Thứ tư, ngày 03 tháng 07 năm 2024 | 04:36 PM - Giới thiệu | Ý nghĩa logo
Tài liệu

PHỤC SINH & LUÂN HỒI.
LUÂN HỒI, MỘT NIỀM TIN HẤP DẪN LÒNG NGƯỜI

 


BA CÂU TRẢ LỜI CHO MỘT CÂU HỎI DUY NHẤT.
   Để trả lời câu hỏi điều gì xảy ra bên kia bến bờ sự chết,có ba câu trả lời. Câu trả lời đầu tiên ngắn gọn:”Chẳng có gì!”.Hoặc người ta muốn nói rằng sự chết là dấu chấm hết vĩnh viễn và rằng phía bên kia chẳng còn lại chút gì về con người;hoặc người ta cho rằng chúng ta không biết gì và vì thế không thể nói gì về thế giới bên kia. Việc hoàn toàn không tin hoặc chủ nghĩa bất-khả-tri có một điểm chung: họ trả lời bằng một sự trống không.
    Các Kitô-hữu đưa ra một câu trả lời kiên định và nhất quán hơn. Họ nói về sự Phục Sinh. Cái chết không có nghĩa là sự kết thúc của hữu rhể nhân loại. Nó vẫn tiếp tục sống bên cạnh Thiên Chúa là Đấng đưa họ vào mãi mãi trong cuộc cuộc sống mới cùng với một thân xác được tôn vinh.: tất cả những điều nầy vì cái chết và sự phục sinh của Đức Kitô, Đấng không ở lại trong mồ, nhưng quyền uy Thiên Chúa đã làm cho Người về lại cõi sống. Tuy nhiên sự phục sinh khác về bản thể với cuộc thức dậy những kẻ chết,như những người mà các Phúc Âm tường thuật lại về Lazarọ,về anh thanh niên ở Naim hoặc về con gái Ông Giairô. Đấng sống lại từ nay só một thân xác bất diệt và sống ngoài thời gian của con người.
     Cho tới thời gian gần đây,niềm tin nầy vào sự phục sinh nắm giữ gần như độc quyền trong các vùng của chúng ta.Tất cả những gì không phải là hoàn toàn vô thần, đều ít hoặc nhiều xác tín vào niềm tin ở sự sống vĩnh cửu. Bây giờ thì không còn như vậy nữa. Các thống kê cho thấy có 20% người thời nay ở Châu Âu có một sự tin tưởng khác biệt: tin vào sự luân hồi. Phác thảo tổng quát,sự tin tưởng nầy được diễn đạt như sau: sau khi chết, hữu thể nhân loại trở về lại cuộc sống dương-thế,nhưng là trong một thân xác khác,tiến trình nầy thay đi đổi lại một số lần không thể xác định được.Như vậy có khả năng “làm lại cuộc đời”.
    Thoạt nhìn,người ta có thể nghĩ ngay: ở vào thời đại khoa học kỹ thuật của chúng ta,ai lại còn có thể rơi vào một sự tin tưởng ấu trĩ nghờ nghệch như vậy?
    Sự thật, đối với một số người thời nay,sự tin tưởng nầy bao gồm một sự tiến bộ. Trước kia họ không tin vào điều gì hết,còn bây giờ họ lại có được xác tín rằng có không ít điều sau khi chết: một dãy tiếp nối những luân hồi.
“TỪ NAY,TÔI TIN VÀO THẾ GIỚI BÊN KIA”
     “Từ lâu,tôi là người theo chủ nghĩa duy vật.Tôi tin vào sự thành công,thành đạt,tiền tài. Và  cuộc sống làm tôi thoả mãn trong khuôn khổ nầy.Tôi rất ít nghĩ về cái chết. Khi tôi chợt nghĩ đến, thì tôi coi nó như một điều dữ không thể tránh né được, không có phương thuốc giải trừ. Nếu trước sau gì cũng phải qua cửa ải đó,thì tất nhiên là càng trễ càng tốt….Nhưng rồi một ngày tôi chuyện vãn với một đồng nghiệp và chúng tôi đã đề cập đến những chủ đề siêu hình. Các Bạn hiểu tôi muốn nói gì rồi: những vấn nạn lớn lao của cuộc đời. Người bạn đối thoại nói với tôi rằng riêng anh ta,anh ta tin vào luân hồi,và anh ta đã nói về nó cho tôi nghe. Từ hôm ấy,tôi thường suy nghĩ đến cuộc nói chuyện nầy. Và tôi ngày càng tin chắc rằng ý tưởng luân-hồi dựa trên những nền tảng vững chắc. Làm sao có thể tưởng tượng được rằng cuộc đời chúng ta ngừng lại ở nấm mộ? Vâng,từ nay tôi tin vào cuộc sống bên kia thế giới và tầm nhìn của tôi được mở rộng ra. Tôi có cảm tưởng bước vào trong chu-kỳ vĩ đại của cuộc đời. Tôi giữ phần được chia cho tôi trong bản giao hưởng vĩ đại của lịch sử nhân loại, lịch sử vốn khởi sự từ lâu trước tôi và sẽ còn tiếp diễn lâu mãi sau tôi. Tôi ngừng ở đây bản sao thư nầy của một doanh nhân,toàn tâm cống hiến cho công việc,hoàn toàn tỉ mỉ trong lãnh vực nghề nghiệp. Người ấy đã thay đổi. Và sự xác tín mới của mình,người ấy đặt cho cái tên là “đức tin”.
NÉT QUYẾN RŨ CỦA PHƯƠNG ĐÔNG.
     Những gì được mô tả trên đây chỉ là hình thức thông thường của niềm tin vào sự luân hồi,như nó đang phát triển trong thế giới Phương Tây của chúng ta. Đó là một biến thể khá thô kệch của tín ngưỡng tinh lọc về luân hồi như là nó được biết đến từ nhiều thế kỷ qua trong Ân-giáo và Phật-giáo,nơi người Hy Lạp và về sau,trong Thế Kỷ Ánh Sáng.
