Thứ bảy, ngày 06 tháng 07 năm 2024 | 03:18 AM - Giới thiệu | Ý nghĩa logo
Tài liệu

SUY NIỆM THẦN HỌC VÀ TU ĐỨC VỀ CHÚA THÁNH THẦN

ĐGM Phaolô Bùi Văn Đọc


 

I. DANH XƯNG CỦA THÁNH THẦN.

 

Trong kinh nguyện, Giáo Hội cầu xin Chúa Thánh Thần bằng tên của Người : “Xin hãy đến, lạy Thần Khí Thánh Thiện !”. Thánh Thần là tên thường dùng nhất để kêu cầu Người. Hoặc, như trong thánh thi lễ Ngũ Tuần, Giáo Hội gọi Người là “Thần Khí Tác Tạo).

 

Chúng ta không tự ý đặt ra danh từ “Thần Khí”. Nhưng đó là tên Đức Giêsu dùng khi Ngài nói đến Đấng mà Chúa Cha sẽ ban cho chúng ta nhờ lời cầu bầu của Ngài, Đấng mà chính Ngài sẽ gởi đến.

 

Các tác giả cổ xưa trong Cựu Ước, đặc biệt là các ngôn sứ, đã nói đến Thần Khí Thiên Chúa.

 

Trong ngôn ngữ của Kinh Thánh, cùng một chữ vừa có nghĩa là “gió”, vừa ám chỉ sinh khí của hơi thở, vừa ám chỉ thực tại tinh thần thâm sâu nhất.

 

Qua câu chuyện với Nicôđêmô, Đức Giêsu  vận dụng các ý nghĩa khác nhau của cùng một từ ngữ, giúp chúng ta cảm nghiệm Thần Khí trong đời sống, và hiểu được bản thể của Thần Khí.

 

“Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi, nếu không sinh ra bởi Nước và Thần Khí, không ai có thể vào Nước Thiên Chúa. Sự gì sinh ra từ xác thịt là xác thịt, sự gì sinh ra từ Thần Khí là Thần Khí. Đừng ngạc nhiên, khi  Ta nói với ngươi phải tái sinh từ trên cao. Gió muốn thổi đâu thì thổi, ngươi nghe tiếng gió, nhưng không biết nó  từ đâu đến và  lại đi đâu. Bất cứ ai sinh bởi Thánh Thần thì cũng thế”

(Ga 3, 6-8).

 

Hình ảnh gió là rõ ràng nhất. Nó soi sáng cho chúng ta về vai trò của Thánh Thần. Giống như gió chuyển động và chỉ một hướng tới, trong lòng kẻ tin và tái sinh bởi Nước và Thánh Thần, chính Thánh Thần là sự chuyển động, lôi cuốn hướng tới mục tiêu mà Ngài xác định. Bình thường, gió không thổi mạnh đến nỗi làm cho chúng ta không cưỡng lại được. Cũng vậy, tác động của Thánh Thần kích thích tự do của chúng ta mãnh liệt, nhưng không ràng buộc. Giống như Êlia ở núi Horeb, chúng ta thường nhận ra sự hiện diện tác động của Thiên Chúa, không phải trong cuồng phong bão táp, nhưng trong tiếng rì rào êm dịu của cơn gió thoảng đưa. Vậy chúng ta phải sống thế nào để có thể tiếp nhận và chiều theo Thánh Thần.

 

Để nhận biết Thánh Thần muốn chúng ta quay về hướng nào, chúng ta phải làm im bặt những tiếng ồn ào bên ngoài cũng như bên trong thường xuyên xâm chiếm chúng ta. Phải để lòng thật lặng im và thật tỉnh thức để nhận ra được hơi gió thoảng của Tình Yêu Thiên Chúa đang đưa dẫn chúng ta đi theo chiều hướng nào, trong thế giới và xuyên qua thế giới này, để đến với Thiên Chúa cùng với tất cả những ai mà Người đặt để trên con đường của chúng ta.

 

Chính Thánh Thần đưa chúng ta về cùng Thiên Chúa. Khi nói : “Ngươi không biết gió từ đâu và đi đâu” (Ga 3, 8), Đức Giêsu không cố ý nói tới Thánh Thần, cho bằng nói tới kẻ sinh bởi Thánh Thần, được Thánh Thần tác động và thúc đẩy.

 

Ai phó thác cuộc sống mình cho Thánh Thần, có thể bề ngoài vẫn giống như người hành động bởi những nguyên do nhân loại, nhưng thực ra sáng kiến trong cuộc sống của con người ấy đến từ Thiên Chúa. Những kẻ khác có thể hiểu sai, nhưng chính người đó thì biết rất rõ.

 

Chúng ta biết chắc rằng chuyển động của Thánh Thần Thiên Chúa thúc đẩy chúng ta, lôi cuốn chúng ta, kéo chúng ta hướng tới Thiên Chúa, với tất cả những người mà chúng ta được sai đến trong thế gian này.

 

Thánh Ignatiô, Giám mục thành Antiôkia, vào cuối đời, trên con đường đến Rôma, nơi ông sắp chịu tử vì đạo, đã viết cho các kitô-hữu sống trong thành phố này như sau : “Trong tôi, có Nước Hằng Sống vẫn róc rách và thì thầm : Hãy đi về với Cha !” (Ep. Aux Rom 7, 2).

 

Trong câu chuyện với Nicôđêmô, hình ảnh hơi thở, không minh nhiên như là hình ảnh cơn gió, nhưng cũng nói lên điều đó. Đức Giêsu nói đến sự tái sinh. Điều chứng tỏ một đứa trẻ chào đời còn sống, chính là việc hô hấp. Chính hơi thở của Thiên Chúa làm cho con người trở thành hữu thể sống động.

 

Khi Đức Giêsu chết trên thập giá, Người trút hơi thở cuối cùng, thánh Gioan bảo rằng Người trút bỏ Thần Khí.

 

Kinh Thánh dùng hình ảnh này hai lần, một lần lúc khởi đầu Cựu Ước, lần khác khi bắt đầu “Lịch Sử Vượt Qua”. Trình thuật về Tạo Dựng cho chúng ta thấy Thiên Chúa nắn đúc con người với bùn đất trong vườn địa đàng, và thổi vào mũi nó hơi thở sự sống : “Từ lúc đó, con người trở thành hữu thể sống động” (St 2, 4).

 

Buổi chiều Phục Sinh, khi Đức Kitô sống lại hiện ra với các môn đệ và sau khi đã nói “Bình an cho các con”… Ngài thổi hơi trên họ và nói với họ : “Hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20, 21-22).

 

Chúng ta là những kẻ đã được tái sinh bởi Nước và Thánh Thần, chúng ta được sống bằng Thánh Thần, như sống bằng chính hơi thở của Thiên Chúa. Và Hơi Thở thần linh này luôn gìn giữ chúng ta trong vương quốc của Thiên Chúa, như hơi thở của thân xác bảo tồn sự sống thể xác : “Điều gì sinh từ xác thịt là xác thịt, điều gì sinh bỏi Thánh Thần là thần linh” (Ga 3, 6).

 

Tuy nhiên, chúng ta không nên dừng lại ở hình ảnh. Thánh Thần không chỉ là một “cơn gió”, một “sinh khí”, Thánh Thần là một Chủ Vị. Chữ Thánh Thần ám chỉ “thực tại” thiêng liêng, yếu tố “chủ vị” nhất.

 

Thánh Phaolô giúp chúng ta hiểu điều này : “Ai trong loài người biết rõ những bí mật của con người, nếu không phải là tinh thần ở trong con người. Cũng thế, không ai biết được mầu nhiệm của Thiên Chúa, ngoại trừ Thánh Thần Thiên Chúa. Thánh Thần dò thấu mọi sự, đến cả những thực tại thần linh thâm sâu nhất” (1Cr 2, 10-11).

 

Để có thể dần dần đi vào những cõi thâm sâu trong Thiên Chúa, chúng ta nên tiếp tục khám phá các danh xưng của Thánh Thần.

 

Ngài là Thần Trí Tác Tạo. Trong Kinh Tin Kính, chúng ta khẳng định niềm tin vào Thiên Chúa Cha là Đấng Tạo Hóa, Thiên Chúa Cha tạo dựng mọi sự nhờ Lời của Người. Nhưng Thánh Linh cũng xuất hiện như một thần lực sung mãn từ lúc khởi nguyên. Đó là hình ảnh đầu tiên của sách Kinh Thánh : “Lúc khởi nguyên Thiên Chúa tạo dựng trời và đất. Và đất còn là hỗn mang, còn có bóng tối bao trùm vực thẳm, và Thánh Thần của Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” (St 1, 1-2). Chúng ta gặp lại hình ảnh đầu tiên đó trong trang đầu của sách Tin Mừng : “Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan, lúc Ngài bước lên khỏi nước, Ngài thấy các tầng trời mở ra, và Thánh Thần xuống trên Ngài dưới hình bồ câu ; và từ trời có tiếng phán ra : “Này là Con Ta rất yêu dấu, có tất cả tình yêu của Ta” (Mc 1, 11).

 

Thần Trí Tác Tạo viếng thăm tinh thần con người, đổ đầy các tâm hồn, vì đó là “lãnh địa” của Người, do chính Người tạo nên. Kinh “Veni Creator” nhấn mạnh : xin Ngài hãy viếng thăm những kẻ thuộc về Ngài, xin Ngài hãy đổ đầy ân sủng trên những tâm hồn Ngài đã tạo dựng.

 

Trong vũ trụ được tạo thành này, nơi mà mọi sự đều có cùng đích, Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta quy hướng về Ngài, nhờ Đức Kitô và trong Thánh Thần : “Mọi sự đều thuộc về anh em, thế gian, sự sống và sự chết, hiện tại và tương lai, mọi sự đều thuộc về anh em, nhưng anh em  thuộc về Đức Kitô và Đức Kitô thuộc về Thiên Chúa” (1Cr 3, 21-23). “Lạy Chúa, Ngài đã tạo dựng nên chúng con vì Ngài, và tâm hồn chúng con không bao giờ an nghỉ cho tới khi được nghỉ yên trong Chúa”  (Augustinô, Conf. 1, 1).

