ba người nhân danh Thầy mà họp lại, Thầy sẽ ở giữa ho” (Mt 18,2)”,[16] nhưng cách hiện diện siêu vượt hơn hết là hiện diện trong Bí tích Thánh Thể :

“Chúa Kitô hằng hiện diện trong Giáo Hội, nhất là trong các hoạt động phụng vụ. Người hiện diện trong Hy Lễ, không những trong con người thừa tác viên, vì “như xưa Người đã tự dâng mình trên thập giá, thì nay chính Người cũng dâng mình nhờ thừa tác vụ của các linh mục”,[17]nhất là hiện diện thực sự dưới hai hình Thánh Thể”. [18]

Thánh Thể và Giáo Hội

Công đồng Triđentinô, vì phải chống lại Cải Cách, nên đã dồn mọi nỗ lực vào việc chứng minh Thánh Lễ là một hy tế và mối liên hệ giữa hy tế thập giá và hy tế Thánh Lễ. Công đồng Vaticanô II ưu tiên nhấn mạnh đến chiều kích giáo hội của Thánh Thể. Thánh Thể là lương thực cho Giáo Hội lữ hành. Giáo Hội sống nhờ Thánh Thể. Thánh Thể là nguồn mạch và chóp đỉnh của đời sống Giáo Hội. Thực vậy, Thánh Thể là “chóp đỉnh” của hành trình gia nhập Kitô giáo (initiation chrétienne) nhưng cũng là chóp đỉnh của hoạt động tông đồ, bởi vì hoạt động tông đồ giả thiết sự thuộc về Giáo Hội. Thánh Thể cũng là “nguồn mạch” của mọi sinh hoạt trong đời sống Giáo Hội, bởi vì Thánh Thể là lương thực cần thiết cho sự sống và sứ mạng của Giáo Hội. [19]

Bí tích Thánh Thể là dấu chỉ hiệp nhất của Giáo Hội

Theo Vaticanô II, Thánh Thể cũng biểu lộ bản chất của Giáo Hội, một Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền, cả trên bình diện Giáo Hội phổ quát và Giáo Hội địa phương

“Trong phần đất mình, mỗi đoàn thể là dân tộc mới được Thiên Chúa kêu gọi trong Thánh Thần và trong sự viên mãn hoàn toàn (x. Tx 1,5). Nơi các đoàn thể đó, tín hữu được tụ họp lại nhờ sự rao giảng Phúc âm Chúa Kitô và mầu nhiệm Tiệc thánh Chúa được cử hành, để “nhờ Thịt và Máu Chúa, tất cả kết thành huynh đệ và thành một thân thể. Chúa Kitô vẫn hiện diện trong các cộng đoàn ấy, dù nhỏ bé nghèo hèn hay tản mác khắp nơi. Và nhờ Thần lực Người, Giáo Hội hiệp thành duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền. Bởi vì “việc tham dự vào Mình và Máu Chúa Kitô không có công hiệu nào khác hơn là biến đổi chúng ta thành Đấng mà chúng ta nhận lãnh” (Thánh Inhaxiô  thành Antiokia, Smyrna 8, 1)”. [20]

Trong số này, Công Đồng trích dẫn lời của thánh Inhaxiô thành Antiokia về hiệu quả của việc lãnh nhận Thánh Thể là làm cho chúng ta được biến đổi theo hình ảnh của Đức Kitô.

Qua việc tham dự vào cùng một tấm bánh và cùng một chén, Bí tích Thánh Thể biểu lộ sự hiệp nhất trong Giáo Hội :

“Khi tham dự Thánh Lễ, nguồn mạch và chóp đỉnh của tất cả đời sống Kitô giáo, các tín hữu dâng lên Thiên Chúa Lễ vật thần linh và cùng với Lễ vật ấy, họ tự dâng chính mình họ. Khi dâng lễ cũng như khi hiệp lễ, không phải cách hỗn độn, nhưng mỗi người một cách góp phần vào việc cử hành Phụng vụ. Hơn nữa, được bổ dưỡng bởi Mình Thánh Chúa Kitô trong Thánh Lễ, họ biểu lộ cách cụ thể sự hiệp nhất của Dân Thiên Chúa, sự hiệp nhất ấy được diễn tả đầy đủ và thực hiện cách kỳ diệu trong bí tích cực trọng này”. [21]

Thánh Thể là mối dây bác ái

Hiệu quả đầu tiên của việc hiệp lễ là cho chúng ta được thông hiệp với Chúa Kitô, Đầu của Thân Thể Người là Giáo Hội. Như thế, thuộc về Chúa Kitô để thuộc về Giáo Hội. Trong Bí tích Thánh Thể, Chúa Kitô thúc đẩy chúng ta thực hành đức ái. Công đồng nói đến trách nhiệm hàng đầu của giám mục giáo phận là giúp cho các tin hữu của mình hiểu, sống và diễn tả mầu nhiệm Thánh Thể trong tình liên đới yêu thương :

“Vậy các ngài (giám mục) phải luôn luôn lo lắng cho các Kitô hữu thấu hiểu và sống sâu xa hơn mầu nhiệm phục sinh thế nào, để nhờ Bí tích Thánh Thể, họ tạo thành một thân thể liên kết rất chặt chẽ trong tình bác ái duy nhất của Chúa Kitô”. [22]

Giám mục giáo phận là dấu chỉ hiệp nhất của Giáo Hội địa phương, vì thế, việc ngài cử hành Thánh Thể cùng với cộng đoàn giáo hội địa phương biểu hiệu rõ nét đức ái và sự hiệp nhất của Giáo Hội :

“Mỗi lần giám mục cử hành tác vụ thánh với cộng đoàn tụ họp quanh bàn thờ, đó là biểu hiệu đức ái và sự hiệp nhất của nhiệm thể, và nếu thiếu sự hiệp nhất đó, không thể có ơn cứu rỗi”. [23]

“Các bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể, thông ban và nuôi dưỡng trong họ đức ái đối với Thiên Chúa và đối với loài người ; nhân đức này là linh hồn của mọi hoạt động tông đồ”. [24]

Thánh Thể đưa người tín hữu vào trong sự hiệp thông với Đức Kitô và Thân thể của Người là Giáo Hội

Bí tích Thánh Thể đưa chúng ta vào trong tương quan hiệp thông với Đức Kitô, nhưng dấu chỉ hữu hình của mối tương quan này được biểu lộ qua sự hiệp thông giáo hội. Lãnh nhận Thân Mình Chúa Kitô (Corps sacramentel du Christ) để trở nên chi thể của thân mình giáo hội của Người (Corps ecclesial du Christ) :

“Khi bẻ bánh tạ ơn, chúng ta thực sự thông dự vào Thân thể của Chúa, nên chúng ta được nâng lên để hiệp thông với Người và với nhau. “Chúng ta tuy nhiều, nhưng là một tấm bánh, một thân thể, vì hết thảy chúng ta cùng thông phần vào một tấm bánh” (1Cr 10,17). Thế nên, tất cả chúng ta trở thành chi thể của Thân thể ấy (x. 1Cr 12,27), “vì mỗi người là chi thể của nhau” (Rm 12,5)”. [25]

Bí tích Thánh Thể xây dựng Giáo Hội

“Phụng vụ, nhất là Lễ Tạ ơn, như là nguồn mạch từ đó ân sủng tuôn tràn trong chúng ta và làm cho con người được thánh hoá trong Chúa Kitô một cách vô cùng hữu hiệu, đồng thời Thiên Chúa được tôn vinh : đây cũng là cứu cánh của mọi công việc khác của Giáo Hội”. [26]

Công Đồng xác tín rằng Bí tích Thánh Thể và lòng yêu mến Lời Chúa chính là sự sống của Giáo Hội và cho Giáo Hội. Giáo Hội được tăng triển là nhờ vào việc lãnh nhận Thánh Thể và đời sống thiêng liêng được đổi mới là nhờ vào lòng yêu mến Lời Chúa :