     Lúc đầu, Ấn Độ không biết đến luân-hồi.Học thuyết Luân Hồi chỉ xuất hiện vào khoảng năm 750 trước CN. Khi con người chết đi, chỉ còn lại hữu-thể sâu xa nhất của nó,cái “nó”. Cái nầy được liên kết bởi luật karma, nghĩa là,nói một các đơn giản,bởi luật thưởng phạt tùy theo các công việc.Vì vậy người đã khuất rất thường khi bị buộc phải sống lại một cuộc sống trên trái đất,và cái ”nó” của người ấy sẽ ở trong một thân thể khác. Quy trình nầy  tiếp tục mãi cho tới cái “nó” tốt nhất có thể tự giải thoát mình hoàn toàn. Bao lâu các hành vi của người ấy còn nghiêng cán cân, thì người ấy còn phải tiếp tục nữa. Ở đây,luân hồi hẳn không phải là một tin tốt lành gì.Trái lại: người ta muốn thóat khỏi nó với một sự khôn-ngoan ngày càng lớn hơn. Cuối cùng, con người hy vọng có thể tan biến một ngày nào đó vào cái linh hồn lớn của vũ trụ.”Như nước sông biến tan vào biển cả, mất đi danh tính và hình thể,cũng vậy người khôn ngoan,một khi được giải thóat khỏi danh tính và hình thể riêng mình, đi vào trong lòng sự khôn ngoan thượng trí vượt trên tất cả”.
     Ít lâu về sau, ở thế kỷ VI trước CN, Phật-giáo chuyển hướng, nhấn mạnh về một linh đạo khổ hạnh. Không còn cái “nó” hoặc cái “tôi” ở đây nữa: tất cả trở thành phù dù và chúng ta chỉ tồn tại bởi một giòng tư duy ,hồi ức, cảm giác,hành vi ý chí không ngưng nghỉ. Đến nỗi người ta có thể tự hỏi đó còn là luân hồi đích thực nữa chăng: quả thật không còn cái “nó” liên tục trở lại cuộc hiện hữu. Cho dù thế nào đi nữa,Phật-giáo cố gắng bằng sự khổ hạnh làm tắt mọi ước ao tự nâng mình lên tới trạng thái Niết Bàn.
    Tóm lại,chúng ta có thể nói rằng hai khái-niệm nầy tương đối hóa sự hiện-hữu cá thể vì lợi ích của thực thể vũ trụ. Người Ấn-giáo tiến về sự kết hợp với sự tròn đầy của hữu thể,Phật giáo thì tiến về niết-bàn.Luân hồi,cả hai đều xem nó đúng ra là  một sự chúc dữ,một sự  nô lệ phải dứt bỏ. Cách nhìn nhận sự việc nầy xa rời cách thông thường ở phương Tây. Cũng khác hoàn toàn là quan-niệm ví dụ của G.Lessing (1729 – 1781). Hơn nữa ông ta không tham chiếu phương Đông. Cuộc sống mới không phải là một sự thưởng phạt đối với tiền kiếp;nó là một cơ hội tốt để trở nên hòan thiện,một cơ may để có được thêm nhiều kinh nghiệm và hiểu biết hơn. Một lần luân hồi tạo thành một bước tiến về phía trước để đạt tới sự hoàn thiện cao hơn. Bởi vậy luân hồi không còn là một lời chúc dữ,một hình phạt hay là một số kiếp. Chính trong cùng tinh thần đó mà Helena Blavatsky rồi sau đó là Rudolf Steiner đã viết: những cuộc luân hồi đa dạng là một chuyển động đi lên trong tiến trình hiện-thực-hóa bản thân. Cứ mỗi lần [luân hồi] như thế,hữu thể con người trở thành chín chắn hơn,phong phú hơn và hoàn hảo hơn,trở thành chính mình hơn. Người ta tìm thấy quan niệm na ná như vậy trong Thời Mới.Quả thật, [phong trào] Thời Mới cho rằng con người được hưởng lợi từ chuyển động đi lên của vũ trụ mà nó là một yếu tố. Heinz Zahrnt viết:” Trong khi ở Phương Đông nghiệp chướng giống như một cổ xe ngựa mà người ta rất sẵn lòng bước xuống,thì ở phương Tây nó lại là một cái thang xoắn ốc mà ngườI ta trèo lên nhẹ nhàng” (Gotteswende,1989).
     Thật ra, ở Phương Tây,chưa bao giờ luân hồi mang bộ mặt của lời chúc dữ; đó là một biến cố đầy hy vọng làm mất đi tính chất bi kịch của cái chết và an ủI vô số những nghịch cảnh của cuộc sống nầy. Do vậy nó hội nhập một cách hòan hảo vào giản đồ đức tin đang phát triển và tự hiện thực hóa bản thân.
    Người ta hẳn đã để ý điều đó, luân hồi không phải là một món hàng được bán riêng ra. Người ta không tin vào luân hồi mà không cần phải liên kết với cả một cái Welfanschauung (quan niệm và thực hành niềm tin) vốn liên kết rất chặt chẽ. Quan niệm nầy đề xuất một quan niệm khác về Thiên Chúa,về con người,về lịch sử,về ơn cứu độ.Không thể chối cãi rằng các “tôn giáo” phương Đông có một sự quyến rũ trên người phương Tây. Không thể nghi ngờ, điều giảI thích phần lớn sự thành công của luân hồi trên chúng ta,chính là những tiếp xúc với Châu Á – đặc biệt là Ấn-Độ. Tính liêm minh chính trực của một số trong các tín đồ phương Đông của nó, cuộc sống gương mẫu của họ, đã gây ấn tượng lớn lao trên tất cả những ai tiếp xúc với họ qua sách báo hoặc trong những cuộc du lịch. Đối với người phương Tây, rất tự nhiên là  tin cậy và khen ngợi Châu Á ở mặt khôn ngoan cuộc sống. Lắm khi người ta có cảm tưởng dự phần vào một “thị trường chung” to lớn của các tín ngưỡng. Thế giới sẽ chỉ còn là một “mặt bằng lớn”duy nhất,dĩ nhiên là tự phục vụ: mỗi người chọn lựa những gì thích hợp mình. Ngay cả một số Kitô-hữu xác tín rằng học thuyết luân hồi có thể là một bổ sung đang hoan nghênh cho đức tin vào sụ phục sinh của họ.
 CÓ BẰNG CHỨNG KHÔNG?