 

Tâm hồn của chúng ta, thực tại thâm sâu nhất trong chúng ta, tự bản chất rất phù hợp với việc Thánh Thần đến, Người là Đấng muốn biến nó thành nơi cư ngụ, vượt trên mọi khả thể và đòi hỏi tự nhiên. Thánh Thần biết rõ các tâm hồn Người đã tạo nên. Người cư ngụ như ở trong nhà Người, vì các tâm hồn thuộc về Người.

 

Và Thần Trí Tác Tạo ấy là Thần Trí Thánh Thiện. Đó là Thánh Thần của Thiên Chúa, như Phaolô vẫn thường nói. Trong Kinh Thánh, sự thánh thiện thuộc về yếu tính của Thiên Chúa. Thánh Vịnh thường lập lại “Người là Đấng Thánh của Israel”. Trong sách Tin Mừng, Đức Giêsu được gọi là Đấng Thánh của Thiên Chúa. Người thị kiến trong sách Khải Huyền cũng tuyên xưng Ngài là Đấng Thánh, là Đấng Chân Thật. Sự thánh thiện vừa diễn tả khía cạnh siêu việt của huyền nhiệm Thiên Chúa, vừa ám chỉ sự tiếp xúc của Ngài với con người.

 

Trong Cựu Ước, Thiên Chúa không ngừng lập lại với Dân Người :“Các ngươi hãy nên thánh, vì Ta, Giavê, Thiên Chúa các ngươi là Đấng Thánh” (Lv 19, 2). Nhưng con người không thể đến gần sự thánh thiện bằng những lề luật bên ngoài.

 

Khoảng cách vô hạn mà tội lỗi đã tạo ra giữa Thiên Chúa chí thánh và sự yếu đuối của chúng ta đã được Chúa Kitô xóa bỏ. Trên thập giá, Người đã giao hòa chúng ta với Thiên Chúa nhờ Máu của Người. Thánh Thần là dấu chỉ của sự giải hòa ; chúng ta đã được “ghi ấn tín Thánh Thần” (Ep 1, 13)

Lại một lần nữa, hình ảnh bất động không diễn tả nỗi thực tại sinh động.

 

Không phải chỉ là dấu vết, nhưng là sự hiện diện thường hằng của một Chủ Vị là chính sự Thánh Thiện của Thiên Chúa. Đối với chúng ta là những kẻ tội lỗi, Người hiện diện gần kề khôn tả.

 

Một danh xưng khác của Chúa Thánh Thần biểu lộ sự hiện diện của một Chủ Vị. Kinh nguyện của Giáo Hội thích lập lại danh xưng này : “Ngài là Đấng Bầu Chữa”. Theo sách Tin Mừng, chính Đức Giêsu gán cho Người danh xưng này.

 

Từ ngữ “Paraclet” gợi lên hình ảnh của một người luôn luôn hiện diện để cứu giúp. Khi ở giữa các môn đệ, Đức Giêsu là một Đấng Bầu Chữa đối với họ. Ngài hiện diện để khuyến khích, nâng đỡ và củng cố các môn đệ. Nhưng Đức Giêsu chỉ ở giữa họ một thời gian. Khi rời bỏ họ, Ngài đã hứa : “Ta sẽ xin Cha và Cha sẽ ban cho các ngươi một Đấng Bầu Chữa khác để Người hiện diện với các ngươi luôn mãi” (Ga 14, 16). Và sự hiện diện thường xuyên,không giống như sự hiện diện nhất thời của Đức Giêsu khi còn tại thế, là một sự hiện diện không thể thay thế được : “Ta bảo thật với các ngươi, ta ra đi thì  tốt cho các ngươi hơn  ; vì nếu Ta không ra  đi, Đấng Bầu Chữa sẽ không đến với các ngươi ; nhưng nếu Ta ra đi, Ta sẽ gởi Ngài đến với các ngươi” (Ga 16, 1).

 

Đấng Bầu Chữa đang hiện diện, luôn luôn canh chừng và tác động. Bất cứ lúc nào chúng ta cũng có thể nương tựa vào sự hiện diện của Người.

 

Đức Giêsu hứa ban sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần cho các môn đệ trong các trường hợp bị bách hại : “Thánh Thần của Cha các ngươi sẽ nói trong các ngươi”.

 

Đừng nghĩ rằng Thánh Thần chỉ giúp chúng ta trong cơn nguy khốn, Ngài còn giúp đỡ chúng ta lúc chúng ta hạnh phúc. Người luôn hiện diện. “Đấng Bầu Chữa, Thánh Thần mà Cha sẽ sai đến nhân danh Ta sẽ dạy các ngươi tất cả, sẽ nhắc lại cho các ngươi tất cả những điều Ta đã nói với các ngươi” (Ga 14, 26).

 

Mọi nhiệm vụ tông đồ, mọi sự chia sẻ đời sống, mọi gặp gỡ với con người, phải khai mở chúng ta để chúng ta có được cảm nghiệm kỳ diệu ấy : “Thánh Thần của Cha các ngươi sẽ nói trong các ngươi”.

 

Thánh Thần không những chỉ giúp chúng ta trong việc chúng ta đến với con người và đón nhận biến cố, nhưng còn trợ giúp để chúng ta có thể gặp gỡ Chúa Cha… Biết đến với Chúa Cha cũng quan trọng như biết đến với con người. Nhưng thường chúng ta ít nghĩ tới. Nếu một mình chúng ta, thì chúng ta bất lực, nhưng chúng ta không ở một mình, có Thánh Thần hiện diện giúp đỡ chúng ta : “Thánh Thần đến giúp đỡ sự yếu đuối của chúng ta, vì chúng ta kh6ng biết phải cầu nguyện thế nào cho đúng, nhưng chính Thánh Thần cầu bầu cho chúng ta bằng những lời rên rỉ khôn tả ; và Đấng thấu suốt các tâm hồn nhận ra ước muốn của Thánh Thần, và Ngài cầu bầu theo ý của Thiên Chúa cho các thánh” (Rm 8, 26-27).

 

 

 

II. SỨ VỤ CỦA CHÚA THÁNH THẦN.

 

Chúa Thánh Thần chưa được minh nhiên mạc khải trong thời Cựu Ước, nhưng Người đã hoạt động từ thời khai thiên lập địa. Người là “Khí Thần” mà Thiên Chúa ban cho mọi loài, để hiện hữu và sinh hoạt. Người là Sức Mạnh thần linh của Thiên Chúa không ngừng tác động, làm thay đổi các cục diện lịch sử. Người là Thần Trí mà Thiên Chúa cho nhân loại được chia sẻ, nhất là phần nhân loại được tuyển chọn là Dân Thiên Chúa, và các vị lãnh đạo trong Dân. Người là Thánh Thần ngôn sứ hoạt động nơi các tiên tri, để các ngài có thể nói thay cho Thiên Chúa, biểu lộ giáo huấn của Thiên Chúa và giáo huấn Dân theo thánh ý của Thiên Chúa.

 

Thời Cựu Ước chỉ là thời chuẩn bị, nên Thánh Thần chưa được ban đầy đủ. Phải chờ đến thời đại Tân Ước cũng là thời đại cánh chung, thời viên mãn, thời Giao Ước mới và vĩnh cửu. Vào thời sau hết, Thiên Chúa nói với nhân loại qua một Người Con là Đức Giêsu Kitô (Dt 1, 2). Người Con ấy là Ngôn Sứ cuối cùng và hoàn hảo nhất, là vị Tiên Tri đầy Thánh Thần. Người Con ấy được gọi là Đấng Kitô, vì được xức dầu Thánh Thần. Thánh Thần bắt đầu được mạc khải như một ngôi vị thần linh, mà hoạt động gắn liền và đi đôi với sứ mạng của Đức Giêsu.

 

Chúa Cha sai Chúa Con đến trần gian. Chúa Con đến trần gian nhờ Thánh Thần và trong Thánh Thần :  “Thánh Thần  sẽ  đến  trên Người  và  Quyền Năng  Đấng Tối Cao  trên Người  rợp  bóng” (Lc 1, 35). Đức Giêsu Kitô bắt đầu công việc rao giảng Nước Thiên Chúa trong sức mạnh và ánh sáng của Thánh Thần Thiên Chúa. Người đã làm mọi việc trong Thánh Thần, nói mọi lời trong Thánh Thần. Quan trọng hơn cả là “nhờ Thần Khí Hằng Có mà Người hiến mình làm lễ hy sinh vô tì tích dâng lên Thiên Chúa” (Dt 9, 14). Và Thiên Chúa đã cho Người sống lại từ cõi chết nhờ bởi Thần Khí (Rm 8, 11).

 

Thời gian thực sự dành cho Thánh Thần là lúc Đức Giêsu đã ra đi (Ga 16, 17), lúc Người đã được tôn vinh (Ga 7, 39). Bấy giờ Chúa Cha mới thực sự sai Thánh Thần đến, do lời cầu xin của Đức Giêsu Kitô (Ga 14, 16).  Cũng  có thể  nói rằng chính Đức Giêsu sai Thánh Thần  đến từ nơi Cha  (Ga 15, 26).

 

Giai đoạn hậu Phục Sinh là giai đoạn của Hội Thánh ; nên sứ vụ của Thánh Thần gắn liền, thậm chí trùng hợp với sứ vụ của Hội Thánh. Trên một bình diện, Thánh Thần có cùng sứ vụ với Hội Thánh : sứ vụ làm chứng cho Chúa Kitô (Ga 15, 26-27). Nói khác đi, đó là hai mặt của cùng một sứ vụ : hữu hình và vô hình ; hai mặt không thể tách rời.

 

Sứ vụ làm chứng ấy, Thánh Thần đã thi hành cách hữu hiệu và lạ lùng thời khai sinh Giáo Hội. Ngày hôm nay Người vẫn tiếp tục không ngừng thi hành sứ vụ. Chúa Thánh Thần có nhiều cách làm chứng cho Chúa Kitô mà chúng ta không thể biết hết được, vì Người “như gió muốn thổi đâu thì thổi” (Ga 3, 8). Nhưng thường Người làm chứng bằng cách tác động bên trong chứng từ của Hội Thánh, để chứng từ này trở thành chứng từ thực hiện trong quyền năng của Chúa Thánh Thần.