“Nếu đời sống Giáo Hội được tăng triển nhờ năng lãnh nhận Bí tích Thánh Thể thế nào, thì đời sống thiêng liêng cũng hy vọng có thể được đổi mới như vậy nhờ thêm lòng sùng kính Lời Chúa, là “Lời hằng tồn tại muôn đời” (Is 40,8 ; 1P 1,23-25)”. [27]

Thánh Thể thúc bách Giáo Hội loan báo Tin Mừng

Trong số 17 của Hiến chế tín lývề Giáo Hội, Công Đồng nhấn mạnh đến trách nhiệm của toàn thể Dân Chúa là góp phần loan báo Tin Mừng, nhưng chỉ các tư tế mới hoàn tất việc xây dựng Nhiệm Thể Giáo Hội nhờ Thánh Thể, bởi vì Thánh Thể hoàn tất hành trình gia nhập Kitô giáo

“Tuy bất cứ ai cũng có thể ban Phép Rửa cho những kẻ tin, nhưng chỉ có linh mục mới hoàn tất xây dựng Nhiệm Thể bằng Hy lễ tạ ơn, làm trọn lời Thiên Chúa đã phán qua miêng tiên tri : “Từ đông sang tây, Danh Ta sẽ được lừng lẫy khắp muôn dân ; khắp nơi đều sát tế và dâng lễ vật thanh sạch kính Danh Ta” (Ml 1,11)”. [28]

“Các công lao khó nhọc trong việc tông đồ, đều nhằm làm cho mọi người trở nên con cái Thiên Chúa nhờ đức tin và Phép Rửa, cùng nhau quy tụ ngợi khen Chúa giữa lòng Giáo Hội, thông phần hiến tế và ăn tiệc của Chúa”. [29]

"Tất cả những bí tích khác cũng như các thừa tác vụ trong Giáo Hội và các hoạt động tông đồ đều gắn liền với bí tích Thánh Thể và qui hướng về đó. Thật vậy, Phép Thánh Thể Chí Thánh chứa đựng tất cả của cải thiêng liêng của Giáo Hội, đó là chính Chúa Kitô, Người là mầu nhiệm Phục Sinh của chúng ta, Người là Bánh hằng sống, ban sự sống cho nhân loại bằng chính Thịt của Người, thịt đã được sống động nhờ Thánh Thần và làm cho người ta được sống. Như thế, Người mời gọi và dẫn đưa con người hiến dâng chính mình, dâng những vất vả của mình và mọi tạo vật làm một với Người. Bởi vậy, bí tích Thánh Thể là nguồn mạch và tuyệt đỉnh của toàn thể công việc rao giảng Tin Mừng : trong khi các người dự tòng được dẫn đưa dần dần đến việc tham dự bí tích Thánh Thể, thì các tin hữu, những người đã mang ấn tích Rửa tội và Thêm sức, sẽ được kết hiệp trọn vẹn với Thân thể Chúa Kitô, nhờ bí tích Thánh Thể". [30]

“Nhờ lời rao giảng và cử hành các bí tích, mà trung tâm và tuyệt đỉnh là Bí tích Thánh Thể, hoạt động truyền giáo làm cho Chúa Kitô, Đấng tác thành công trình cứu rỗi được hiện diện”. [31]

Thánh Thể là lương thực cho Giáo Hội lữ hành

“Chính vì vậy mà Chúa đã sai các môn đệ đi khắp thế gian rao giảng Phúc âm, để khi con người đã được tái sinh do Lời Thiên Chúa, được gia nhập Giáo Hội nhờ Phép Rửa, một Giáo Hội với tư cách là thân thể của Ngôi Lời nhập thể được nuôi dưỡng và sống động bằng Lời Chúa và bánh Thánh Thể”. [32]

Bí tích Thánh Thể hướng tới đại kết

Công đồng Vaticanô II mời gọi các tín hữu công giáo hãy nhìn vào truyền thống Đông phương, một truyền thống rất mộ mến Thánh Thể :

“Mọi người đều thấy hiển nhiên là các tín hữu Đông phương rất mộ mến cử hành Phụng vụ thánh, nhất là việc cử hành Bí tích Thánh Thể, nguồn sống của Giáo Hội và đảm bảo vinh quang đời sau, nhờ đó, các tín hữu hiệp nhất với giám mục được đến gần Thiên Chúa Cha, nhờ Chúa Con Ngôi Lời nhập thể đã chịu đau khổ và được hiển vinh, trong ân sủng tràn đầy của Chúa Thánh Thần, họ được cùng thông hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi rất thánh và ‘thông phần bản tính Thiên Chúa’ (2P 1,4). Vì vậy, nhờ việc cử hành Thánh Thể trong từng Giáo Hội ấy, Giáo Hội Thiên Chúa được xây dựng và phát triển, và sự hiệp thông giữa các Giáo Hội ấy tỏ rõ qua việc đồng tế”. [33]

Đối với các cộng đoàn giáo hội thuộc phong trào Cải Cách, Vaticanô II vẫn có cái nhìn tích cực về việc các cộng đoàn này tưởng niệm sự chết và sự sống lại của Chúa trong Tiệc thánh và ước mong Thánh Thể sẽ là đối tượng cho cuộc đối thoại đại kết :

“Những cộng đoàn Giáo Hội ly khai với chúng ta, mặc dù không hiệp nhất đầy đủ với chúng ta như Phép Rửa tội đòi hỏi, và mặc dù chúng ta tin họ không còn giữ được bản chất đích thực và nguyên vẹn của Mầu nhiệm Thánh Thể, chủ yếu là vì thiếu Bí tích Truyền chức thánh, nhưng khi tưởng niệm sự chết và sự sống lại của Chúa trong Tiệc Thánh, họ đã tuyên xưng rằng sự sống chỉ có nghĩa nhờ hiệp thông với Chúa Kitô và họ mong đợi ngày trở lại vinh quang của Người. Do đó, phải dùng giáo lý về Tiệc thánh của Chúa, về các Bí tích khác, về việc phượng tự cũng như về các chức vụ của Giáo Hội làm đối tượng cho cuộc đối thoại”. [34]

Chiều kích cánh chung của Thánh Th

Trong một kinh nguyện cổ, Giáo Hội ca tụng mầu nhiệm Thánh Thể như sau : "Ôi Tiệc Thánh, Đức Kitô đã trở thành lương thực cho chúng ta ; tiệc tưởng niệm cuộc khổ nạn của Người, ban cho ta hồng ân viên mãn và bảo chứng cho vinh quang mai sau".

Trong bữa Tiệc ly, Chúa hướng các môn đệ đến tiệc Vượt Qua viên mãn trong Nước Trời : "Thầy bảo cho anh em biết : từ nay, Thầy sẽ không còn uống rượu nho này nữa, cho đến ngày được cùng anh em uống thứ rượu mới trong Nước của Cha Thầy"(x. Mt 26,29 ; Lc 22,18 ; Mc 14,25). Mỗi lần cử hành bí tích Thánh Thể, Giáo Hội nhớ lại lời hứa này và hướng về Đấng đang đến. Trong kinh nguyện, Giáo Hội kêu cầu Người mau đến : "Maranatha" (1Cr 16,22), "Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến" (Kh 22,20), "Ước gì trần gian này mau qua đi và ân sủng Ngài đến" (x. Didaché 10,6).