   Điều vừa làm say mê vừa thuyết phục con ngườI hiện đại, đó là các sự kiện. Vì vậy những ngườI ủng hộ luân hồi khẳng định: chúng tôi có những sự kiện có căn bản khoa học chứng minh có luân hồi. Vậy đâu là các chứng cứ ấy?Ian Stevenson,nhà phân tâm học người Mỹ, đã phát hành năm 1979 một tài liệu “thấu đáo” về các hiện tượng “gợi ý” luân hồi. Ông phát biểu hết sức dè dặt khi nói về gía trị của các chứng cứ. Có lẽ nên nói về những hiện tượng có thể định hướng trong ý nghĩa nầy là “có tính chất chỉ thị”. Như vậy,khá nhiều lần người ta chỉ ra hiện tượng nầy vốn xãy ra cho mỗi người vào một lúc nào đó: trong một hoàn cảnh nhất định,chúng ta có cảm giác xa lạ vì đã gặp hoặc đã sống nó rồi. Và có những trường hợp của hiện tượng gây ngạc nhiên một cách đặc biệt . Ví dụ, một người đang đọc một cuốn sách mà người đó không biết,anh ta nhận biết tất cả những gì mình đọc và có thể kể lại sau đó. Rất nhiều những hiện tượng nầy được giải thích bằng siêu hình học. Người ta còn gặp thấy nó cả trong tâm lý học thông thường. Một tri giác xảy ra một lúc nào nhất định,có thể cố định ngay trong trí nhớ và cho cảm tưởng là “đã thấy “rồi. Đó chính là một cái gì đã biết. Phân tâm học ,bề phần nó,biết đến những khoa nghiên cứu bệnh lý về ký ức. Hoặc đó là khoa ngọai cảm? Dù là thứ gì đi nữa,nếu quả các hiện tượng thụôc lọai “tôi đã sống điều ấy” được xác nhậnh một cách khoa học,thì không vì thế mà chứng minh được rằng sự giải thích duy nhất và đúng đắn phải tìm ở trong luân hồi.
    Đôi khi nó nại đến trường hợp những con người (nhất là các trẻ em) nhận ra những đồ vật không thuộc về mình. Chính như vậy mà, để kế vị Đức Đạt-lai Lạt-Ma,lãnh tụ tinh thần của Phật-tử Tây Tạng, người ta tìm kiếm một bé trai nhận ra tức khắc một số đồ đạc vốn thuộc về Đức Đạt Lai Lạt-Ma quá cố. Em bé ấy được coi là hiện thân luân hồi của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Thực tế,có những đứa trẻ có những thiên hướng văn chương hoặc âm nhạc đặc biệt mà chúng không thể tự có,hoặc nói tiếng ngoại quốc.Phải chăng có sự chuyển giao tư tưởng, sự nhạy cảm theo cách đồng cốt, thần giao cách cảm? Ở đây cũng thế,câu hỏI được đặt ra. Trong cùng trật tự tư tưởng,người ta lấy ra những yếu tố phụ hình thái học đặc trưng của những ngườI quá cố,mà người ta tìm thấy được lại nơi các trẻ em.Thật lạ lùng!Nếu sự việc được xác lập một cách khoa học,thì có lẽ là phải tìm kiếm theo hướng cơ-thể-hóa,nghĩa là các hình ảnh hoặc cảm xúc đền từ bà mẹ và được diễn đạt trong thân thể của đứa bé.Các thánh tích của các thánh chẳng phải là điều gì tương tự như thế sao? Tất cả những giả thuyết nầy cần được xác minh thẩm tra.
    Người ta còn nại đến trường hợp những người nói chắc chắn họ nhớ về một quá khứ không phải là của họ. Hẳn nhiên,việc lừa đảo thô thiển không bao giờ bị lọai trừ. Nhưng ngay nếu không phải trường hợp đó,thì những giả thuyết có tính giải thích khác luân hồi cũng có thể tiến hành.Chẳng hạn không thể hòan toàn loại trừ ảnh hưởng của người chết trên người còn sống.
     Luân hồi là một cách hiểu,không phảI một nhận định.Hơn nữa, nếu nó là một mẫu mực cho việc giải thích,thì các mẫu mực khác cũng hoàn toàn có thể.Không có kết luận bắt buộc ủng hộ luân hồi.
LUÂN HỒI VÀ NHÃN QUAN VŨ TRỤ THẾ GIỚI.
   Song song với các “sự kiện được xác lấp” nầy,người ta thường gợi lên sự tương đồng sâu xa giữa luân hồi và một nhãn quan áp dụng chung cho cả con người lẫn vũ trụ. Theo họ,luân hồi nhập một cách tuyệt vời vào các nhịp sống của vũ trụ. Quả thật trong vũ trụ hiện hữu một chu kỳ lớn lao của sự sống và sự chết,của sự phục hưng và tàn lụi.Cái chết của hữu thể nầy đồng nghĩa với sự sống của một hữu thế khác. Vũ trụ là  một tiếp diễn những quan hệ nhân quả được xích chặt với nhau, những cấu trúc kết nốI và tan rã luôn luôn mới mẻ. Tại sao con người lại không như thế chứ,trong khi rõ ràng nó chỉ là một nhân tố của vũ trụ? Học thuyết nầy không kém phần lôi cuốn.Nhưng ý nghĩa cuộc đời tôi là gì trong cái viễn tượng nầy? Các hành vi của tôi có hay không một giá trị duy nhất và quyết định?       
VÀ KINH THÁNH
Kinh Thánh không màng gì đến luân hồi;phải nói là Kinh Thánh rõ ràng không biết đến luân hồi. Vào lúc mà truyền thống Kinh Thánh bắt đầu đào sâu khái niệm trách nhiệm cá nhân của cá thể, (ví dụ nơi tiên tri Ezéchiel),thì Kinh Thánh không hề bị cám dỗ bởi niềm tin về luân hồi. Ngược lại là khác. Trước vấn nạn để biết làm sao bảo đảm một quá khứ chồng chất và làm thế nào chịu nỗi gánh nặng của tộI lỗi mình, đó không phải là một cơ hội mới nhân một cuộc sống mới  được đưa ra, nhưng chính là việc Thiên Chúa ban tặng nhưng không một trái tim mới và một tinh thần mới.Vì chính Thiên Chúa đến cứu độ con người;công cuộc cứu độ không phải là công việc của loài người.