 

Trên một bình diện khác, Chúa Thánh Thần có sứ mạng đối với Hội Thánh. Người là Đấng An Ủi mà Chúa Cha ban cho Hội Thánh trong lời cầu xin của Đức Giêsu (Ga 14, 16). Người ở cùng Hội Thánh, ở trong Hội Thánh (Ga 14, 17), để nâng đỡ, khích lệ và giáo huấn Hội Thánh, đưa Hội Thánh mỗi ngày một đi sâu vào mạc khải của Chúa Kitô (Ga 16, 13), đi sâu vào tình yêu của Thiên Chúa. Người thực hiện sứ vụ ấy nơi từng người kitô-hữu (đặc biệt hơn cả nơi các thừa tác viên của Hội Thánh, nơi Hàng Giáo Phẩm).

 

Chúa Thánh Thần không ngừng xây dựng và làm cho Hội Thánh được hình thành. Mọi người nhờ Thần Khí độc nhất mà gia nhập Thân Mình độc nhất là Hội Thánh (1Cr 12, 13). Thánh Thần trang bị Hội Thánh bằng khí giới Lời Chúa, bằng các đặc sủng (1Cr 12, 4-11) và các bí tích.

 

Chúa Thánh Thần hướng dẫn Hội Thánh thực hiện chương trình cứu độ của Thiên Chúa, thực hiện mệnh lệnh rao giảng Tin Mừng của Chúa Kitô. Nhiều khi, sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần rất cụ thể ; Người thúc đẩy đến với dân ngoại (Cv 8, 29-30 ; 10, 1-9 ; 11, 12). Thánh Thần còn giúp cho Hội Thánh đề ra những quuyết định sáng suốt, giải quyết những khủng hoảng hay các vấn đề nan giải trong Hội Thánh (Cv 15, 28-29), giúp Hội Thánh đặt hàng giáo phẩm và niên trưởng lãnh đạo Hội Thánh (Cv 20, 28).

III. SỰ HIỆN DIỆN TÁC ĐỘNG CỦA CHÚA THÁNH THẦN NƠI CHÚNG TA.

 

Thánh Phaolô lập đi lập lại nhiều lần “chúng ta là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần”, “Chúa Thánh Thần cư ngụ trong chúng ta” (1Cr 3, 16 ; 6, 19 ; Rm 8, 11) :

 

“Anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, va Thần Khí của Thiên Chúa cư ngụ trong anh em” (1Cr 3, 16).

 

“Thân mình anh em là Đền Thờ của Thánh Thần, Đấng ngự trong anh em, Đấng anh em lãnh lấy từ Thiên Chúa, và anh em không thucộ về mình nữa” (1Cr 6, 19).

 

Chúa Thánh Thần hiện diện trong chúng ta như một vị khách thần linh. Người hay đến thăm viếng chúng ta, và bằng nhiều cách, qua con đường tư tưởng hay tâm tình. Nếu chúng ta quen đón, thì Người thường xuyên đến. Nếu chúng ta không đón, Người sẽ không đến.

 

Chúa Thánh Thần hiện diện trong chúng ta như một người yêu. Người rất yêu dấu chúng ta, muốn sự lành cho chúng ta, muốn tất cả những gì tốt nhất cho chúng ta. Người hiện diện thâm sâu trong chúng ta, như một người yêu trong một người yêu, và còn hơn thế nữa.

 

Chúa Thánh Thần còn hiện diện trong chúng ta như một hồng ân,  như một quà tặng ; tặng phẩm lớn nhất mà Thiên Chúa ban cho chúng ta, mà Đức Giêsu mang đến cho chúng ta. Chúa Thánh Thần là hồng ân lớn nhất ; Chúa Kitô biết điều đó, nên Người thúc giục chúng ta cầu nguyện ; bao giờ Thiên Chúa cũng ban cho chúng ta nhiều hơn là chúng ta xin, “Người ban Thánh Thần cho chúng ta” (Lc 11, 13).

 

Chúa Thánh Thần là mối dây ràng buộc, nối kết chúng ta với Chúa Kitô và Thiên Chúa. Thánh Thần đưa chúng ta vào trong Chúa Kitô, vào trong Thiên Chúa. Hay nói ngược lại, Chúa Thánh Thần đưa Chúa Kitô, đưa Thiên Chúa vào trong chúng ta. Nhờ Thánh Thần mà có Chúa Kitô ở trong chúng ta, chúng ta là những người mang Chúa Kitô. Sự hiện diện của Thiên Chúa trong chúng  ta bao  trùm chúng ta,  ảnh hưởng trên  con người chúng  ta,  biến  đổi con  người chúng ta (Lc 9, 28-29).

 

Phaolô còn nói “Thiên Chúa mạc khải cho chúng ta nhờ Thánh Thần, bởi Thánh Thần dò thấu mọi sự, cả những điều sâu thẳm nhất” (1Cr 2, 10-11).

 

Nếu nơi Thiên Chúa là Đấng vô phương dò thấu, mà Chúa Thánh Thần còn dò thấu mọi sự, huống chi là tâm hồn chúng ta. Người biết rõ chúng ta cần gì, muốn gì. Mọi sự, dù chỉ manh nha nơi chúng ta, Người đều biết. Chúng ta có thể lừa dối người đời, nhưng không thể lừa dối Thánh Thần. Từ “dò thấu” cừa chỉ chiều sâu, vừa chỉ sự thấu suốt. Chúa Thánh Thần là ánh sáng chiếu soi, làm cho mỗi người chúng ta trở nên trong suốt, không còn u tối nữa.

 

Vì là Đấng thấu suốt mọi sự, Chúa Thánh Thần là Thầy dạy chân lý, Thầy dạy yêu thương, Thầy dạy lắng nghe, Thầy dạy thực hiện thánh ý Thiên Chúa, Thầy dạy nói với Thiên Chúa và nói về Thiên Chúa : “đấng Bầu Chữa, Thánh Thần Cha sai đến nhân danh Ta, chính Người sẽ dạy cho các ngươi mọi sự” (Ga 14, 26 ; 16, 13). Người dạy cho chúng ta biết mầu nhiệm Thiên Chúa mạc khải nơi Đức Giêsu Kitô. Người dạy cho chúng ta biết tình yêu của Thiên Chúa, không những cách lý thuyết, mà còn kinh nghiệm, cảm nghiệm được tình yêu ấy. Chúng ta chỉ có thể có những kinh nghiệm thiêng liêng nhờ Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta nhận ra biết bao nhiêu hồng ân mà Thiên Chúa đổ xuống trên chúng ta (1Cr 2, 12).

 

Thánh Thần dạy chúng ta nói về mầu nhiệm, về sự khôn ngoan của Thiên Chúa : “Các điều ấy chúng tôi nói lên, không bằng những lời lẽ học đòi nơi sự không ngoan của người đời, nhưng là bang72 những lòi lẽ của Thần Khí dạy cho, đem những điều thần thiêng giải bày cho những người thần thiêng” (1Cr 2, 13).

 

Chúa Thánh Thần còn hướng dẫn cách sống làm con Thiên Chúa : “Phàm ai được Thần Khí dẫn đưa, thì họ là con cái Thiên Chúa” (Rm 8, 11).

 

 

IV. CHÚA THÁNH THẦN, ĐẤNG THIẾT LẬP CÁC TƯƠNG GIAO.

 

Thế giới chúng ta, đặc biệt là những người trẻ, rất cần những giá trị thiêng liêng, cần sự sống tinh thần.

 

- Thánh Thần là Vị Thiên Chúa “nâng con người lên”, “thần linh hóa con người”, làm cho con     người trở nên thiêng liêng cao cả.

 

- Thánh Thần còn là vị Thiên Chúa thiết lập các tương giao, là đó là điều mà mỗi người kitô-hữu chúng ta chờ đợi nơi Ngài để sống đạo cách sâu xa và thực tế.              

 

Tác động của Chúa Thánh Thần : Trao đổi, tương giao, đối thoại, tiếp xúc, gặp gỡ (Communication).

 

a. Tương giao với Chúa Kitô và Thiên Chúa.

 

Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta hướng về Chúa Kitô, lắng nghe, tin tưởng Chúa Kitô, và muốn làm đẹp lòng Ngài.

 

Nhờ Chúa Thánh Thần, chúng ta trở nên giống bà Maria trong gia đình Bêtania, sung sướng hạnh phúc được ở gần bên Chúa, tiếp xúc, nói chuyện với Chúa.

 

Thánh Thần làm cho chúng ta hướng về Chúa Cha, muốn làm vinh danh Cha, chúc tụng, ngợi khen Cha, muốn tỏ bày lòng hiếu thảo với Chúa Cha (abba).

 

Trường hợp chúng ta đang ở xa Thiên Chúa, Thánh Thần thúc đẩy chúng ta, làm cho chúng ta mạnh dạn trở về. Thánh Thần là “nhịp cầu”, là “gạch nối”, là “thang” đưa chúng ta đến cùng Thiên Chúa. Nhờ Thánh Thần và trong Thánh Thần, chúng ta không còn cảm thấy Thiên Chúa xa vời, không còn thấy lòng khô khan nguội lạnh.

 

Thánh Thần là ơn thông hiệp, kết hiệp chúng ta với Chúa Kitô, làm cho chúng ta trở nên mật thiết, khăng khít với Chúa Kitô, làm cho chúng ta trở thảnh người môn đệ, người bạn hữu, người yêu của Chúa Kitô. Được kết hiệp với Chúa Kitô, chúng ta nên một với Thiên Chúa.

 

b. Với Hội Thánh.

 

“Đâu có Hội Thánh, đó có Thánh Thần”.

 

Có giáo phụ nói : “Đâu có Thánh Thần, đó có Hội Thánh”.

 

Hội Thánh gắn liền với Chúa Thánh Thần. Hội Thánh là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần.