Bí tích Thánh Thể là bảo chứng chắc chắn và là dấu chỉ tỏ tường về niềm hy vọng một Trời Mới Đất Mới, nơi đó công lý ngự trị (x. 2Pr 3,13). Mỗi khi cử hành mầu nhiệm này, "công trình cứu độ chúng ta sẽ được thực hiện". [35]

Trong Hiến chế mục vụ Vui mừng và Hy vọng, Công đồng đã nói đến chiều kích cánh chung của Bí tích Thánh Thể : bảo chứng cho niềm hy vọng, lương thực đi đường, bữa tiệc tiền dự vào Nước Trời :

“Chúa đã để lại cho những kẻ thuộc về Người bảo chứng niềm hy vọng và lương thực đi đường trong bí tích đức tin ; trong bí tích ấy, những yếu tố thế trần, kết quả của lao công con người được biến thành Mình và Máu vinh hiển, nên bữa ăn hiệp thông huynh đệ và nếm hưởng trước bữa tiệc trên trời”. [36]

Bí tích Thánh Thể vừa là lương thực cho đời sống đức tin và đức ái của người tín hữu, vừa là bảo chứng cho niềm hy vọng được thông phần vào sự phục sinh vinh hiển của Chúa Kitô :

“Người còn lấy chính Mình Máu Người nuôi họ, cho họ tham dự vào cuộc sống vinh hiển của Người”. [37]

Bí tích Thánh Thể còn đưa ta vào hiệp thông với Giáo Hội các thánh trên trời :

“Khi cử hành Hy tế tạ ơn, chúng ta kết hợp rất mật thiết với việc thờ phượng của Giáo Hội trên trời, vì hiệp cùng Giáo Hội, chúng ta kính nhớ trước hết Đức Maria vinh hiển, trọn đời đồng trinh, sau là thánh Giuse, các thánh tông đồ và tử đạo cùng toàn thể các thánh” (x. Sách Lễ Rôma, Lễ Quy)”. [38]

Phụng v

Phong trào canh tân Phụng vụ ao ước người tín hữu tham dự tích cực vào đời sống phượng tự của Giáo Hội. Phong trào này là nguồn cảm hứng cho công cuộc canh tân Phụng vụ của Vaticanô II. Cử hành Thánh Thể như thế nào để sinh ích lợi cho tín hữu đó là mối bận tâm căn bản của Vaticanô II. Cụ thể là phải duyệt lại Nghi thức Thánh Lễ :

“Vì vậy, để Hy tế Thánh Lễ, ngay cả nghi thức bên ngoài thu đạt được hiệu năng mục vụ trọn vẹn, Thánh Công Đồng quyết định những điều sau đây về Thánh Lễ cử hành có dân chúng tham dự, nhất là vào những ngày Chúa Nhật và các ngày lễ buộc” : [39]

1. Phải canh tân Nghi thức Thánh Lễ để biểu lộ rõ ràng hơn ý nghĩa riêng biệt của các phần cũng như mối tương quan của chúng, đồng thời để việc tham dự của tín hữu tích cực hơn ; [40]

2. Để bàn tiệc Lời Chúa được phong phú hơn cho các tín hữu, phải mở rộng kho tàng Thánh Kinh hơn, để trong một số năm ấn định đọc cho dân chúng nghe phần quan trọng của Thánh Kinh ; [41]

3. Bài giảng được coi như thành phần của chính Phụng vụ. Phải giảng trong các ngày Chúa nhật và lễ buộc có dân chúng tham dự ; [42]

4. Phải tái lập “Lời nguyện chung” hay “Lời nguyện tín hữu” nhất là vào những ngày Chúa nhật và lễ buộc ; [43]

5. Tiếng bản xứ được phép dùng trong những Thánh Lễ cử hành có đông giáo dân tham dự ; [44]

6. Rất đáng khuyến khích các tín hữu tham dự Thánh Lễ hoàn hảo hơn, bằng cách, sau khi linh mục rước lễ, họ cũng lãnh nhận Mình Chúa trong cùng một Hy lễ đó

Dù vẫn duy trì các nguyên tắc tin lý do Công đồng Triđentinô quy định, nhưng có thể cho rước lễ dưới hai hình ; [45]

7. Thánh lễ gồm hai phần : Phụng Vụ Lời Chúa và Phụng Vụ Thánh thể, được liên kết chặt chẽ đến nỗi chỉ tạo thành "một hành vi phụng thờ duy nhất". Do đó, Công đồng khuyến dụ các chủ chăn, trong khi dậy giáo lý, phải nhiệt thành dậy dỗ các tín hữu biết tham dự trọn vẹn Thánh Lễ, nhất là vào những ngày Chúa nhật và các ngày lễ buộc. [46]

Để hiểu được tầm quan trọng lớn lao của những quyết định trên đây liên quan đến việc cử hành Thánh Lễ, chúng ta nên đối chiếu những quyết định của Công đồng Vaticanô II với những quyết định của Công đồng Triđentinô.

Vào thời buổi khó khăn, khi đức tin công giáo về bản chất hy lễ của Thánh Lễ, về chức tư tế thừa tác, về sự hiện diện thực sự và liên tục của Đức Kitô dưới hình bánh và hình rượu gặp nguy hiểm, thì mối bận tâm đầu tiên của thánh Piô V, vị giáo hoàng công bố Sách Lễ Rôma năm 1570 là lo bảo tồn truyền thống còn mới, đang bị tấn công nhiều mặt, bằng cách thay đổi rất ít trong nghi thức thánh.

        Công Đồng Triđentinôâ đã nhận thấy ích lợi huấn giáo lớn lao trong việc cử hành Thánh Lễ, nhưng chưa rút ra được từ đó tất cả các hiệu quả thực tiễn. Thật vậy, có nhiều người đã xin Công Đồng cho phép dùng tiếng bản xứ khi cử hành Thánh Lễ. Nhưng trước lời thỉnh cầu này, Công Đồng đã xét tới hoàn cảnh đáng lưu tâm lúc đó, mà nghĩ rằng : nhiệm vụ của Công Đồng là nhấn mạnh một lần nữa đến giáo lý truyền thống của Hội Thánh : hy lễ Thánh Thể, trước hết, là hành động của chính Chúa Kitô, cho nên hiệu năng riêng của Thánh Lễ không bị ảnh hưởng do cung cách tham dự của tín hữu. Bởi đó, Công Đồng đã dùng những lời vừa mạnh mẽ vừa đắn đo như sau : “Mặc dầu Thánh Lễ có hàm chứa một nền giáo huấn phong phú cho giáo dân, nhưng các nghị phụ nhận thấy là cử hành Thánh Lễ khắp nơi bằng tiếng bản xứ, thì không có lợi”. [47]

Công Đồng đã lên án kẻ nào chủ trương rằng : “Phải lên án nghi lễ Hội Thánh Rôma dạy đọc nhỏ tiếng phần Lễ Quy và lời truyền phép ; hoặc, phải cử hành Thánh Lễ bằng tiếng bản xứ mà thôi”. [48]

 Tuy nhiên, một đàng Công Đồng cấm dùng tiếng bản xứ trong Thánh Lễ, một đàng lại truyền cho các mục tử phải dùng lời giáo huấn thích hợp để thay thế : “Để đoàn chiên Đức Kitô khỏi phải đói khát”. Công đồng truyền cho các mục tử và hết mọi người có trách nhiệm coi sóc các linh hồn phải hoặc tự mình, hoặc nhờ người khác, năng trình bày khi cử hành Thánh Lễ một vài điều trong những điều đọc trong Thánh Lễ, và trong số các mầu nhiệm, phải diễn giảng một vài điều về mầu nhiệm hy lễ rất thánh này, nhất là trong các Chúa Nhật và lễ trọng”. [49]

Trong khi đó, Công Đồng Vaticanô II được triệu tập để làm cho Giáo Hội thích nghi với các nhu cầu của nhiệm vụ tông đồ trong thời đại này, do đó Công Đồng nhìn nhận rằng : “Nhiều khi việc dùng tiếng bản xứ có thể rất hữu ích cho dân chúng”, và đã cho phép dùng tiếng bản xứ. [50]

Quyết định trên đây đã được khắp nơi nồng nhiệt đón nhận, vì nhờ đó, mầu nhiệm Thánh Lễ được am hiểu đầy đủ hơn.

Công Đồng Vaticanô II còn nhắn nhủ các chủ chăn phải diễn giảng trong các ngày Chúa Nhật và lễ trọng,và được phép xen ít lời nhắc bảo vào giữa các nghi lễ thánh.