    Lý chứng được cho là có tính chất Kinh Thánh ủng hộ luân hồi, mà ngườI ta hay lấy lại, là lý lẽ của tiên tri Elia,mà người ta mong đợi ngày Ngài trở lại (x. Ml 3,23;Si 48,1-11). Các Phúc Âm cũng ám chỉ chờ đợi sự trở lại của Elia. Theo đó,trong Matthêu,chúng ta đọc thấy làm sao các môn đệ hỏi Chúa Giêsu:”Những luật sĩ nói gì,rằng Elia phải đến trước đã? Chúa Giêsu trả lời:”PhảI,Elia phải đến và ổn định lại tất cả;nhưng Ta bảo thật với các con: Elia đã đến và họ (luật sĩ và các thủ lãnh) không nhận ra Người, nhưng đã đối xử với Người theo cách của họ thích. Các môn đệ hiểu rằng những lời của Ngài nhắm đến Gioan Tẩy Giả”(Mt 17, 10-12). Thời bấy giờ có thể đã hiện diện những nhóm ít nhiều có nghĩ về luân hồi. Có thể đám tùy tùng của vua Hêrôđê lo sợ rằng Gioan hoặc Elia đã sống lại trong con người của Chúa Giêsu. Sự so sánh với các bản văn khác trong Tân Ước lại cho thấy rằng trường hợp “trở lại”của Elia trong con người của Gioan,thì đó là một ý niệm “thuộc chức năng”: Gioan làm tròn chức năng tiên tri mà Elia đã đảm đương .Luân hồi vì vậy sẽ mâu thuẫn với niềm tin hiển nhiên vào sự phục sinh vốn là niềm tin của Tân Ước. Ngườ ta không thể thấy làm sao chúng [luân hồi và niềm tin phục sinh] có thể đồng hiện hữu trong cùng một truyền thống Kinh Thánh.
    Về phần các thành ngữ “tái sinh từ trên cao”,”sự tái sinh”, “sự sinh lại” mà người ta tìm thấy nơi Thánh Gioan và Thánh Phaolô, tự nó có một ý nghĩa hòan tòan khác với ý nghĩa luân hồi: đó là về một sự sống mớI được khai trương bởi sự cải hoán tâm hồn, bởi niềm tin vào Chúa Giêsu và bởi sự phục tùng đầy tin cậy nhưng căn bản nơi Thiên Chúa. Tất cả “sự tái sinh” nằm trong cuộc sống thế trần hiện tại,chứ không phải sau khi đã chết.
 DO ĐÂU MÀ LUÂN HỒI LẠI HẤP DẪN NHƯ VẬY?
    Làm thế nào mà luân hồi lại trở nên phổ biến trong chúng ta như thế?
    Rõ ràng là có một kẻ nứt xảy ra trong thuyết bất cần đạo lý (khuyển nho) lạnh lùng của thời đại thực chứng chủ nghĩa (positiviste). Người ta không còn bằng lòng chấp nhận việc mọi sự kết thúc ở nghĩa trang hoặc khi tro đã được rải tung. Cái hư vô trống rỗng không phải là một câu trả lời.”Không thể có chuyện chẳng còn lại thứ gì của một hữu thể nhân lọai!”. Đã hẳn,niềm tin vào sự phục sinh đem lại câu trả lời:”có một cái gì đó bên kia sự chết”. Chỉ có điều là,dứơi mắt rất nhiều người,niềm tin vào sự phục sinh đặt người quá cố ở một quảng cách quá lớn với chúng ta: người ấy sẽ sống lại một ngày nào đó! Nhưng “ngày ấy” lại xa vời biết bao! Luân hồi, trái lại,xích người quá cố lại gần chúng ta: người chết lần nữa thuộc về thế giới chúng ta,rất gần với chúng ta. Và lần nữa,chúng ta có thể làm điều gì đó cho người ấy.(………….)
Sự phục-sinh.
    So với “luật vũ trụ” của luân hồi,niềm tin Kitô-giáo đưa ra một cách rõ ràng một điều hoàn toàn khác: lời hứa của Thiên Chúa rằng, chúng ta,tất cả,sẽ được sống lại. Vì thế sẽ chẳng vô ích khi phác họa lại đôi nét chính yếu niềm tin của chúng ta vào sự phục sinh, để đem ra ánh sáng những điểm khác biệt chính với niềm tin vào luân hồi.
 Tất cả chúng ta sẽ được sống lại một cách cá nhân.
    Sau cuộc sống trần thế nầy  -cuộc sống duy nhất và không còn tái hiện nữa – Thiên Chúa sẽ hồi sinh chúng ta, mỗi người theo cách cá nhân,như Người đã làm cho Con cùa Người.Vì Người yêu mỗi người chúng ta theo từng cá thể,và tất cả chúng ta trong mắt Người đều mang một danh tính duy nhất. Chúng ta không phải là một hạt ngọc trai ở vòng cổ gồm những cuộc tái sinh không ngừng diễn ra để rồi không ngừng tiến đến cái chết. Cái chết đã bị Đức Kitô đánh bại một lần cho tất cả. Vì thế chúng ta được giải thóat khỏi sự chết và khỏi mọi sự luân hồi
 Đức Kitô đã phá đổ luật nghiệp chướng khắc nghiệt.
    Luật nầy nói rằng không có gì mà không có thưởng hay phạt, rằng chúng ta mang nợ về tất cả mọi sự theo cá nhân. Đức Kitô công bố trước hết luật yêu thương và tha thứ.Chúng ta không phải tự mình trả đến từng xu một. Nhờ cuộc khổ nạn của Người, chính Đức Chúa đã “trả” cho chúng ta. Không còn nghi ngờ gì nữa, chúng ta được mời gọi ngày càng nên trọn lành hơn, nhưng không phải bằng phương tiện những cuộc luân hồi liên tiếp; chỉ duy nhất bằng sự trung tín của chúng ta trong các giới hạn của cuộc hiện sinh độc nhất của chúng ta là những người được cứu rỗi nhờ ân sủng. ( còn tiếp)
« Sửa lần cuối: Tháng Mười Hai 04, 2013, 12:50:35 PM gửi bởi quocbinh.nguyen.100 »