 

Có Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ yêu mến Hội Thánh, gắn bó với Hội Thánh, sẵn sáng phục vụ Hội Thánh. Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta vui sướng tiếp xúc với Hội Thánh, sống trong Hội Thánh. Tiếp xúc với Hội Thánh sâu xa hơn cả là tiếp nhận và sống các bí tích trong Hội Thánh. Có Chúa Thánh Thần, chúng ta sung sướng tiếp xúc với các kitô-hữu khác trong Hội Thánh.

 

c. Tiếp xúc với những người lân cận, những người chúng ta gặp gỡ.

 

Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta yêu những người sống gần chúng ta, khiến chúng ta cảm thấy dễ chịu, thoải mái, hạnh phúc trong đời sống Cộng Đoàn.

 

Chúa Thánh Thần làm cho tâm hồn nên quảng đại, chấp nhận, tha thứ, quý mến, muốn làm điều lành cho anh chị em.

 

Chúa Thánh Thần là dây liên kết trong tình bác ái, là sức mạnh tình yêu hiệp thông, nối kết làm cho chúng ta nên một. Thông thường, Chúa Thánh Thần bối kết chúng ta với Chúa Kitô trước, rồi từ đó nối kết chúng ta với anh chị em.

 

d. Chúa Thánh Thần cũng làm cho chúng ta vui sướng khi gặp gỡ.

 

Thánh Thần cho chúng ta cảm nếm niềm vui gặp gỡ, và niềm vui đó lan toả đến tha nhân. Họ sung sướng vì cảm thấy được yêu thương và kính trọng.

 

Chúa Thánh Thần dạy chúng ta cách tiếp xúc với tha nhân, không thuần tuý là xã giao mà là cách tiếp xúc có chiều sâu, đem lại sự sống, sinh lợi ích cho tha nhân cũng như cho mình.

 

e. Chúa Thánh Thần cũng dạy chúng ta cách tiếp xúc với người chưa biết Chúa Kitô.

 

Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta trở nên giống Chúa Kitô ngay trong việc tiếp xúc. Ngài làm cho người chưa biết Chúa “cảm nghiệm” một điều gì đó nơi chúng ta khiến họ vui mừng, được an ủi, an tâm.

 

V. CHÚA THÁNH THẦN, THẦY DẠY YÊU THƯƠNG.

 

Thiên Chúa là “Lòng Mến”, Thiên Chúa là “Tình Yêu”. “Ai yêu thương thì sinh bởi Thiên Chúa và biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa” (1Ga 4, 7t).

 

Nếu chúng ta không yêu thương, thì chúng ta không biết Thiên Chúa, và không có sự sống đời đời.

 

Nhưng tình yêu nơi chúng ta không bắt nguồn từ chúng ta, mà bắt nguồn từ Thiên Chúa. “Thiên Chúa  đã yêu  mến chúng  ta trước  và đã  sai Con  của Người  đến  làm lễ hy   sinh vì  chúng  ta” (1Ga 4, 10).

 

1Ga 4, 11-13 nhấn mạnh “Thiên Chúa đã yêu mến chúng ta như thế, thì chúng ta cũng phải yêu mến nhau. Nếu chúng ta yêu mến nhau, Thiên Chúa mới lưu lại trong ta. Dấu hiệu chúng ta lưu lại trong Người, Người ở trong chúng ta, đó là Thánh Thần mà Người đã ban cho chúng ta”.

 

Phaolô cũng khẳng định lòng mến của Thiên Chúa đã được đổ xuống lòng ta nhờ bởi Thánh Thần Người đã ban cho ta” (Rm 5, 5).

 

“Yêu thương như Thiên Chúa” (x. 1Ga 4, 11), “yêu thương như Đức Giêsu” (Ga 15, 12) là những đòi hỏi quá lớn đối với chúng ta, chúng ta không thể nào thực hiện được. Chỉ có một cách duy nhất là, nhờ Chúa Thánh Thần, là “Sức Mạnh Tình Yêu của Thiên Chúa”, của Đức Kitô ở trong chúng ta, yêu mến chúng ta. Chúng ta yêu mến nhờ Thánh Thần, bằng tình yêu của Thánh Thần. Đó mới là “đức ái siêu nhiên”. Và đó là điều Thiên Chúa muốn.

 

Chỉ khi nào có một cái nhìn siêu nhiên như thế về đức ái, chúng ta mới hiểu được Bài Ca Đức Ái trong 1Cr 13, 1-13.

 

Trong bài ca này, một đàng Phaolô dùng ngôn ngữ rất siêu nhiên, phải có quan điểm rất siêu nhiên mới hiểu được.

 

- Nếu có mọi thứ tài mà không có lòng mến, thì chỉ như cái thùng rỗng kêu to (c. 1).

 

- Nếu có nhiều ơn, cả những ơn trọng đại, mà không có lòng mến, thì vẫn là số không.

 

- Nếu cho đi tất cả, hy sinh mạng sống, mà không có lòng mến, cũng chỉ là hư vô.

 

Lòng mến ở đây phải hiểu theo nghĩa hoàn toàn siêu nhiên, và đó là Tình Yêu của Thiên Chúa trong chúng ta, là Thánh Thần của Thiên Chúa trong chúng ta.

 

Nhưng đàng khác, khi kê khai những đặc tính của lòng mến (khoan dung, không ghen tuông, không ích kỷ, không tự mãn, kính tin, trông cậy, kiên nhẫn, không chấp nhất, không ba hoa, không khiếm nhã, biết chia vui… (c. 4-7), chúng ta thấy một ngôn ngữ hết sức tự nhiên, gần gũi, thực tế.

 

Ngôn ngữ tự nhiên không đi ngược với ngôn ngữ siêu nhiên, nhưng hài hòa với ngôn ngữ siêu nhiên, được lồng vào ngôn ngữ siêu nhiên. Những yếu tố tự nhiên tốt đẹp nơi chúng ta bắt nguồn từ Thiên Chúa, và phải luôn luôn bắt nguồn từ đó.

 

Nói cách khác, Chúa Thánh Thần, Vị Thầy dạy yêu mến, làm việc nơi con người chúng ta bằng những đường lối nhân bản, phù hợp với con người. Chúa Thánh Thần, Tác Giả của biến cố Nhập Thể, sẽ làm cho chúng ta nên giống Đức Giêsu Kitô, Hình Ảnh trọn hảo của Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta trở nên những người con, giống Con  Yêu Dấu của Thiên Chúa. Bài học yêu thương theo chiều đứng, và yêu thương theo chiều ngang gắn liền và đi đôi với nhau. Tình yêu đối với anh em là bằng chứng tình yêu đối với Thiên Chúa (1Ga 4, 20-21). Tình yêu đối với Thiên Chúa là “nguồn sống” của tình yêu đối với anh em.

 

VI. CHÚA THÁNH THẦN, SỨC MẠNH TÌNH YÊU LÀM CHO CHẾT VÀ LÀM CHO SỐNG.

 

Thánh Thần là sức mạnh tình yêu mà qua đó Chúa Cha trao ban trọn vẹn bản thân mình cho Chúa Con, và Chúa Con đón nhận trọn vẹn sự sống từ Cha và dâng lại cho Cha, vì thế Chúa Thánh Thần là Tình Yêu Hiệp Thông trong lòng Thiên Chúa Ba Ngôi.

 

1.Sự hiệp thông trong lòng Thiên Chúa Ba Ngôi không là một tương quan đóng kín (chu trình kín), nhưng là tình yêu mở rộng. Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa cởi mở, vì Thánh Thần của Người là thần linh cởi mở (Esprit ouvert).

 

Chính Sức Mạnh Tình Yêu đã mở toang Mầu nhiệm Thiên Chúa cho chúng ta, để chúng ta được thông dự, được đưa vào lòng Thiên Chúa Ba Ngôi. Chính nhờ sự mở toang này, mới có Mạc Khải, mới có cứu độ (x. 1Cr2, 10-11).

 

Có thể nói cách khác : Sức Mạnh Tình Yêu Là Chúa Thánh Thần đã khiến Chúa Cha ban cho chúng ta Đức Giêsu Kitô, và Chúa Thánh Thần đã đưa Đức Giêsu Kitô đến cho chúng ta từ nơi Thiên Chúa. Người cũng sẽ đưa chúng ta về với Thiên Chúa cùng với Đức Giêsu Kitô.

 

Để Thánh Thần có thể đưa chúng ta về với Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô, Người phải đến và ở lại với chúng ta. Nhưng Người chỉ đến khi Chúa Giêsu ra đi : “Nếu Ta không ra đi, thì Đấng Bầu Chữa không đến với các ngươi” (Ga 16, 7).

 

Chúa Thánh Thần của thời đại Tân Ước gắn liền với thập giá Đức Kitô. Trước hết, chính Chúa Thánh Thần làm cho cái chết bi thảm của Chúa Giêsu trở thành “của lễ vô tì tích dâng lên Thiên Chúa” (Dt 9, 14). Trong Cựu Ước, Lửa là dấu hiệu Giao Ước dã được Thiên Chúa ký kết ; Lửa cũng là dấu hiệu Thiên Chúa đã đón nhận của lễ hiến dâng. Trong Tân Ước, Thánh Thần là dấu hiệu Thiên Chúa đã nhận Của Lễ của Chúa Giêsu Kitô : Chúa Cha nhận sự Dâng Hiến của Chúa Con (x. Dt 9, 11-14 ; 5, 7-9… ; Cv 2, 33).

 

Theo Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II trong thông điệp “Dominum et Vivificatem” (1981), Chúa Thánh Thần được mạc khải và hiện diện như “Tình Yêu” hoạt động trong thẳm sâu của mầu nhiệm Vượt Qua, như  Nguồn Sức Mạnh Cứu Độ của thập giá Đức Kitô, như Hồng Ân “sự sống mới và vĩnh cửu” (số 41). Chúa Thánh Thần như dòng nước chảy ra từ cạnh sườn Ađam Mới là Đức Kitô. Nước ấy chảy đến đâu, thì vừa thanh tẩy, vừa mang lại sự sống ở đó.

 

Chúa Thánh Thần là Sức Mạnh Tình Yêu của Thiên Chúa, là “Khí Thần” của Thiên Chúa, đến với chúng ta qua Chúa Kitô, thì cũng đưa chúng ta trở về với Thiên Chúa qua Chúa Kitô.