Cũng với một tinh thần và nhiệt tâm mục vụ đó, Công Đồng Vaticanô II đã có một lý do mới, để có thể cân nhắc quyết định của Công Đồng Triđentinôâ về việc rước lễ dưới hai hình. Thật vậy, ngày nay, không còn ai nghi ngờ những nguyên tắc giáo lý về hiệu lực rất đầy đủ của việc rước lễ dưới một hình bánh, nên Công Đồng đã đôi khi cho phép được rước lễ dưới hai hì

Các tin khác

VIDEO

  Bài 2: HIỆP HÀNH: Hiệp Thông - Tham Gia - Sứ Vụ | Thường huấn linh mục GP Ban Mê Thuột 2023

  Bài 1: Tầm Nhìn Hoàn Vũ | Thường huấn linh mục GP Ban Mê Thuột 2023

  ĐỨC TIN | Tròn Đầy & Trong Sáng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh

  Mục Vụ Văn Hóa: DANH - LỢI - NGHĨA | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh

  Cử Hành Phụng Vụ | Gặp Gỡ Chúa Kitô - Loan Báo Tin Mừng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn văn Hinh

  Thần Học Mục Vụ & Công đồng Vatican II: Con người - Giáo hội - Môi trường

  Hiệp Hành Hội Ý Dựng lại Mùa Xuân | Người Giáo dân Thiên niên kỷ mới

  Bài 4: Văn Hóa Tổ Chức - Đời Sống Cá Nhân

  Hiệp Hành Kín Đáo và Minh Bạch

  Văn Hóa Tổ Chức - Tổ Chức Cộng Đồng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh (Phần 3)

  Tìm hiểu về văn hóa (Phần 2) - Lm Gioan Kim Nguyễn Văn Hinh

  Tìm hiểu về văn hóa (Phần 1) - Lm Gioan Kim Nguyễn Văn Hinh

  TRỰC TUYẾN BÀI 29: MỤC VỤ THÁNH THIỆN THUẬN THEO

  TRỰC TUYẾN BÀI 28 : MỤC VỤ TÍCH HỢP VĂN HÓA ĐÔNG TÂY

  TRỰC TUYẾN BÀI 27 : MỤC VỤ LỜI CHÚA NGÀY NAY

  TRỰC TUYẾN BÀI : TÌM HIỂU VỀ VĂN HÓA VÀ BẢN SẮC VĂN HÓA VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 26: MỤC VỤ ĐẠO ĐỨC KINH TẾ DỊCH VỤ

  TRỰC TUYẾN BÀI 25: MỤC VỤ TUẦN THÁNH UY VÀ ĐỨC

  TRỰC TUYẾN BÀI 24: MỤC VỤ GIA TÀI CỦA MẸ

  TRỰC TUYẾN BÀI 23: MỤC VỤ BỔ VÀ TẢ

  mvgd20162016

  TRỰC TUYẾN BÀI 21: MỤC VỤ LUẬT CÂN BẰNG

  TRỰC TUYẾN BÀI 20: TRUY TÌM MÃNH LỰC

  TRỰC TUYẾN BÀI 19: THẾ GIỚI HÔM NAY CẦN NHỮNG NGƯỜI CHA NHÂN HẬU LÝ TƯỞNG VÀ THỰC TIỄN

  TRỰC TUYẾN BÀI 18: NĂM THÁNH THÁNH CẢ GIUSE LÃNH ĐẠO VÀ NIỀM TIN

  TRỰC TUYẾN BÀI 17: MỪNG XUÂN TÂN SỬU 2021 - LÒNG BIẾT ƠN TIN VUI ĐẠO ĐỨC VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 17: MỪNG XUÂN TÂN SỬU 2021 - LÒNG BIẾT ƠN TIN VUI ĐẠO ĐỨC VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 16: ĐỀ TÀI ĐIỂM TỰA

  TRỰC TUYẾN BÀI 14: VĂN HÓA KHÔNG NHẬN SAI NHƯNG SỬA SAI

  TRỰC TUYẾN BÀI 13: VUN TRỒNG NỀN VĂN HÓA “TÂM LINH – KHOA HỌC”

  TRỰC TUYẾN BÀI 12: NĂM MỚI 2021 XÂY DỰNG NỀN VĂN MINH TÂM LINH & KHOA HỌC

  TRỰC TUYẾN BÀI 11: GIÁNG SINH 2020 - LÀM NGƯỜi - GIÊSU

  TRỰC TUYẾN BÀI 10: PHÍA ĐẰNG SAU TÂM LINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 9: ĐỂ CÓ CHÚA THÁNH THẦN

  TRỰC TUYẾN BÀI 8: LOAN BÁO TIN MỪNG

  TRỰC TUYẾN BÀI 7: PHÒNG ĐÀO LUYỆN TÂM LINH CỦA TÍN HỮU DÂN CHÚA

  TRỰC TUYẾN BÀI 6: ĐÀO LUYỆN TÍN HỮU DÂN CHÚA

  TRỰC TUYẾN BÀI 5: TẦM NHÌN THIÊN NIÊN KỶ MỚI

  TRỰC TUYẾN BÀI 4: ĐÀO LUYỆN TÂM LINH BẮT ĐẦU TỪ THÁNH THỂ HAY THÁNH KINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 3: PHƯƠNG THỨC CẦU NGUYỆN CẢM NGHIỆM- SỐNG THÁNH GIỮA ĐỜI

  TRỰC TUYẾN: BÀI 2: GIẢI THÍCH ĐÀO LUYỆN TÂM LINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 1: ĐÀO LUYỆN TÂM LINH