Các tin khác

VIDEO

  Bài 2: HIỆP HÀNH: Hiệp Thông - Tham Gia - Sứ Vụ | Thường huấn linh mục GP Ban Mê Thuột 2023

  Bài 1: Tầm Nhìn Hoàn Vũ | Thường huấn linh mục GP Ban Mê Thuột 2023

  ĐỨC TIN | Tròn Đầy & Trong Sáng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh

  Mục Vụ Văn Hóa: DANH - LỢI - NGHĨA | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh

  Cử Hành Phụng Vụ | Gặp Gỡ Chúa Kitô - Loan Báo Tin Mừng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn văn Hinh

  Thần Học Mục Vụ & Công đồng Vatican II: Con người - Giáo hội - Môi trường

  Hiệp Hành Hội Ý Dựng lại Mùa Xuân | Người Giáo dân Thiên niên kỷ mới

  Bài 4: Văn Hóa Tổ Chức - Đời Sống Cá Nhân

  Hiệp Hành Kín Đáo và Minh Bạch

  Văn Hóa Tổ Chức - Tổ Chức Cộng Đồng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh (Phần 3)

  Tìm hiểu về văn hóa (Phần 2) - Lm Gioan Kim Nguyễn Văn Hinh

  Tìm hiểu về văn hóa (Phần 1) - Lm Gioan Kim Nguyễn Văn Hinh

  TRỰC TUYẾN BÀI 29: MỤC VỤ THÁNH THIỆN THUẬN THEO

  TRỰC TUYẾN BÀI 28 : MỤC VỤ TÍCH HỢP VĂN HÓA ĐÔNG TÂY

  TRỰC TUYẾN BÀI 27 : MỤC VỤ LỜI CHÚA NGÀY NAY

  TRỰC TUYẾN BÀI : TÌM HIỂU VỀ VĂN HÓA VÀ BẢN SẮC VĂN HÓA VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 26: MỤC VỤ ĐẠO ĐỨC KINH TẾ DỊCH VỤ

  TRỰC TUYẾN BÀI 25: MỤC VỤ TUẦN THÁNH UY VÀ ĐỨC

  TRỰC TUYẾN BÀI 24: MỤC VỤ GIA TÀI CỦA MẸ

  TRỰC TUYẾN BÀI 23: MỤC VỤ BỔ VÀ TẢ

  mvgd20162016

  TRỰC TUYẾN BÀI 21: MỤC VỤ LUẬT CÂN BẰNG

  TRỰC TUYẾN BÀI 20: TRUY TÌM MÃNH LỰC

  TRỰC TUYẾN BÀI 19: THẾ GIỚI HÔM NAY CẦN NHỮNG NGƯỜI CHA NHÂN HẬU LÝ TƯỞNG VÀ THỰC TIỄN

  TRỰC TUYẾN BÀI 18: NĂM THÁNH THÁNH CẢ GIUSE LÃNH ĐẠO VÀ NIỀM TIN

  TRỰC TUYẾN BÀI 17: MỪNG XUÂN TÂN SỬU 2021 - LÒNG BIẾT ƠN TIN VUI ĐẠO ĐỨC VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 17: MỪNG XUÂN TÂN SỬU 2021 - LÒNG BIẾT ƠN TIN VUI ĐẠO ĐỨC VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 16: ĐỀ TÀI ĐIỂM TỰA

  TRỰC TUYẾN BÀI 14: VĂN HÓA KHÔNG NHẬN SAI NHƯNG SỬA SAI

  TRỰC TUYẾN BÀI 13: VUN TRỒNG NỀN VĂN HÓA “TÂM LINH – KHOA HỌC”