 

Để được nhận làm “Con Thiên Chúa” (Rm 8,15 ; Ga 4, 4-7), cùng với Chúa Kitô, Chúa Thánh Thần biến đổi chúng ta, Kitô hóa chúng ta, làm cho chúng ta trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô.

 

2. Chúa Thánh Thần thực hiện việc này : trước hết, bằng cách “kết án” chúng ta. Người là Vị Thẩm Phán Chí Công. Người thấu suốt tâm hồn chúng ta ; làm cho chúng ta nhận ra sự thực về bản thân mình trong tương quan với Thiên Chúa và tha nhân.

Các tin khác

VIDEO

  Bài 2: HIỆP HÀNH: Hiệp Thông - Tham Gia - Sứ Vụ | Thường huấn linh mục GP Ban Mê Thuột 2023

  Bài 1: Tầm Nhìn Hoàn Vũ | Thường huấn linh mục GP Ban Mê Thuột 2023

  ĐỨC TIN | Tròn Đầy & Trong Sáng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh

  Mục Vụ Văn Hóa: DANH - LỢI - NGHĨA | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh

  Cử Hành Phụng Vụ | Gặp Gỡ Chúa Kitô - Loan Báo Tin Mừng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn văn Hinh

  Thần Học Mục Vụ & Công đồng Vatican II: Con người - Giáo hội - Môi trường

  Hiệp Hành Hội Ý Dựng lại Mùa Xuân | Người Giáo dân Thiên niên kỷ mới

  Bài 4: Văn Hóa Tổ Chức - Đời Sống Cá Nhân

  Hiệp Hành Kín Đáo và Minh Bạch

  Văn Hóa Tổ Chức - Tổ Chức Cộng Đồng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh (Phần 3)

  Tìm hiểu về văn hóa (Phần 2) - Lm Gioan Kim Nguyễn Văn Hinh

  Tìm hiểu về văn hóa (Phần 1) - Lm Gioan Kim Nguyễn Văn Hinh

  TRỰC TUYẾN BÀI 29: MỤC VỤ THÁNH THIỆN THUẬN THEO

  TRỰC TUYẾN BÀI 28 : MỤC VỤ TÍCH HỢP VĂN HÓA ĐÔNG TÂY

  TRỰC TUYẾN BÀI 27 : MỤC VỤ LỜI CHÚA NGÀY NAY

  TRỰC TUYẾN BÀI : TÌM HIỂU VỀ VĂN HÓA VÀ BẢN SẮC VĂN HÓA VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 26: MỤC VỤ ĐẠO ĐỨC KINH TẾ DỊCH VỤ

  TRỰC TUYẾN BÀI 25: MỤC VỤ TUẦN THÁNH UY VÀ ĐỨC

  TRỰC TUYẾN BÀI 24: MỤC VỤ GIA TÀI CỦA MẸ

  TRỰC TUYẾN BÀI 23: MỤC VỤ BỔ VÀ TẢ

  mvgd20162016

  TRỰC TUYẾN BÀI 21: MỤC VỤ LUẬT CÂN BẰNG

  TRỰC TUYẾN BÀI 20: TRUY TÌM MÃNH LỰC

  TRỰC TUYẾN BÀI 19: THẾ GIỚI HÔM NAY CẦN NHỮNG NGƯỜI CHA NHÂN HẬU LÝ TƯỞNG VÀ THỰC TIỄN

  TRỰC TUYẾN BÀI 18: NĂM THÁNH THÁNH CẢ GIUSE LÃNH ĐẠO VÀ NIỀM TIN

  TRỰC TUYẾN BÀI 17: MỪNG XUÂN TÂN SỬU 2021 - LÒNG BIẾT ƠN TIN VUI ĐẠO ĐỨC VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 17: MỪNG XUÂN TÂN SỬU 2021 - LÒNG BIẾT ƠN TIN VUI ĐẠO ĐỨC VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 16: ĐỀ TÀI ĐIỂM TỰA

  TRỰC TUYẾN BÀI 14: VĂN HÓA KHÔNG NHẬN SAI NHƯNG SỬA SAI

  TRỰC TUYẾN BÀI 13: VUN TRỒNG NỀN VĂN HÓA “TÂM LINH – KHOA HỌC”

  TRỰC TUYẾN BÀI 12: NĂM MỚI 2021 XÂY DỰNG NỀN VĂN MINH TÂM LINH & KHOA HỌC

  TRỰC TUYẾN BÀI 11: GIÁNG SINH 2020 - LÀM NGƯỜi - GIÊSU

  TRỰC TUYẾN BÀI 10: PHÍA ĐẰNG SAU TÂM LINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 9: ĐỂ CÓ CHÚA THÁNH THẦN

  TRỰC TUYẾN BÀI 8: LOAN BÁO TIN MỪNG

  TRỰC TUYẾN BÀI 7: PHÒNG ĐÀO LUYỆN TÂM LINH CỦA TÍN HỮU DÂN CHÚA

  TRỰC TUYẾN BÀI 6: ĐÀO LUYỆN TÍN HỮU DÂN CHÚA

  TRỰC TUYẾN BÀI 5: TẦM NHÌN THIÊN NIÊN KỶ MỚI

  TRỰC TUYẾN BÀI 4: ĐÀO LUYỆN TÂM LINH BẮT ĐẦU TỪ THÁNH THỂ HAY THÁNH KINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 3: PHƯƠNG THỨC CẦU NGUYỆN CẢM NGHIỆM- SỐNG THÁNH GIỮA ĐỜI

  TRỰC TUYẾN: BÀI 2: GIẢI THÍCH ĐÀO LUYỆN TÂM LINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 1: ĐÀO LUYỆN TÂM LINH