  TintucVatican

  Thánh Lễ Tuyên Thánh Jacinta và Francisco Marto

  Muối và ánh sáng

  Thế Giới Nhìn Từ Vatican

  Nghi thức đóng Cửa Thánh

  Xin Mẹ Thương

  Thế Giới Nhìn Từ Vatican

  Suy Niệm với Đức Thánh Cha Phanxicô

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__3

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__1

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__2

  Thường huấn HĐMVGX Ban Mê Thuật

  Quốc tế thiếu nhi 01-6-2014

  Thể dục Dưỡng Sinh

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  CƠM TRƯA TRUNG THU 2013

  Thi đấu thăng cấp sơ đẳng Vovinam

  Khai mạc kỳ thi thăng cấp Vovinam

  Vovinam

  Đào luyện tâm linh

  Nghệ thuật cân bằng

  Đào Luyện Tinh Thần

  Đào Luyện Thể Chất

Bài viết mới
BÀI GIẢNG ĐỨC THÁNH CHA - CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN NĂM B
BÀI GIẢNG ĐỨC THÁNH CHA - CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN NĂM B.
ỦY BAN GIÁO DÂN - THƯỜNG HUẤN THÁNG 07/2024: TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN - MUỐI VÀ ÁNH SÁNG CHO THẾ GIỚI avatar Ủy ban Giáo dân 01/07/2024 Giáo hội là Dân Thiên Chúa, nơi mỗi người tín hữu, dù là giáo sĩ hay giáo dân, đều đóng góp vai trò không thể thiếu trong sứ mạng loan báo Tin Mừng. Chủ đề “Tông đồ giáo dân: Muối và ánh sáng cho thế giới” tập trung vào việc khai triển và cổ võ vai trò của giáo dân trong việc trở thành muối ướp mặn đời và ánh sáng soi sáng trần gian. Ủy ban Giáo dân Hội đồng Giám mục Việt Nam THƯỜNG HUẤN THÁNG 07/2024: TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN: MUỐI VÀ ÁNH SÁNG CHO THẾ GIỚI BÀI 1: HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN DỰA TRÊN LỜI CHÚA - Phanxicô Xaviê Nguyễn Thái BÀI 2: SỐNG TIN MỪNG TRONG ĐỜI THƯỜNG – Lm. Antôn Hà Văn Minh BÀI 3: BIẾN ĐỔI THẾ GIỚI TỪ BÊN TRONG - Lm. Tôma Vũ Ngọc Tín, S.J. BÀI 4: LÒNG CAN ĐẢM VÀ SỰ KHÔN NGOAN KHI DẤN THÂN VÀO ĐỜI SỐNG TRẦN THẾ - Lm. Tôma Vũ Ngọc Tín, S.J. BÀI 1: HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN DỰA TRÊN LỜI CHÚA - Phanxicô Xaviê Nguyễn Thái “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. “Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá. Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành” (Mt 7, 21.24 – 27). Đọc đoạn Tin Mừng trên cho chúng ta thấy: sống Tin Mừng trong đời thường là một hành trình đức tin mà qua đó, người Kitô hữu áp dụng lời dạy của Chúa Giêsu vào cuộc sống hàng ngày. Yêu Chúa không chỉ là tham dự các thánh lễ, các giờ kinh, mà phải thi hành ý muốn của Chúa Cha qua việc lãnh nhận các bí tích thường xuyên và qua cách chúng ta tương tác với mọi người xung quanh, cách chúng ta hành xử với thử thách và cách thực hiện các quyết định. Dưới đây là một số suy tư của giáo dân và một số cách để sống Tin Mừng trong đời thường: 1. Suy niệm và cầu nguyện với Lời Chúa: chúng ta không thể kết hiệp mật thiết với Chúa mà không cầu nguyện với Ngài. Việc dành thời gian mỗi ngày để suy niệm và cầu nguyện với Lời Chúa giúp nuôi dưỡng tâm hồn chúng ta ngày càng trở nên thánh thiện hơn, yêu Chúa nhiều hơn và được Chúa hướng dẫn hành động. 2. Yêu thương tha nhân là yếu tố quan trọng khi ta sống theo Tin Mừng. Yêu thương mọi người xung quanh mình, cho dù họ là ai, tôn giáo nào, giàu hay nghèo. “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” ( Ga 15, 12 ). Điều này áp dụng qua việc giúp đỡ những người nghèo khó, an ủi những người đang gặp khó khăn, và chia sẻ cho cộng đồng đang cần đến tình thương của mình. 3. Hiền lành và khiêm nhường: là ứng xử một cách nhẹ nhàng, không gây ra xung đột, luôn lắng nghe và tôn trọng ý kiến của người khác, và tìm cách giải quyết mọi vấn đề một cách dịu dàng và an bình. Tuy nhiên, hiền lành và khiêm nhường không đồng nghĩa với sự yếu đuối, mà chính là một cách để thể hiện sự mạnh mẽ và tự tin của bản thân thông qua sự kiểm soát cảm xúc và nhận thức. 4. Sống công bằng và bác ái: cố gắng sống công bằng với mọi người, không phân biệt đối xử, không chỉ dựa trên sự thỏa thuận mà dựa trên giá trị cốt lõi là phẩm giá con người, và thực hiện các hành động bác ái, như viếng thăm người đau yếu, quyên góp cho từ thiện, chia sẻ Chúa cho anh em, tham gia phục vụ cộng đồng dân Chúa cũng như cộng đồng xã hội. 5. Kiên nhẫn tha thứ: sống theo Tin Mừng đòi hỏi lòng kiên nhẫn và sẵn lòng tha thứ, dù trong những hoàn cảnh khó khăn nhất. Tha thứ đến cùng, tha thứ không giới hạn cho những lỗi lầm của người khác. Lý do chính mà chúng ta làm là vì Chúa đã tha thứ cho mỗi người chúng ta. 6. Chia sẻ niềm vui: sống vui tươi, dịu dàng với mọi người qua lối sống khó nghèo, tìm kiếm sự hài lòng, phấn khởi trong những điều giản dị và ý nghĩa của cuộc sống. 7. Sống Tin Mừng trong đời thường là chúng ta làm chứng về một Đức Giêsu con Thiên Chúa đã xuống trần gian, chịu chết và sống lại cho chúng ta được sống và được sống lại. Chứng nhân không chỉ trong một giai đoạn của cuộc sống nhưng là một đời Kitô hữu được kết hiệp với Chúa, bằng nguồn sống của Chúa. Qua hành động và lời nói hàng ngày, qua cách sống và tương tác với tha nhân làm sao bày tỏ được tình yêu và lòng thương xót của Chúa. Những suy tư Sống Tin Mừng trong đời thường không chỉ là làm một số việc đạo mà là cách sống thánh thiện và yêu thương mọi người xung quanh. Mỗi người cần gìn giữ và phát triển niềm tin của mình để sống đúng lý tưởng và hạnh phúc theo tinh thần của Tin Mừng. Sống Tin Mừng trong đời thường không phải lúc nào cũng dễ dàng, mỗi người giáo dân có cách sống Tin Mừng trong cuộc sống của họ một cách khác nhau. Nhiều giáo dân chưa mở lòng nên không nhận được ơn Chúa. Họ sống khép kín, không tham gia vào giáo xứ hoặc nếu có cũng chỉ là hình thức. Có những người không biết về Tin Mừng hoặc có biết qua loa thì cũng chưa áp dụng Tin Mừng vào cuộc sống, có khi còn không dám cho người khác biết mình là người Công Giáo, không dám sống đức tin của mình. Những người giáo dân khác sống theo lời dạy của Chúa Giêsu và thực hành lòng nhân từ, yêu thương và tha thứ. Trong khi một số khác có thể gặp khó khăn trong việc áp dụng những giá trị đạo đức từ Tin Mừng vào cuộc sống hàng ngày. Tuy nhiên, quan trọng nhất là họ luôn cố gắng học hỏi và phát triển trong đức tin của mình để trở thành những người sống theo Tin Mừng mẫu mực. Được như thế là giáo dân cũng đang tham gia vào đời sống của Giáo Hội, dần dần góp phần xây dựng một Giáo Hội hiệp hành và một thế giới tốt đẹp hơn. Hồi Tâm 1/ Làm cách nào giúp mọi người Công Giáo, hay ít nhất là những người đi lễ mỗi tuần có thể học, suy niệm và cầu nguyện với Tin Mừng? Nếu đang làm việc trong Hội đồng mục vụ giáo xứ hay trong các Hội đoàn Công giáo tiến hành, bạn sẽ làm gì? 2/ Chứng nhân Tin Mừng trong đời thường là phương cách hữu hiệu giúp người khác dễ dàng sống theo gương, bạn có thể chia sẻ chứng nhân trong những buổi họp, hay những lúc riêng tư cho những người chung quanh không? 