  TRỰC TUYẾN BÀI 12: NĂM MỚI 2021 XÂY DỰNG NỀN VĂN MINH TÂM LINH & KHOA HỌC

  TRỰC TUYẾN BÀI 11: GIÁNG SINH 2020 - LÀM NGƯỜi - GIÊSU

  TRỰC TUYẾN BÀI 10: PHÍA ĐẰNG SAU TÂM LINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 9: ĐỂ CÓ CHÚA THÁNH THẦN

  TRỰC TUYẾN BÀI 8: LOAN BÁO TIN MỪNG

  TRỰC TUYẾN BÀI 7: PHÒNG ĐÀO LUYỆN TÂM LINH CỦA TÍN HỮU DÂN CHÚA

  TRỰC TUYẾN BÀI 6: ĐÀO LUYỆN TÍN HỮU DÂN CHÚA

  TRỰC TUYẾN BÀI 5: TẦM NHÌN THIÊN NIÊN KỶ MỚI

  TRỰC TUYẾN BÀI 4: ĐÀO LUYỆN TÂM LINH BẮT ĐẦU TỪ THÁNH THỂ HAY THÁNH KINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 3: PHƯƠNG THỨC CẦU NGUYỆN CẢM NGHIỆM- SỐNG THÁNH GIỮA ĐỜI

  TRỰC TUYẾN: BÀI 2: GIẢI THÍCH ĐÀO LUYỆN TÂM LINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 1: ĐÀO LUYỆN TÂM LINH