  TintucVatican

  Thánh Lễ Tuyên Thánh Jacinta và Francisco Marto

  Muối và ánh sáng

  Thế Giới Nhìn Từ Vatican

  Nghi thức đóng Cửa Thánh

  Xin Mẹ Thương

  Thế Giới Nhìn Từ Vatican

  Suy Niệm với Đức Thánh Cha Phanxicô

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__3

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__1

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__2

  Thường huấn HĐMVGX Ban Mê Thuật

  Quốc tế thiếu nhi 01-6-2014

  Thể dục Dưỡng Sinh

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  CƠM TRƯA TRUNG THU 2013

  Thi đấu thăng cấp sơ đẳng Vovinam

  Khai mạc kỳ thi thăng cấp Vovinam

  Vovinam

  Đào luyện tâm linh

  Nghệ thuật cân bằng

  Đào Luyện Tinh Thần

  Đào Luyện Thể Chất

Bài viết mới
BÀI GIẢNG ĐỨC THÁNH CHA - CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN NĂM B
BÀI GIẢNG ĐỨC THÁNH CHA - CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN NĂM B.
ỦY BAN GIÁO DÂN - THƯỜNG HUẤN THÁNG 07/2024: TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN - MUỐI VÀ ÁNH SÁNG CHO THẾ GIỚI avatar Ủy ban Giáo dân 01/07/2024 Giáo hội là Dân Thiên Chúa, nơi mỗi người tín hữu, dù là giáo sĩ hay giáo dân, đều đóng góp vai trò không thể thiếu trong sứ mạng loan báo Tin Mừng. Chủ đề “Tông đồ giáo dân: Muối và ánh sáng cho thế giới” tập trung vào việc khai triển và cổ võ vai trò của giáo dân trong việc trở thành muối ướp mặn đời và ánh sáng soi sáng trần gian. Ủy ban Giáo dân Hội đồng Giám mục Việt Nam THƯỜNG HUẤN THÁNG 07/2024: TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN: MUỐI VÀ ÁNH SÁNG CHO THẾ GIỚI BÀI 1: HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN DỰA TRÊN LỜI CHÚA - Phanxicô Xaviê Nguyễn Thái BÀI 2: SỐNG TIN MỪNG TRONG ĐỜI THƯỜNG – Lm. Antôn Hà Văn Minh BÀI 3: BIẾN ĐỔI THẾ GIỚI TỪ BÊN TRONG - Lm. Tôma Vũ Ngọc Tín, S.J. BÀI 4: LÒNG CAN ĐẢM VÀ SỰ KHÔN NGOAN KHI DẤN THÂN VÀO ĐỜI SỐNG TRẦN THẾ - Lm. Tôma Vũ Ngọc Tín, S.J. BÀI 1: HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN DỰA TRÊN LỜI CHÚA - Phanxicô Xaviê Nguyễn Thái “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. “Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá. Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành” (Mt 7, 21.24 – 27). Đọc đoạn Tin Mừng trên cho chúng ta thấy: sống Tin Mừng trong đời thường là một hành trình đức tin mà qua đó, người Kitô hữu áp dụng lời dạy của Chúa Giêsu vào cuộc sống hàng ngày. Yêu Chúa không chỉ là tham dự các thánh lễ, các giờ kinh, mà phải thi hành ý muốn của Chúa Cha qua việc lãnh nhận các bí tích thường xuyên và qua cách chúng ta tương tác với mọi người xung quanh, cách chúng ta hành xử với thử thách và cách thực hiện các quyết định. Dưới đây là một số suy tư của giáo dân và một số cách để sống Tin Mừng trong đời thường: 1. Suy niệm và cầu nguyện với Lời Chúa: chúng ta không thể kết hiệp mật thiết với Chúa mà không cầu nguyện với Ngài. Việc dành thời gian mỗi ngày để suy niệm và cầu nguyện với Lời Chúa giúp nuôi dưỡng tâm hồn chúng ta ngày càng trở nên thánh thiện hơn, yêu Chúa nhiều hơn và được Chúa hướng dẫn hành động. 2. Yêu thương tha nhân là yếu tố quan trọng khi ta sống theo Tin Mừng. Yêu thương mọi người xung quanh mình, cho dù họ là ai, tôn giáo nào, giàu hay nghèo. “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” ( Ga 15, 12 ). Điều này áp dụng qua việc giúp đỡ những người nghèo khó, an ủi những người đang gặp khó khăn, và chia sẻ cho cộng đồng đang cần đến tình thương của mình. 3. Hiền lành và khiêm nhường: là ứng xử một cách nhẹ nhàng, không gây ra xung đột, luôn lắng nghe và tôn trọng ý kiến của người khác, và tìm cách giải quyết mọi vấn đề một cách dịu dàng và an bình. Tuy nhiên, hiền lành và khiêm nhường không đồng nghĩa với sự yếu đuối, mà chính là một cách để thể hiện sự mạnh mẽ và tự tin của bản thân thông qua sự kiểm soát cảm xúc và nhận thức. 4. Sống công bằng và bác ái: cố gắng sống công bằng với mọi người, không phân biệt đối xử, không chỉ dựa trên sự thỏa thuận mà dựa trên giá trị cốt lõi là phẩm giá con người, và thực hiện các hành động bác ái, như viếng thăm người đau yếu, quyên góp cho từ thiện, chia sẻ Chúa cho anh em, tham gia phục vụ cộng đồng dân Chúa cũng như cộng đồng xã hội. 5. Kiên nhẫn tha thứ: sống theo Tin Mừng đòi hỏi lòng kiên nhẫn và sẵn lòng tha thứ, dù trong những hoàn cảnh khó khăn nhất. Tha thứ đến cùng, tha thứ không giới hạn cho những lỗi lầm của người khác. Lý do chính mà chúng ta làm là vì Chúa đã tha thứ cho mỗi người chúng ta. 6. Chia sẻ niềm vui: sống vui tươi, dịu dàng với mọi người qua lối sống khó nghèo, tìm kiếm sự hài lòng, phấn khởi trong những điều giản dị và ý nghĩa của cuộc sống. 7. Sống Tin Mừng trong đời thường là chúng ta làm chứng về một Đức Giêsu con Thiên Chúa đã xuống trần gian, chịu chết và sống lại cho chúng ta được sống và được sống lại. Chứng nhân không chỉ trong một giai đoạn của cuộc sống nhưng là một đời Kitô hữu được kết hiệp với Chúa, bằng nguồn sống của Chúa. Qua hành động và lời nói hàng ngày, qua cách sống và tương tác với tha nhân làm sao bày tỏ được tình yêu và lòng thương xót của Chúa. Những suy tư Sống Tin Mừng trong đời thường không chỉ là làm một số việc đạo mà là cách sống thánh thiện và yêu thương mọi người xung quanh. Mỗi người cần gìn giữ và phát triển niềm tin của mình để sống đúng lý tưởng và hạnh phúc theo tinh thần của Tin Mừng. Sống Tin Mừng trong đời thường không phải lúc nào cũng dễ dàng, mỗi người giáo dân có cách sống Tin Mừng trong cuộc sống của họ một cách khác nhau. Nhiều giáo dân chưa mở lòng nên không nhận được ơn Chúa. Họ sống khép kín, không tham gia vào giáo xứ hoặc nếu có cũng chỉ là hình thức. Có những người không biết về Tin Mừng hoặc có biết qua loa thì cũng chưa áp dụng Tin Mừng vào cuộc sống, có khi còn không dám cho người khác biết mình là người Công Giáo, không dám sống đức tin của mình. Những người giáo dân khác sống theo lời dạy của Chúa Giêsu và thực hành lòng nhân từ, yêu thương và tha thứ. Trong khi một số khác có thể gặp khó khăn trong việc áp dụng những giá trị đạo đức từ Tin Mừng vào cuộc sống hàng ngày. Tuy nhiên, quan trọng nhất là họ luôn cố gắng học hỏi và phát triển trong đức tin của mình để trở thành những người sống theo Tin Mừng mẫu mực. Được như thế là giáo dân cũng đang tham gia vào đời sống của Giáo Hội, dần dần góp phần xây dựng một Giáo Hội hiệp hành và một thế giới tốt đẹp hơn. Hồi Tâm 1/ Làm cách nào giúp mọi người Công Giáo, hay ít nhất là những người đi lễ mỗi tuần có thể học, suy niệm và cầu nguyện với Tin Mừng? Nếu đang làm việc trong Hội đồng mục vụ giáo xứ hay trong các Hội đoàn Công giáo tiến hành, bạn sẽ làm gì? 2/ Chứng nhân Tin Mừng trong đời thường là phương cách hữu hiệu giúp người khác dễ dàng sống theo gương, bạn có thể chia sẻ chứng nhân trong những buổi họp, hay những lúc riêng tư cho những người chung quanh không? 3/ Trong đời thường, bạn làm gì để bày tỏ lòng yêu mến Chúa qua tha nhân? BÀI 2: SỐNG TIN MỪNG TRONG ĐỜI THƯỜNG – Lm. Antôn Hà Văn Minh Qua Bí tích Rửa tội, người tín hữu được dự phần vào sứ vụ của Chúa Giêsu. Sứ vụ đó chính làm cho mọi người nhận biết ơn cứu độ của Thiên Chúa Cha tỏ bày cho nhân loại qua Đức Giêsu Kitô. Thi hành sứ vụ chính là sống Tin Mừng giữa lòng thế giới, cụ thể trong cuộc sống thường ngày của mỗi tín hữu. Công Đồng nói về cảnh sống trần thế của giáo dân bằng cách trình bày cảnh sống ấy, trước tiên, như là môi trường trong đó họ được Thiên Chúa mời gọi: “Đó là nơi Thiên Chúa gọi họ” (LG số 31). Và thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã giải nghĩa: “nơi” được trình bày bằng những hạn từ có tính cách năng động: giáo dân sống giữa trần gian, nghĩa là dấn thân vào tất cả cũng như từng công việc và bổn phận của trần thế, giữa những cảnh sống thường ngày trong gia đình và ngoài xã hội, tất cả những điều đó như dệt thành cuộc sống của họ. Đó là những con người có một đời sống bình thường trong trần gian, học hỏi, làm việc, thiết lập những tương quan bạn bè, xã hội, nghề nghiệp, văn hóa”[1]. Sống Tin Mừng là gì? Trích dẫn Lời Chúa: “Chính anh em là muối cho đời… là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,13–14), Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã trình bày: “Lời mời gọi của Chúa Giêsu chính là sứ mạng của người tín hữu sống trong thế giới này. Người Kitô hữu không coi thế gian là địa ngục, là nơi giam cầm của những nỗi thống khổ, cũng như không coi thế gian là hạnh phúc vĩnh cửu cho cuộc đời mình, nhưng là nơi để Thiên Chúa tỏ lộ tình yêu của Ngài qua sự cộng tác của con người, và là nơi để con người được thực thi ơn gọi và sứ mạng Kitô hữu của mình trong một tình yêu dấn thân và thánh hóa thế giới: Tham dự vào lãnh vực trần thế, là phận vụ phát xuất từ bản tính nội tại và sứ mạng của mình”[2]. Vì thế, sống Tin Mừng chính là huấn luyện bản thân nhuần thấm Tin Mừng để có thể thực thi ơn gọi của mình cách trọn hảo. Thiên Chúa muốn người tín hữu trở thành muối, thành ánh sáng cho thế