3/ Trong đời thường, bạn làm gì để bày tỏ lòng yêu mến Chúa qua tha nhân? BÀI 2: SỐNG TIN MỪNG TRONG ĐỜI THƯỜNG – Lm. Antôn Hà Văn Minh Qua Bí tích Rửa tội, người tín hữu được dự phần vào sứ vụ của Chúa Giêsu. Sứ vụ đó chính làm cho mọi người nhận biết ơn cứu độ của Thiên Chúa Cha tỏ bày cho nhân loại qua Đức Giêsu Kitô. Thi hành sứ vụ chính là sống Tin Mừng giữa lòng thế giới, cụ thể trong cuộc sống thường ngày của mỗi tín hữu. Công Đồng nói về cảnh sống trần thế của giáo dân bằng cách trình bày cảnh sống ấy, trước tiên, như là môi trường trong đó họ được Thiên Chúa mời gọi: “Đó là nơi Thiên Chúa gọi họ” (LG số 31). Và thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã giải nghĩa: “nơi” được trình bày bằng những hạn từ có tính cách năng động: giáo dân sống giữa trần gian, nghĩa là dấn thân vào tất cả cũng như từng công việc và bổn phận của trần thế, giữa những cảnh sống thường ngày trong gia đình và ngoài xã hội, tất cả những điều đó như dệt thành cuộc sống của họ. Đó là những con người có một đời sống bình thường trong trần gian, học hỏi, làm việc, thiết lập những tương quan bạn bè, xã hội, nghề nghiệp, văn hóa”[1]. Sống Tin Mừng là gì? Trích dẫn Lời Chúa: “Chính anh em là muối cho đời… là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,13–14), Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã trình bày: “Lời mời gọi của Chúa Giêsu chính là sứ mạng của người tín hữu sống trong thế giới này. Người Kitô hữu không coi thế gian là địa ngục, là nơi giam cầm của những nỗi thống khổ, cũng như không coi thế gian là hạnh phúc vĩnh cửu cho cuộc đời mình, nhưng là nơi để Thiên Chúa tỏ lộ tình yêu của Ngài qua sự cộng tác của con người, và là nơi để con người được thực thi ơn gọi và sứ mạng Kitô hữu của mình trong một tình yêu dấn thân và thánh hóa thế giới: Tham dự vào lãnh vực trần thế, là phận vụ phát xuất từ bản tính nội tại và sứ mạng của mình”[2]. Vì thế, sống Tin Mừng chính là huấn luyện bản thân nhuần thấm Tin Mừng để có thể thực thi ơn gọi của mình cách trọn hảo. Thiên Chúa muốn người tín hữu trở thành muối, thành ánh sáng cho thế giới bằng chính đời sống Tin Mừng của mình, hay nói cách khác người tín hữu dấn thân phục vụ để trần gian nhận biết tình yêu của Ngài dành cho nhân loại, một tình yêu trọng đại đã được thánh Gioan diễn tả: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời” (Ga 3, 16). Nhưng để có thể sống Tin Mừng, dấn thân phục vụ cho Tin Mừng, đòi hỏi người tín hữu phải là người thấm đẫm Tin Mừng. Chỉ là men Tin Mừng khi người hữu phải đầy “chất” Tin Mừng. Vì thế, sống Tin Mừng trước tiên phải kết hợp mật thiết với Đức Kitô, vì Ngài chính là Tin Mừng. Vì thế, cuộc gặp gỡ với Tin Mừng là nền tảng cho việc sống Tin Mừng. Điều đó được thực hiện trước tiên chính là cuộc gặp gỡ Lời qua Kinh Thánh. Công đồng Vatican II trong hiến chế Mạc khải đã minh định: Chúa Cha muốn gặp gỡ con cái mình và ngỏ lời với họ qua Sách Thánh. Như vậy, tiếp cận với Lời Chúa, đọc Thánh Kinh là đi vào một cuộc gặp gỡ, tham gia một cuộc đối thoại với Thiên Chúa[3]. Quả thật việc đọc Thánh Kinh là cách thế tuyệt hảo để có được cuộc đối thoại với Thiên Chúa, vì “chúng ta ngỏ lời với Ngài khi cầu nguyện, và chúng ta nghe Ngài nói lúc chúng ta đọc các sấm ngôn thần linh”[4]. Trong Tông Thư “Khởi Đầu Ngàn Thứ Ba”, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II viết: “Lời Chúa phải trở nên một sự gặp gỡ ban sự sống, theo truyền thống xa xưa và luôn vững chắc về việc đọc Sách Thánh, cho phép rút ra từ bản văn Thánh Kinh Lời Hằng Sống, là lời chất vấn, hướng dẫn và hình thành cuộc sống chúng ta” (số 39)[5]. Người tín hữu chỉ có thể là men Tin Mừng, khi đời sống được đặt trên nền tảng Lời Chúa, không thường xuyên cầu nguyện với Lời Chúa không thể nào hoán cải cuộc đời để có thể làm cho đời mình trở thành men Tin Mừng. Dựa vào hoạt động của Giáo Hội tiên khởi được tường thuật trong sách Tông đồ công vụ, Đức Thánh cha Phanxicô nói: “Chúng ta khám phá động cơ mạnh mẽ của việc loan báo Tin Mừng chính là những buổi quy tụ cầu nguyện, nơi những người tham gia cảm nghiệm cách sống động sự hiện diện của Chúa Giêsu và được Chúa Thánh Thần đánh động. ...Lời cầu nguyện truyền lan ánh sáng và sự hăng hái: ân sủng của Chúa Thánh Thần làm nảy sinh trong lòng họ sự nhiệt thành”[6]. Dĩ nhiên việc tiếp cận Lời Chúa phải gắn chặt với Thánh Thể. Đức Thánh cha Phanxicô đã nói mạnh mẽ: Chỉ trong sự tôn sùng Thánh Thể, chỉ trước mặt Chúa, hương vị và sự say mê truyền giáo mới có thể được phục hồi. Lòng tôn sùng Thánh Thể là động lực giúp cho chúng ta vượt thắng những phong ba bão táp của cuộc đời, đặc biệt đó là nguồn khích lệ cho những người hết lòng chia sẻ Tin Mừng, chính vì trong Bí tích Thánh Thể, “chúng ta gặp gỡ Đấng đã ban mọi sự cho chúng ta” và đến lượt mình, chúng ta trở nên có khả năng chia sẻ tình yêu đó với người khác[7]. Để có thể sống Tin Mừng hầu trở thành men của Tin Mừng, chúng ta cần phải liên kết chặt chẽ với Chúa Kitô qua Lời Chúa, Thánh Thể và cầu nguyện và sống tình huynh đê. Bốn yếu tố: Lời Chúa, tìm kiếm tình hiệp thông huynh đệ, Thánh Thể và cầu nguyện, theo Đức Thánh Cha Phanxicô, chính là tiêu chuẩn để phân định một sự việc. Bất cứ trường hợp nào thiếu những yếu tố này điều thiếu tính Giáo hội, không phải của Giáo hội, yếu tố quan trọng để chứng thực chúng ta thực sự là Men của Tin Mừng.[8] Sống Tin Mừng giữa đời thường Nhìn vào thực tế, trăn trở lớn của Giáo Hội Việt Nam là vấn đề Loan Báo Tin Mừng. Thật vậy, con số tín hữu Việt Nam đến nhà thờ dâng lễ mỗi Chúa Nhật có thể nói cho đến lúc này vẫn đáng tự hào, thế nhưng niềm tự hào này có thực sự là niềm vui đích thực không? Bởi nhìn vào cánh đồng truyền giáo mỗi địa phương vẫn còn ngổn ngang, vẫn còn có qua nhiều người chưa được tiếp cận với Tin Mừng, vẫn còn đó nhưng lương dân là hàng xóm của các gia đình Công giáo, nhưng họ chẳng nghe nói về Chúa Giêsu, không một lần tiếp cận được với Tin Mừng. Câu trả lời được tìm thầy nơi lối sống của người tín hữu Công giáo. Là men Tin Mừng, nhưng họ lại không thể hiện lối sống Tin Mừng ngay trong môi trường mình sinh sống. Họ tách rời đức tin và cuộc sống thường ngày, họ đóng khung lối sống Tin Mừng trong nhà thờ, họ không làm cho men Tin Mừng được dậy lên trong người môi trường mình sống. Cha mẹ vẫn đi dâng lễ ngày Chúa nhật, nhưng chưa một lần hướng dẫn con cái về đời sống đức tin. Người tín hữu vẫn thường xuyên gặp gỡ bạn bè là lương dân, nhưng chưa một lần họ nghe về Chúa Giêsu, nhiều khi còn tệ hơn, để làm vui lòng bạn bè lương dân, người Công Giáo sẵn sàng bỏ đi lễ Chúa nhật; ngoài phố chợ, những chủ cửa hàng Công Giáo vẫn ngần ngại thể hiện lối sống Tin Mừng để giữ đức công bình và đức yêu thương... Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhấn mạnh: “Người tín hữu không được mời gọi rời bỏ vị thế họ đang sống nơi trần gian. Thực vậy, Bí tích Thánh Tẩy không kéo họ ra khỏi trần gian, như thánh Phaolô đã nhấn mạnh: ‘Thưa anh em, khi được kêu gọi ở địa vị nào, mỗi người cứ ở địa vị đó trước mặt Thiên Chúa’ (1 Cr 7,24); trái lại, Ngài trao cho họ một ơn gọi có liên hệ đích thực với tình huống của họ trong trần gian: thực vậy, giáo dân được ‘Thiên Chúa kêu gọi để, dưới sự hướng dẫn của tinh thần phúc âm, như men từ bên trong, họ thánh hóa thế giới bằng việc thi hành những nhiệm vụ của mình; và như thế, với lòng tin cậy mến sáng ngời, nhất là với chứng tá đời sống, họ tỏ lộ Chúa Kitô cho kẻ khác’ (Tông huấn Người Tín hữu Giáo dân, số 15) Cha Mến kể câu chuyện: Chứng nhân trong đời thường như sau: Nhà giáo dục vĩ đại Booker T. Washington có viết như sau trong cuốn tự thuật mang tựa đề: “Từ ách nô lệ đi lên” của ông: “Càng lớn tôi càng tin chắc rằng, không một sự giáo dục nào có thể gặt hái được từ sách vở, hay từ những dụng cụ đắt tiền, mà có thể sánh ví được với những gì ta có thể gặt hái được, do tiếp xúc với các bậc vĩ nhân”. Cách đây ít lâu, một phụ nữ Ấn độ giáo đã trở lại Công giáo, sau một thời gian nghe rao giảng Lời Chúa. Bà chịu nhiều gièm pha, đay nghiến từ người chồng và bao người thân, do việc bà trở lại đạo. Có lần cha xứ hỏi bà: “Khi chồng con nổi giận và hành hạ con, thì con làm gì”? Bà đáp: “Thưa Cha, con cố gắng nấu ăn ngon hơn. Khi ông than trách, con lau chùi nhà sạch hơn. Khi ông ăn nói cộc cằn, con trả lời ôn tồn nhỏ nhẹ. Con cố gắng để chứng tỏ cho ông ta thấy: Khi con trở lại đạo Chúa, con phải là người vợ và người mẹ tốt hơn”. Một thời gian sau, chính ông chồng cũng xin trở lại đạo Công giáo, không phải vì lời giảng của cha xứ, cho bằng chính nhờ gương sáng sống đạo của bà vợ đạo đức của ông.[9] Sắp tới đây Đức Thánh cha Phanxicô sẽ phong thánh cho chân phước Carlo Arcutis, một vị thánh trẻ, được gọi vị thánh thuộc thế hệ Y. Thánh nhân có gì đặc biệt? Không có gì đặc biệt ngoài việc ngài sống Tin Mừng giữa đời thường. Đức hồng y Vallini trong bài giảng lễ phong chân phước đã nói về Carlo Arcutis như sau: Carlo có lòng yêu mến Thánh Thể và gắn bó với Thánh Thể cách đặc biệt. Chúa Giêsu là Bạn, là Thầy, là Đấng Cứu Độ và là sức mạnh cho cuộc sống của Acutis và là động lực của mọi việc cậu làm. Từ đó, Carlo mong muốn mãnh liệt đưa người khác đến với Chúa và cậu làm điều này trên hết bằng gương mẫu cuộc sống. Carlo dùng mọi cách, cả cách thức hiện đại, với tài năng về tin học Chúa ban, để gặp gỡ và loan truyền các giá trị Kitô giáo cho người khác[10]. BÀI 3: BIẾN ĐỔI THẾ GIỚI TỪ BÊN TRONG - Lm. Tôma Vũ Ngọc Tín, S.J. Đời sống Kitô hữu giữa lòng trần thế như những hạt muối tinh tế thấm vào lòng đời, lặng lẽ làm biến đổi thế giới, như men trong bột làm dậy lên cả khối bột. Hành trình hy vọng nhưng cũng đầy thách đố này đòi hỏi sự biến đổi sâu sắc từ bên trong tâm hồn và đời sống mỗi người tín hữu. Khi mỗi người thay đổi từ nội tâm, họ trở thành ánh sáng lan tỏa, chiếu rọi khắp nơi, góp phần biến đổi thế giới bằng chính đời sống đức tin của mình. Theo Sắc Lệnh về Tông Đồ Giáo Dân, linh đạo tông đồ giáo dân không chỉ là sống đức tin một cách cá vị, mà còn là tham gia tích cực vào sứ mạng của Giáo Hội. Giáo dân được mời gọi trở thành những tông đồ giữa đời, mang Tin Mừng đến mọi nơi (Apostolicam Actuositatem-AA, 4). Linh đạo này giúp mỗi người giáo dân nhận ra rằng, họ có một vai trò đặc biệt trong việc xây dựng Nước Trời nơi trần thế, không chỉ qua lời nói mà còn qua hành động cụ thể trong cuộc sống thường ngày: “Bản chất riêng biệt của người giáo dân là sống giữa đời và làm việc đời nên chính họ được Thiên Chúa mời gọi để một khi tràn đầy tinh thần Kitô giáo, họ làm việc tông đồ giữa đời như men trong bột” (AA 2). Sống linh đạo tông đồ giáo dân như thế, trước hết người giáo dân gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu qua Lời Chúa và Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể là tâm điểm đời sống người tín hữu, nuôi dưỡng mỗi người trong hành trình Kitô hữu giữa đời, giúp mỗi người kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu và dấn thân phục vụ sứ mạng của Người: “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu, đó không chỉ là lời mời gọi, mà còn là một yêu cầu thiết yếu, để mỗi Kitô hữu có thể sống đức tin và thực thi sứ mạng của mình. Tham dự Thánh lễ, cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa,… là những phương thế giúp giáo dân nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của mình. Cầu nguyện giúp người giáo dân sống tình thân mật thiết với Chúa, trong khi suy niệm Lời Chúa giúp họ hiểu rõ hơn về ý nghĩa và sứ mạng của mình như được Chúa mời gọi. Kết hiệp với Chúa Giêsu qua Thánh Thể và Lời Chúa là những phương thế sống động để mỗi người trở nên men trong bột, biến đổi thế giới từ bên trong. Từ đời sống gắn kết với Chúa Giêsu, người giáo dân sống đức tin của mình qua những hành động cụ thể trong gia đình, nơi làm việc, và cộng đồng. Điều này có thể bao gồm việc tham gia vào các hoạt động xã hội, hỗ trợ người nghèo, bảo vệ môi trường, và tham gia vào các phong trào xã hội nhằm thúc đẩy công lý và hòa bình. Ý nghĩa của việc trở thành men trong bột là mỗi Kitô hữu đều có thể đóng góp một phần nhỏ nhưng quan trọng vào việc biến đổi thế giới xung quanh. Điều này đòi hỏi mỗi người phải sống đời sống đức tin một cách chân thật và nhiệt thành. Tình yêu và công lý là hai yếu tố không thể thiếu trong linh đạo giáo dân. Mỗi giáo dân được mời gọi sống yêu thương qua những hành động cụ thể, đồng thời nỗ lực thực thi công lý và xây dựng hòa bình. Các hoạt động xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc thực hành tông đồ giáo dân. Tham gia vào các hoạt động này không chỉ giúp mỗi người thực thi sứ mạng truyền giáo, mà còn góp phần xây dựng một xã hội công bằng và yêu thương hơn. Sau cùng, qua đời sống đức tin và dấn thân tông đồ, mỗi người góp phần xây dựng và phát triển cộng đoàn giáo xứ. Qua việc tham gia tích cực vào đời sống giáo xứ, giáo dân không chỉ đóng góp vào sự phát triển của cộng đoàn mà còn tạo ra một môi trường yêu thương và hiệp nhất. Một cộng đoàn yêu thương sẽ là nền tảng vững chắc để mỗi giáo dân có thể thực thi sứ mạng truyền giáo của mình một cách hiệu quả. Tóm lại, hành trình Kitô hữu giữa lòng trần thế là trở thành muối và men, âm thầm, trung kiên, nhẫn nại thấm vào mọi ngóc ngách của cuộc sống, làm biến đổi thế giới từ nội tại. Sống đức tin trong đời thường, thể hiện qua những hành động cụ thể trong gia đình, nơi làm