  TintucVatican

  Thánh Lễ Tuyên Thánh Jacinta và Francisco Marto

  Muối và ánh sáng

  Thế Giới Nhìn Từ Vatican

  Nghi thức đóng Cửa Thánh

  Xin Mẹ Thương

  Thế Giới Nhìn Từ Vatican

  Suy Niệm với Đức Thánh Cha Phanxicô

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__3

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__1

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__2

  Thường huấn HĐMVGX Ban Mê Thuật

  Quốc tế thiếu nhi 01-6-2014

  Thể dục Dưỡng Sinh

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  CƠM TRƯA TRUNG THU 2013

  Thi đấu thăng cấp sơ đẳng Vovinam

  Khai mạc kỳ thi thăng cấp Vovinam

  Vovinam

  Đào luyện tâm linh

  Nghệ thuật cân bằng

  Đào Luyện Tinh Thần

  Đào Luyện Thể Chất

Bài viết mới
BÀI GIẢNG ĐỨC THÁNH CHA - CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN NĂM B
BÀI GIẢNG ĐỨC THÁNH CHA - CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN NĂM B.
ỦY BAN GIÁO DÂN - THƯỜNG HUẤN THÁNG 07/2024: TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN - MUỐI VÀ ÁNH SÁNG CHO THẾ GIỚI avatar Ủy ban Giáo dân 01/07/2024 Giáo hội là Dân Thiên Chúa, nơi mỗi người tín hữu, dù là giáo sĩ hay giáo dân, đều đóng góp vai trò không thể thiếu trong sứ mạng loan báo Tin Mừng. Chủ đề “Tông đồ giáo dân: Muối và ánh sáng cho thế giới” tập trung vào việc khai triển và cổ võ vai trò của giáo dân trong việc trở thành muối ướp mặn đời và ánh sáng soi sáng trần gian. Ủy ban Giáo dân Hội đồng Giám mục Việt Nam THƯỜNG HUẤN THÁNG 07/2024: TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN: MUỐI VÀ ÁNH SÁNG CHO THẾ GIỚI BÀI 1: HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN DỰA TRÊN LỜI CHÚA - Phanxicô Xaviê Nguyễn Thái BÀI 2: SỐNG TIN MỪNG TRONG ĐỜI THƯỜNG – Lm. Antôn Hà Văn Minh BÀI 3: BIẾN ĐỔI THẾ GIỚI TỪ BÊN TRONG - Lm. Tôma Vũ Ngọc Tín, S.J. BÀI 4: LÒNG CAN ĐẢM VÀ SỰ KHÔN NGOAN KHI DẤN THÂN VÀO ĐỜI SỐNG TRẦN THẾ - Lm. Tôma Vũ Ngọc Tín, S.J. BÀI 1: HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN DỰA TRÊN LỜI CHÚA - Phanxicô Xaviê Nguyễn Thái “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. “Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá. Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành” (Mt 7, 21.24 – 27). Đọc đoạn Tin Mừng trên cho chúng ta thấy: sống Tin Mừng trong đời thường là một hành trình đức tin mà qua đó, người Kitô hữu áp dụng lời dạy của Chúa Giêsu vào cuộc sống hàng ngày. Yêu Chúa không chỉ là tham dự các thánh lễ, các giờ kinh, mà phải thi hành ý muốn của Chúa Cha qua việc lãnh nhận các bí tích thường xuyên và qua cách chúng ta tương tác với mọi người xung quanh, cách chúng ta hành xử với thử thách và cách thực hiện các quyết định. Dưới đây là một số suy tư của giáo dân và một số cách để sống Tin Mừng trong đời thường: 1. Suy niệm và cầu nguyện với Lời Chúa: chúng ta không thể kết hiệp mật thiết với Chúa mà không cầu nguyện với Ngài. Việc dành thời gian mỗi ngày để suy niệm và cầu nguyện với Lời Chúa giúp nuôi dưỡng tâm hồn chúng ta ngày càng trở nên thánh thiện hơn, yêu Chúa nhiều hơn và được Chúa hướng dẫn hành động. 2. Yêu thương tha nhân là yếu tố quan trọng khi ta sống theo Tin Mừng. Yêu thương mọi người xung quanh mình, cho dù họ là ai, tôn giáo nào, giàu hay nghèo. “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” ( Ga 15, 12 ). Điều này áp dụng qua việc giúp đỡ những người nghèo khó, an ủi những người đang gặp khó khăn, và chia sẻ cho cộng đồng đang cần đến tình thương của mình. 3. Hiền lành và khiêm nhường: là ứng xử một cách nhẹ nhàng, không gây ra xung đột, luôn lắng nghe và tôn trọng ý kiến của người khác, và tìm cách giải quyết mọi vấn đề một cách dịu dàng và an bình. Tuy nhiên, hiền lành và khiêm nhường không đồng nghĩa với sự yếu đuối, mà chính là một cách để thể hiện sự mạnh mẽ và tự tin của bản thân thông qua sự kiểm soát cảm xúc và nhận thức. 4. Sống công bằng và bác ái: cố gắng sống công bằng với mọi người, không phân biệt đối xử, không chỉ dựa trên sự thỏa thuận mà dựa trên giá trị cốt lõi là phẩm giá con người, và thực hiện các hành động bác ái, như viếng thăm người đau yếu, quyên góp cho từ thiện, chia sẻ Chúa cho anh em, tham gia phục vụ cộng đồng dân Chúa cũng như cộng đồng xã hội. 5. Kiên nhẫn tha thứ: sống theo Tin Mừng đòi hỏi lòng kiên nhẫn và sẵn lòng tha thứ, dù trong những hoàn cảnh khó khăn nhất. Tha thứ đến cùng, tha thứ không giới hạn cho những lỗi lầm của người khác. Lý do chính mà chúng ta làm là vì Chúa đã tha thứ cho mỗi người chúng ta. 6. Chia sẻ niềm vui: sống vui tươi, dịu dàng với mọi người qua lối sống khó nghèo, tìm kiếm sự hài lòng, phấn khởi trong những điều giản dị và ý nghĩa của cuộc sống. 7. Sống Tin Mừng trong đời thường là chúng ta làm chứng về một Đức Giêsu con Thiên Chúa đã xuống trần gian, chịu chết và sống lại cho chúng ta được sống và được sống lại. Chứng nhân không chỉ trong một giai đoạn của cuộc sống nhưng là một đời Kitô hữu được kết hiệp với Chúa, bằng nguồn sống của Chúa. Qua hành động và lời nói hàng ngày, qua cách sống và tương tác với tha nhân làm sao bày tỏ được tình yêu và lòng thương xót của Chúa. Những suy tư Sống Tin Mừng trong đời thường không chỉ là làm một số việc đạo mà là cách sống thánh thiện và yêu thương mọi người xung quanh. Mỗi người cần gìn giữ và phát triển niềm tin của mình để sống đúng lý tưởng và hạnh phúc theo tinh thần của Tin Mừng. Sống Tin Mừng trong đời thường không phải lúc nào cũng dễ dàng, mỗi người giáo dân có cách sống Tin Mừng trong cuộc sống của họ một cách khác nhau. Nhiều giáo dân chưa mở lòng nên không nhận được ơn Chúa. Họ sống khép kín, không tham gia vào giáo xứ hoặc nếu có cũng chỉ là hình thức. Có những người không biết về Tin Mừng hoặc có biết qua loa thì cũng chưa áp dụng Tin Mừng vào cuộc sống, có khi còn không dám cho người khác biết mình là người Công Giáo, không dám sống đức tin của mình. Những người giáo dân khác sống theo lời dạy của Chúa Giêsu và thực hành lòng nhân từ, yêu thương và tha thứ. Trong khi một số khác có thể gặp khó khăn trong việc áp dụng những giá trị đạo đức từ Tin Mừng vào cuộc sống hàng ngày. Tuy nhiên, quan trọng nhất là họ luôn cố gắng học hỏi và phát triển trong đức tin của mình để trở thành những người sống theo Tin Mừng mẫu mực. Được như thế là giáo dân cũng đang tham gia vào đời sống của Giáo Hội, dần dần góp phần xây dựng một Giáo Hội hiệp hành và một thế giới tốt đẹp hơn. Hồi Tâm 1/ Làm cách nào giúp mọi người Công Giáo, hay ít nhất là những người đi lễ mỗi tuần có thể học, suy niệm và cầu nguyện với Tin Mừng? Nếu đang làm việc trong Hội đồng mục vụ giáo xứ hay trong các Hội đoàn Công giáo tiến hành, bạn sẽ làm gì? 2/ Chứng nhân Tin Mừng trong đời thường là phương cách hữu hiệu giúp người khác dễ dàng sống theo gương, bạn có thể chia sẻ chứng nhân trong những buổi họp, hay những lúc riêng tư cho những người chung quanh không? 