giới bằng chính đời sống Tin Mừng của mình, hay nói cách khác người tín hữu dấn thân phục vụ để trần gian nhận biết tình yêu của Ngài dành cho nhân loại, một tình yêu trọng đại đã được thánh Gioan diễn tả: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời” (Ga 3, 16). Nhưng để có thể sống Tin Mừng, dấn thân phục vụ cho Tin Mừng, đòi hỏi người tín hữu phải là người thấm đẫm Tin Mừng. Chỉ là men Tin Mừng khi người hữu phải đầy “chất” Tin Mừng. Vì thế, sống Tin Mừng trước tiên phải kết hợp mật thiết với Đức Kitô, vì Ngài chính là Tin Mừng. Vì thế, cuộc gặp gỡ với Tin Mừng là nền tảng cho việc sống Tin Mừng. Điều đó được thực hiện trước tiên chính là cuộc gặp gỡ Lời qua Kinh Thánh. Công đồng Vatican II trong hiến chế Mạc khải đã minh định: Chúa Cha muốn gặp gỡ con cái mình và ngỏ lời với họ qua Sách Thánh. Như vậy, tiếp cận với Lời Chúa, đọc Thánh Kinh là đi vào một cuộc gặp gỡ, tham gia một cuộc đối thoại với Thiên Chúa[3]. Quả thật việc đọc Thánh Kinh là cách thế tuyệt hảo để có được cuộc đối thoại với Thiên Chúa, vì “chúng ta ngỏ lời với Ngài khi cầu nguyện, và chúng ta nghe Ngài nói lúc chúng ta đọc các sấm ngôn thần linh”[4]. Trong Tông Thư “Khởi Đầu Ngàn Thứ Ba”, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II viết: “Lời Chúa phải trở nên một sự gặp gỡ ban sự sống, theo truyền thống xa xưa và luôn vững chắc về việc đọc Sách Thánh, cho phép rút ra từ bản văn Thánh Kinh Lời Hằng Sống, là lời chất vấn, hướng dẫn và hình thành cuộc sống chúng ta” (số 39)[5]. Người tín hữu chỉ có thể là men Tin Mừng, khi đời sống được đặt trên nền tảng Lời Chúa, không thường xuyên cầu nguyện với Lời Chúa không thể nào hoán cải cuộc đời để có thể làm cho đời mình trở thành men Tin Mừng. Dựa vào hoạt động của Giáo Hội tiên khởi được tường thuật trong sách Tông đồ công vụ, Đức Thánh cha Phanxicô nói: “Chúng ta khám phá động cơ mạnh mẽ của việc loan báo Tin Mừng chính là những buổi quy tụ cầu nguyện, nơi những người tham gia cảm nghiệm cách sống động sự hiện diện của Chúa Giêsu và được Chúa Thánh Thần đánh động. ...Lời cầu nguyện truyền lan ánh sáng và sự hăng hái: ân sủng của Chúa Thánh Thần làm nảy sinh trong lòng họ sự nhiệt thành”[6]. Dĩ nhiên việc tiếp cận Lời Chúa phải gắn chặt với Thánh Thể. Đức Thánh cha Phanxicô đã nói mạnh mẽ: Chỉ trong sự tôn sùng Thánh Thể, chỉ trước mặt Chúa, hương vị và sự say mê truyền giáo mới có thể được phục hồi. Lòng tôn sùng Thánh Thể là động lực giúp cho chúng ta vượt thắng những phong ba bão táp của cuộc đời, đặc biệt đó là nguồn khích lệ cho những người hết lòng chia sẻ Tin Mừng, chính vì trong Bí tích Thánh Thể, “chúng ta gặp gỡ Đấng đã ban mọi sự cho chúng ta” và đến lượt mình, chúng ta trở nên có khả năng chia sẻ tình yêu đó với người khác[7]. Để có thể sống Tin Mừng hầu trở thành men của Tin Mừng, chúng ta cần phải liên kết chặt chẽ với Chúa Kitô qua Lời Chúa, Thánh Thể và cầu nguyện và sống tình huynh đê. Bốn yếu tố: Lời Chúa, tìm kiếm tình hiệp thông huynh đệ, Thánh Thể và cầu nguyện, theo Đức Thánh Cha Phanxicô, chính là tiêu chuẩn để phân định một sự việc. Bất cứ trường hợp nào thiếu những yếu tố này điều thiếu tính Giáo hội, không phải của Giáo hội, yếu tố quan trọng để chứng thực chúng ta thực sự là Men của Tin Mừng.[8] Sống Tin Mừng giữa đời thường Nhìn vào thực tế, trăn trở lớn của Giáo Hội Việt Nam là vấn đề Loan Báo Tin Mừng. Thật vậy, con số tín hữu Việt Nam đến nhà thờ dâng lễ mỗi Chúa Nhật có thể nói cho đến lúc này vẫn đáng tự hào, thế nhưng niềm tự hào này có thực sự là niềm vui đích thực không? Bởi nhìn vào cánh đồng truyền giáo mỗi địa phương vẫn còn ngổn ngang, vẫn còn có qua nhiều người chưa được tiếp cận với Tin Mừng, vẫn còn đó nhưng lương dân là hàng xóm của các gia đình Công giáo, nhưng họ chẳng nghe nói về Chúa Giêsu, không một lần tiếp cận được với Tin Mừng. Câu trả lời được tìm thầy nơi lối sống của người tín hữu Công giáo. Là men Tin Mừng, nhưng họ lại không thể hiện lối sống Tin Mừng ngay trong môi trường mình sinh sống. Họ tách rời đức tin và cuộc sống thường ngày, họ đóng khung lối sống Tin Mừng trong nhà thờ, họ không làm cho men Tin Mừng được dậy lên trong người môi trường mình sống. Cha mẹ vẫn đi dâng lễ ngày Chúa nhật, nhưng chưa một lần hướng dẫn con cái về đời sống đức tin. Người tín hữu vẫn thường xuyên gặp gỡ bạn bè là lương dân, nhưng chưa một lần họ nghe về Chúa Giêsu, nhiều khi còn tệ hơn, để làm vui lòng bạn bè lương dân, người Công Giáo sẵn sàng bỏ đi lễ Chúa nhật; ngoài phố chợ, những chủ cửa hàng Công Giáo vẫn ngần ngại thể hiện lối sống Tin Mừng để giữ đức công bình và đức yêu thương... Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhấn mạnh: “Người tín hữu không được mời gọi rời bỏ vị thế họ đang sống nơi trần gian. Thực vậy, Bí tích Thánh Tẩy không kéo họ ra khỏi trần gian, như thánh Phaolô đã nhấn mạnh: ‘Thưa anh em, khi được kêu gọi ở địa vị nào, mỗi người cứ ở địa vị đó trước mặt Thiên Chúa’ (1 Cr 7,24); trái lại, Ngài trao cho họ một ơn gọi có liên hệ đích thực với tình huống của họ trong trần gian: thực vậy, giáo dân được ‘Thiên Chúa kêu gọi để, dưới sự hướng dẫn của tinh thần phúc âm, như men từ bên trong, họ thánh hóa thế giới bằng việc thi hành những nhiệm vụ của mình; và như thế, với lòng tin cậy mến sáng ngời, nhất là với chứng tá đời sống, họ tỏ lộ Chúa Kitô cho kẻ khác’ (Tông huấn Người Tín hữu Giáo dân, số 15) Cha Mến kể câu chuyện: Chứng nhân trong đời thường như sau: Nhà giáo dục vĩ đại Booker T. Washington có viết như sau trong cuốn tự thuật mang tựa đề: “Từ ách nô lệ đi lên” của ông: “Càng lớn tôi càng tin chắc rằng, không một sự giáo dục nào có thể gặt hái được từ sách vở, hay từ những dụng cụ đắt tiền, mà có thể sánh ví được với những gì ta có thể gặt hái được, do tiếp xúc với các bậc vĩ nhân”. Cách đây ít lâu, một phụ nữ Ấn độ giáo đã trở lại Công giáo, sau một thời gian nghe rao giảng Lời Chúa. Bà chịu nhiều gièm pha, đay nghiến từ người chồng và bao người thân, do việc bà trở lại đạo. Có lần cha xứ hỏi bà: “Khi chồng con nổi giận và hành hạ con, thì con làm gì”? Bà đáp: “Thưa Cha, con cố gắng nấu ăn ngon hơn. Khi ông than trách, con lau chùi nhà sạch hơn. Khi ông ăn nói cộc cằn, con trả lời ôn tồn nhỏ nhẹ. Con cố gắng để chứng tỏ cho ông ta thấy: Khi con trở lại đạo Chúa, con phải là người vợ và người mẹ tốt hơn”. Một thời gian sau, chính ông chồng cũng xin trở lại đạo Công giáo, không phải vì lời giảng của cha xứ, cho bằng chính nhờ gương sáng sống đạo của bà vợ đạo đức của ông.[9] Sắp tới đây Đức Thánh cha Phanxicô sẽ phong thánh cho chân phước Carlo Arcutis, một vị thánh trẻ, được gọi vị thánh thuộc thế hệ Y. Thánh nhân có gì đặc biệt? Không có gì đặc biệt ngoài việc ngài sống Tin Mừng giữa đời thường. Đức hồng y Vallini trong bài giảng lễ phong chân phước đã nói về Carlo Arcutis như sau: Carlo có lòng yêu mến Thánh Thể và gắn bó với Thánh Thể cách đặc biệt. Chúa Giêsu là Bạn, là Thầy, là Đấng Cứu Độ và là sức mạnh cho cuộc sống của Acutis và là động lực của mọi việc cậu làm. Từ đó, Carlo mong muốn mãnh liệt đưa người khác đến với Chúa và cậu làm điều này trên hết bằng gương mẫu cuộc sống. Carlo dùng mọi cách, cả cách thức hiện đại, với tài năng về tin học Chúa ban, để gặp gỡ và loan truyền các giá trị Kitô giáo cho người khác[10]. BÀI 3: BIẾN ĐỔI THẾ GIỚI TỪ BÊN TRONG - Lm. Tôma Vũ Ngọc Tín, S.J. Đời sống Kitô hữu giữa lòng trần thế như những hạt muối tinh tế thấm vào lòng đời, lặng lẽ làm biến đổi thế giới, như men trong bột làm dậy lên cả khối bột. Hành trình hy vọng nhưng cũng đầy thách đố này đòi hỏi sự biến đổi sâu sắc từ bên trong tâm hồn và đời sống mỗi người tín hữu. Khi mỗi người thay đổi từ nội tâm, họ trở thành ánh sáng lan tỏa, chiếu rọi khắp nơi, góp phần biến đổi thế giới bằng chính đời sống đức tin của mình. Theo Sắc Lệnh về Tông Đồ Giáo Dân, linh đạo tông đồ giáo dân không chỉ là sống đức tin một cách cá vị, mà còn là tham gia tích cực vào sứ mạng của Giáo Hội. Giáo dân được mời gọi trở thành những tông đồ giữa đời, mang Tin Mừng đến mọi nơi (Apostolicam Actuositatem-AA, 4). Linh đạo này giúp mỗi người giáo dân nhận ra rằng, họ có một vai trò đặc biệt trong việc xây dựng Nước Trời nơi trần thế, không chỉ qua lời nói mà còn qua hành động cụ thể trong cuộc sống thường ngày: “Bản chất riêng biệt của người giáo dân là sống giữa đời và làm việc đời nên chính họ được Thiên Chúa mời gọi để một khi tràn đầy tinh thần Kitô giáo, họ làm việc tông đồ giữa đời như men trong bột” (AA 2). Sống linh đạo tông đồ giáo dân như thế, trước hết người giáo dân gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu qua Lời Chúa và Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể là tâm điểm đời sống người tín hữu, nuôi dưỡng mỗi người trong hành trình Kitô hữu giữa đời, giúp mỗi người kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu và dấn thân phục vụ sứ mạng của Người: “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu, đó không chỉ là lời mời gọi, mà còn là một yêu cầu thiết yếu, để mỗi Kitô