việc và cộng đồng, là cách mỗi Kitô hữu trở thành men trong bột, biến đổi thế giới bằng tình yêu và công lý. Kết hiệp với Chúa qua cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa, cùng tham gia vào các hoạt động xã hội, là nền tảng để mỗi giáo dân góp phần xây dựng một xã hội công bằng và yêu thương, biến đổi thế giới từ bên trong. Hồi tâm 1/ Nhìn lại kinh nghiệm sống đạo, tôi thấy mình trở nên ánh sáng và muối và men trong môi trường sống như thế nào? Tôi có thể làm gì để thẩm thấu và lan tỏa tinh thần Kitô giáo trong gia đình, nơi làm việc, và cộng đồng của mình? 2/ Tôi cảm nghiệm thế nào về ơn gọi và sứ mạng Kitô hữu khi cầu nguyện và suy niệm lời Chúa? Làm thế nào tôi có thể biến những cảm nghĩ thiêng liêng ấy thành hành động cụ thể để xây dựng Nước Trời ngay cuộc sống đời thường của tôi? 3/ Khi đối diện với những thách thức trong cuộc sống và xã hội, tôi trải nghiệm thế nào về tình yêu và công lý như men trong bột, làm dậy lên sự thay đổi tích cực? Tôi có sẵn sàng dấn thân hơn nữa để trở thành người tông đồ truyền giáo giữa đời, lan toả tình yêu và công lý trong môi trường sống thường ngày? BÀI 4: LÒNG CAN ĐẢM VÀ SỰ KHÔN NGOAN KHI DẤN THÂN VÀO ĐỜI SỐNG TRẦN THẾ - Lm. Tôma Vũ Ngọc Tín, S.J. Lòng can đảm và sự khôn ngoan là hai phẩm chất quan trọng mà mỗi Kitô hữu cần có để sống và làm chứng cho đức tin trong đời sống trần thế. Lòng can đảm giúp chúng ta vượt qua những thử thách và khó khăn, dám đứng lên bảo vệ sự thật và công lý. Sự khôn ngoan, hướng dẫn chúng ta hành động một cách sáng suốt, biết phân định phải trái, đúng sai và chọn lựa đường hướng đẹp lòng Chúa. Trong một thế giới đầy biến động và thách thức, lòng can đảm và sự khôn ngoan trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Đối với giáo dân, hai phẩm chất này không chỉ giúp họ sống đức tin một cách mạnh mẽ và vững vàng mà còn đóng góp tích cực vào việc xây dựng một xã hội công bằng và nhân ái hơn. Lòng can đảm là một chủ đề được nhắc đến nhiều trong Kinh Thánh: “Mạnh bạo lên, can đảm lên! Đó chẳng phải là lệnh Ta đã truyền cho ngươi sao? Đừng run khiếp, đừng sợ hãi, vì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, sẽ ở với ngươi bất cứ nơi nào ngươi đi tới” (Gs 1,9). Lời khích lệ này không chỉ dành cho Thủ lãnh Giôsuê mà còn dành cho tất cả chúng ta, những người đang sống và làm chứng cho đức tin. Lòng can đảm giúp chúng ta đứng vững trước những thử thách, bảo vệ niềm tin và dám sống theo những giá trị Tin Mừng trong một thế giới đầy cám dỗ, bạo loạn và bất công. Sự khôn ngoan cũng là một đức tính quan trọng được Kinh Thánh đề cao: “Nếu ai trong anh em thiếu đức khôn ngoan, thì hãy cầu xin Thiên Chúa, Người sẽ ban cho. Vì Thiên Chúa ban cho mọi người cách rộng rãi, không quở trách” (Gc 1,5). Sự khôn ngoan giúp chúng ta biết phân định đúng sai, tốt xấu, lựa chọn đường hướng đẹp lòng Chúa và hành động một cách sáng suốt trong mọi hoàn cảnh. Nó không chỉ là tri thức mà còn là khả năng ứng dụng tri thức đó vào cuộc sống một cách đúng đắn và hiệu quả tốt đẹp. Mỗi người vẫn thường đối diện với những thách đố và nghịch cảnh trong đời sống. Điều quan trọng là cách chúng ta đối diện và vượt qua chúng. Cuộc sống trần thế có muôn vàn cảnh huống mà ở đó, người giáo dân thể hiện lòng can đảm và sự khôn ngoan khi luôn tin cậy Chúa và đối diện khó khăn, chẳng hạn như việc bảo vệ sự thật và công lý trong môi trường làm việc, nơi có thể gặp phải những áp lực và cám dỗ. Lòng can đảm giúp chúng ta không lùi bước, trong khi sự khôn ngoan giúp chúng ta chọn lựa cách hành động phù hợp và hiệu quả. Đời sống đức tin không dừng ở việc tham dự các cử hành phục vụ mà còn sống theo những giá trị Kitô giáo trong đời sống thường ngày. Giáo dân có thể thể hiện lòng can đảm và sự khôn ngoan bằng cách làm gương sáng trong môi trường làm việc, trong gia đình, và trong cộng đồng. Những hành động cụ thể như giúp đỡ người khó khăn, bảo vệ môi trường, và tham gia vào các hoạt động từ thiện đều là những cách thể hiện đức tin một cách sống động và thực tế. Trong nhiều hoàn cảnh, lòng can đảm và sự khôn ngoan của người giáo dân có thể thể hiện trong vai trò lãnh đạo cộng đồng. Trong hoàn cảnh đó, lòng can đảm và sự khôn ngoan không chỉ giúp giáo dân đối mặt với những thách thức mà còn giúp họ hành động một cách sáng suốt và hiệu quả. Sau cùng, giáo dục con cái về lòng can đảm và sự khôn ngoan là một nhiệm vụ quan trọng của các bậc cha mẹ Công Giáo. Giáo dân có thể giúp con cái hiểu và thực hành hai phẩm chất này qua gương sáng trò chuyện thường ngày trước những vấn đề thực tế trong đời sống, giúp con cái phát triển lòng can đảm và sự khôn ngoan trong cuộc sống. Tóm lại, lòng can đảm và sự khôn ngoan là những phẩm chất không thể thiếu để mỗi Kitô hữu sống đức tin trong đời sống trần thế. Những phẩm chất này hằng giúp chúng ta vượt qua thử thách, bảo vệ sự thật và công lý, và hành động minh bạch, tư duy độc lập sáng suốt, mang lại ích lợi chính đáng cho bản thân và cộng đồng. Trong một thế giới đầy biến động, giáo dân cần lòng can đảm để kiên vững vượt qua những trở ngại và sự khôn ngoan để phân định và lựa chọn đúng đắn. Đó là hai phẩm chất giúp người giáo dân dấn thân sống đức tin giữa lòng trần thế, góp phần xây dựng đời sống xã hội thấm đượm Tin Mừng. Hồi tâm 1/ Trong những tình huống cụ thể nào, tôi thường cần đến lòng can đảm để bảo vệ sự thật và công lý? Tôi đã từng phản ứng ra sao và kết quả như thế nào? 2/ Làm thế nào tôi có thể áp dụng sự khôn ngoan để phân định đúng sai và đưa ra quyết định sáng suốt trong các hoạt động và công việc tại giáo xứ của mình? 3/ Nhớ lại một trải nghiệm khi lòng can đảm và sự khôn ngoan của người Công giáo đã tạo ra sự khác biệt tích cực trong cộng đồng xã hội? Tôi cảm nghĩ thế nào về sự dấn thân của người giáo dân, với lòng can đảm và khôn ngoan, vào đời sống xã hội? ________ [1] Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Tông Huấn Người Tín Hữu Giáo dân (Christifideles Laici), số 15. [2] Nt. [3]X. Hiến chế Mạc Khải (Dei Verbum), số 21 [4] X Hiến chế Mạc Khải (Dei Verbum), số 25. [5] Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông thư Ngàn Năm Thứ Ba (Millennio Adveniente), số 39> [6] Đức Phanxicô, buổi tiếp kiến chung trực tuyến sáng thứ Tư 25/11/2020), nguồn Vatican News. [7] Nguồn: www.ncregister.com/commentaries/without-adoration-there-s-no-evangelization [8] Nguồn: www.vaticannews.va/vi/pope/news/2020-11/ [9] Nguồn: https://linhmucmen.com/news/kho-sach-quy/chung-nhan-giua-doi-thuong [10] Nguồn: https://www.vaticannews.va/vi/church/news/2020-10/le-phong-chan-phuoc-carlo-acutis.html
ỦY BAN GIÁO DÂN - THƯỜNG HUẤN THÁNG 07/2024: TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN - MUỐI ...
LINH ĐẠO DUNG NẠP
LINH ĐẠO DUNG NẠP