hữu có thể sống đức tin và thực thi sứ mạng của mình. Tham dự Thánh lễ, cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa,… là những phương thế giúp giáo dân nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của mình. Cầu nguyện giúp người giáo dân sống tình thân mật thiết với Chúa, trong khi suy niệm Lời Chúa giúp họ hiểu rõ hơn về ý nghĩa và sứ mạng của mình như được Chúa mời gọi. Kết hiệp với Chúa Giêsu qua Thánh Thể và Lời Chúa là những phương thế sống động để mỗi người trở nên men trong bột, biến đổi thế giới từ bên trong. Từ đời sống gắn kết với Chúa Giêsu, người giáo dân sống đức tin của mình qua những hành động cụ thể trong gia đình, nơi làm việc, và cộng đồng. Điều này có thể bao gồm việc tham gia vào các hoạt động xã hội, hỗ trợ người nghèo, bảo vệ môi trường, và tham gia vào các phong trào xã hội nhằm thúc đẩy công lý và hòa bình. Ý nghĩa của việc trở thành men trong bột là mỗi Kitô hữu đều có thể đóng góp một phần nhỏ nhưng quan trọng vào việc biến đổi thế giới xung quanh. Điều này đòi hỏi mỗi người phải sống đời sống đức tin một cách chân thật và nhiệt thành. Tình yêu và công lý là hai yếu tố không thể thiếu trong linh đạo giáo dân. Mỗi giáo dân được mời gọi sống yêu thương qua những hành động cụ thể, đồng thời nỗ lực thực thi công lý và xây dựng hòa bình. Các hoạt động xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc thực hành tông đồ giáo dân. Tham gia vào các hoạt động này không chỉ giúp mỗi người thực thi sứ mạng truyền giáo, mà còn góp phần xây dựng một xã hội công bằng và yêu thương hơn. Sau cùng, qua đời sống đức tin và dấn thân tông đồ, mỗi người góp phần xây dựng và phát triển cộng đoàn giáo xứ. Qua việc tham gia tích cực vào đời sống giáo xứ, giáo dân không chỉ đóng góp vào sự phát triển của cộng đoàn mà còn tạo ra một môi trường yêu thương và hiệp nhất. Một cộng đoàn yêu thương sẽ là nền tảng vững chắc để mỗi giáo dân có thể thực thi sứ mạng truyền giáo của mình một cách hiệu quả. Tóm lại, hành trình Kitô hữu giữa lòng trần thế là trở thành muối và men, âm thầm, trung kiên, nhẫn nại thấm vào mọi ngóc ngách của cuộc sống, làm biến đổi thế giới từ nội tại. Sống đức tin trong đời thường, thể hiện qua những hành động cụ thể trong gia đình, nơi làm việc và cộng đồng, là cách mỗi Kitô hữu trở thành men trong bột, biến đổi thế giới bằng tình yêu và công lý. Kết hiệp với Chúa qua cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa, cùng tham gia vào các hoạt động xã hội, là nền tảng để mỗi giáo dân góp phần xây dựng một xã hội công bằng và yêu thương, biến đổi thế giới từ bên trong. Hồi tâm 1/ Nhìn lại kinh nghiệm sống đạo, tôi thấy mình trở nên ánh sáng và muối và men trong môi trường sống như thế nào? Tôi có thể làm gì để thẩm thấu và lan tỏa tinh thần Kitô giáo trong gia đình, nơi làm việc, và cộng đồng của mình? 2/ Tôi cảm nghiệm thế nào về ơn gọi và sứ mạng Kitô hữu khi cầu nguyện và suy niệm lời Chúa? Làm thế nào tôi có thể biến những cảm nghĩ thiêng liêng ấy thành hành động cụ thể để xây dựng Nước Trời ngay cuộc sống đời thường của tôi? 3/ Khi đối diện với những thách thức trong cuộc sống và xã hội, tôi trải nghiệm thế nào về tình yêu và công lý như men trong bột, làm dậy lên sự thay đổi tích cực? Tôi có sẵn sàng dấn thân hơn nữa để trở thành người tông đồ truyền giáo giữa đời, lan toả tình yêu và công lý trong môi trường sống thường ngày? BÀI 4: LÒNG CAN ĐẢM VÀ SỰ KHÔN NGOAN KHI DẤN THÂN VÀO ĐỜI SỐNG TRẦN THẾ - Lm. Tôma Vũ Ngọc Tín, S.J. Lòng can đảm và sự khôn ngoan là hai phẩm chất quan trọng mà mỗi Kitô hữu cần có để sống và làm chứng cho đức tin trong đời sống trần thế. Lòng can đảm giúp chúng ta vượt qua những thử thách và khó khăn, dám đứng lên bảo vệ sự thật và công lý. Sự khôn ngoan, hướng dẫn chúng ta hành động một cách sáng suốt, biết phân định phải trái, đúng sai và chọn lựa đường hướng đẹp lòng Chúa. Trong một thế giới đầy biến động và thách thức, lòng can đảm và sự khôn ngoan trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Đối với giáo dân, hai phẩm chất này không chỉ giúp họ sống đức tin một cách mạnh mẽ và vững vàng mà còn đóng góp tích cực vào việc xây dựng một xã hội công bằng và nhân ái hơn. Lòng can đảm là một chủ đề được nhắc đến nhiều trong Kinh Thánh: “Mạnh bạo lên, can đảm lên! Đó chẳng phải là lệnh Ta đã truyền cho ngươi sao? Đừng run khiếp, đừng sợ hãi, vì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, sẽ ở với ngươi bất cứ nơi nào ngươi đi tới” (Gs 1,9). Lời khích lệ này không chỉ dành cho Thủ lãnh Giôsuê mà còn dành cho tất cả chúng ta, những người đang sống và làm chứng cho đức tin. Lòng can đảm giúp chúng ta đứng vững trước những thử thách, bảo vệ niềm tin và dám sống theo những giá trị Tin Mừng trong một thế giới đầy cám dỗ, bạo loạn và bất công. Sự khôn ngoan cũng là một đức tính quan trọng được Kinh Thánh đề cao: “Nếu ai trong anh em thiếu đức khôn ngoan, thì hãy cầu xin Thiên Chúa, Người sẽ ban cho. Vì Thiên Chúa ban cho mọi người cách rộng rãi, không quở trách” (Gc 1,5). Sự khôn ngoan giúp chúng ta biết phân định đúng sai, tốt xấu, lựa chọn đường hướng đẹp lòng Chúa và hành động một cách sáng suốt trong mọi hoàn cảnh. Nó không chỉ là tri thức mà còn là khả năng ứng dụng tri thức đó vào cuộc sống một cách đúng đắn và hiệu quả tốt đẹp. Mỗi người vẫn thường đối diện với những thách đố và nghịch cảnh trong đời sống. Điều quan trọng là cách chúng ta đối diện và vượt qua chúng. Cuộc sống trần thế có muôn vàn cảnh huống mà ở đó, người giáo dân thể hiện lòng can đảm và sự khôn ngoan khi luôn tin cậy Chúa và đối diện khó khăn, chẳng hạn như việc bảo vệ sự thật và công lý trong môi trường làm việc, nơi có thể gặp phải những áp lực và cám dỗ. Lòng can đảm giúp chúng ta không lùi bước, trong khi sự khôn ngoan giúp chúng ta chọn lựa cách hành động phù hợp và hiệu quả. Đời sống đức tin không dừng ở việc tham dự các cử hành phục vụ mà còn sống theo những giá trị Kitô giáo trong đời sống thường ngày. Giáo dân có thể thể hiện lòng can đảm và sự khôn ngoan bằng cách làm gương sáng trong môi trường làm việc, trong gia đình, và trong cộng đồng. Những hành động cụ thể như giúp đỡ người khó khăn, bảo vệ môi trường, và tham gia vào các hoạt động từ thiện đều là những cách thể hiện đức tin một cách sống động và thực tế. Trong nhiều hoàn cảnh, lòng can đảm và sự khôn ngoan của người giáo dân có thể thể hiện trong vai trò lãnh đạo cộng đồng. Trong hoàn cảnh đó, lòng can đảm và sự khôn ngoan không chỉ giúp giáo dân đối mặt với những thách thức mà còn giúp họ hành động một cách sáng suốt và hiệu quả. Sau cùng, giáo dục con cái về lòng can đảm và sự khôn ngoan là một nhiệm vụ quan trọng của các bậc cha mẹ Công Giáo. Giáo dân có thể giúp con cái hiểu và thực hành hai phẩm chất này qua gương sáng trò chuyện thường ngày trước những vấn đề thực tế trong đời sống, giúp con cái phát triển lòng can đảm và sự khôn ngoan trong cuộc sống. Tóm lại, lòng can đảm và sự khôn ngoan là những phẩm chất không thể thiếu để mỗi Kitô hữu sống đức tin trong đời sống trần thế. Những phẩm chất này hằng giúp chúng ta vượt qua thử thách, bảo vệ sự thật và công lý, và hành động minh bạch, tư duy độc lập sáng suốt, mang lại ích lợi chính đáng cho bản thân và cộng đồng. Trong một thế giới đầy biến động, giáo dân cần lòng can đảm để kiên vững vượt qua những trở ngại và sự khôn ngoan để phân định và lựa chọn đúng đắn. Đó là hai phẩm chất giúp người giáo dân dấn thân sống đức tin giữa lòng trần thế, góp phần xây dựng đời sống xã hội thấm đượm Tin Mừng. Hồi tâm 1/ Trong những tình huống cụ thể nào, tôi thường cần đến lòng can đảm để bảo vệ sự thật và công lý? Tôi đã từng phản ứng ra sao và kết quả như thế nào? 2/ Làm thế nào tôi có thể áp dụng sự khôn ngoan để phân định đúng sai và đưa ra quyết định sáng suốt trong các hoạt động và công việc tại giáo xứ của mình? 3/ Nhớ lại một trải nghiệm khi lòng can đảm và sự khôn ngoan của người Công giáo đã tạo ra sự khác biệt tích cực trong cộng đồng xã hội? Tôi cảm nghĩ thế nào về sự dấn thân của người giáo dân, với lòng can đảm và khôn ngoan, vào đời sống xã hội? ________ [1] Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Tông Huấn Người Tín Hữu Giáo dân (Christifideles Laici), số 15. [2] Nt. [3]X. Hiến chế Mạc Khải (Dei Verbum), số 21 [4] X Hiến chế Mạc Khải (Dei Verbum), số 25. [5] Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông thư Ngàn Năm Thứ Ba (Millennio Adveniente), số 39> [6] Đức Phanxicô, buổi tiếp kiến chung trực tuyến sáng thứ Tư 25/11/2020), nguồn Vatican News. [7] Nguồn: www.ncregister.com/commentaries/without-adoration-there-s-no-evangelization [8] Nguồn: www.vaticannews.va/vi/pope/news/2020-11/ [9] Nguồn: https://linhmucmen.com/news/kho-sach-quy/chung-nhan-giua-doi-thuong [10] Nguồn: https://www.vaticannews.va/vi/church/news/2020-10/le-phong-chan-phuoc-carlo-acutis.html
ỦY BAN GIÁO DÂN - THƯỜNG HUẤN THÁNG 07/2024: TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN - MUỐI ...
LINH ĐẠO DUNG NẠP
LINH ĐẠO DUNG NẠP