3/ Trong đời thường, bạn làm gì để bày tỏ lòng yêu mến Chúa qua tha nhân? BÀI 2: SỐNG TIN MỪNG TRONG ĐỜI THƯỜNG – Lm. Antôn Hà Văn Minh Qua Bí tích Rửa tội, người tín hữu được dự phần vào sứ vụ của Chúa Giêsu. Sứ vụ đó chính làm cho mọi người nhận biết ơn cứu độ của Thiên Chúa Cha tỏ bày cho nhân loại qua Đức Giêsu Kitô. Thi hành sứ vụ chính là sống Tin Mừng giữa lòng thế giới, cụ thể trong cuộc sống thường ngày của mỗi tín hữu. Công Đồng nói về cảnh sống trần thế của giáo dân bằng cách trình bày cảnh sống ấy, trước tiên, như là môi trường trong đó họ được Thiên Chúa mời gọi: “Đó là nơi Thiên Chúa gọi họ” (LG số 31). Và thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã giải nghĩa: “nơi” được trình bày bằng những hạn từ có tính cách năng động: giáo dân sống giữa trần gian, nghĩa là dấn thân vào tất cả cũng như từng công việc và bổn phận của trần thế, giữa những cảnh sống thường ngày trong gia đình và ngoài xã hội, tất cả những điều đó như dệt thành cuộc sống của họ. Đó là những con người có một đời sống bình thường trong trần gian, học hỏi, làm việc, thiết lập những tương quan bạn bè, xã hội, nghề nghiệp, văn hóa”[1]. Sống Tin Mừng là gì? Trích dẫn Lời Chúa: “Chính anh em là muối cho đời… là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,13–14), Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã trình bày: “Lời mời gọi của Chúa Giêsu chính là sứ mạng của người tín hữu sống trong thế giới này. Người Kitô hữu không coi thế gian là địa ngục, là nơi giam cầm của những nỗi thống khổ, cũng như không coi thế gian là hạnh phúc vĩnh cửu cho cuộc đời mình, nhưng là nơi để Thiên Chúa tỏ lộ tình yêu của Ngài qua sự cộng tác của con người, và là nơi để con người được thực thi ơn gọi và sứ mạng Kitô hữu của mình trong một tình yêu dấn thân và thánh hóa thế giới: Tham dự vào lãnh vực trần thế, là phận vụ phát xuất từ bản tính nội tại và sứ mạng của mình”[2]. Vì thế, sống Tin Mừng chính là huấn luyện bản thân nhuần thấm Tin Mừng để có thể thực thi ơn gọi của mình cách trọn hảo. Thiên Chúa muốn người tín hữu trở thành muối, thành ánh sáng cho thế giới bằng chính đời sống Tin Mừng của mình, hay nói cách khác người tín hữu dấn thân phục vụ để trần gian nhận biết tình yêu của Ngài dành cho nhân loại, một tình yêu trọng đại đã được thánh Gioan diễn tả: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời” (Ga 3, 16). Nhưng để có thể sống Tin Mừng, dấn thân phục vụ cho Tin Mừng, đòi hỏi người tín hữu phải là người thấm đẫm Tin Mừng. Chỉ là men Tin Mừng khi người hữu phải đầy “chất” Tin Mừng. Vì thế, sống Tin Mừng trước tiên phải kết hợp mật thiết với Đức Kitô, vì Ngài chính là Tin Mừng. Vì thế, cuộc gặp gỡ với Tin Mừng là nền tảng cho việc sống Tin Mừng. Điều đó được thực hiện trước tiên chính là cuộc gặp gỡ Lời qua Kinh Thánh. Công đồng Vatican II trong hiến chế Mạc khải đã minh định: Chúa Cha muốn gặp gỡ con cái mình và ngỏ lời với họ qua Sách Thánh. Như vậy, tiếp cận với Lời Chúa, đọc Thánh Kinh là đi vào một cuộc gặp gỡ, tham gia một cuộc đối thoại với Thiên Chúa[3]. Quả thật việc đọc Thánh Kinh là cách thế tuyệt hảo để có được cuộc đối thoại với Thiên Chúa, vì “chúng ta ngỏ lời với Ngài khi cầu nguyện, và chúng ta nghe Ngài nói lúc chúng ta đọc các sấm ngôn thần linh”[4]. Trong Tông Thư “Khởi Đầu Ngàn Thứ Ba”, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II viết: “Lời Chúa phải trở nên một sự gặp gỡ ban sự sống, theo truyền thống xa xưa và luôn vững chắc về việc đọc Sách Thánh, cho phép rút ra từ bản văn Thánh Kinh Lời Hằng Sống, là lời chất vấn, hướng dẫn và hình thành cuộc sống chúng ta” (số 39)[5]. Người tín hữu chỉ có thể là men Tin Mừng, khi đời sống được đặt trên nền tảng Lời Chúa, không thường xuyên cầu nguyện với Lời Chúa không thể nào hoán cải cuộc đời để có thể làm cho đời mình trở thành men Tin Mừng. Dựa vào hoạt động của Giáo Hội tiên khởi được tường thuật trong sách Tông đồ công vụ, Đức Thánh cha Phanxicô nói: “Chúng ta khám phá động cơ mạnh mẽ của việc loan báo Tin Mừng chính là những buổi quy tụ cầu nguyện, nơi những người tham gia cảm nghiệm cách sống động sự hiện diện của Chúa Giêsu và được Chúa Thánh Thần đánh động. ...Lời cầu nguyện truyền lan ánh sáng và sự hăng hái: ân sủng của Chúa Thánh Thần làm nảy sinh trong lòng họ sự nhiệt thành”[6]. Dĩ nhiên việc tiếp cận Lời Chúa phải gắn chặt với Thánh Thể. Đức Thánh cha Phanxicô đã nói mạnh mẽ: Chỉ trong sự tôn sùng Thánh Thể, chỉ trước mặt Chúa, hương vị và sự say mê truyền giáo mới có thể được phục hồi. Lòng tôn sùng Thánh Thể là động lực giúp cho chúng ta vượt thắng những phong ba bão táp của cuộc đời, đặc biệt đó là nguồn khích lệ cho những người hết lòng chia sẻ Tin Mừng, chính vì trong Bí tích Thánh Thể, “chúng ta gặp gỡ Đấng đã ban mọi sự cho chúng ta” và đến lượt mình, chúng ta trở nên có khả năng chia sẻ tình yêu đó với người khác[7]. Để có thể sống Tin Mừng hầu trở thành men của Tin Mừng, chúng ta cần phải liên kết chặt chẽ với Chúa Kitô qua Lời Chúa, Thánh Thể và cầu nguyện và sống tình huynh đê. Bốn yếu tố: Lời Chúa, tìm kiếm tình hiệp thông huynh đệ, Thánh Thể và cầu nguyện, theo Đức Thánh Cha Phanxicô, chính là tiêu chuẩn để phân định một sự việc. Bất cứ trường hợp nào thiếu những yếu tố này điều thiếu tính Giáo hội, không phải của Giáo hội, yếu tố quan trọng để chứng thực chúng ta thực sự là Men của Tin Mừng.[8] Sống Tin Mừng giữa đời thường Nhìn vào thực tế, trăn trở lớn của Giáo Hội Việt Nam là vấn đề Loan Báo Tin Mừng. Thật vậy, con số tín hữu Việt Nam đến nhà thờ dâng lễ mỗi Chúa Nhật có thể nói cho đến lúc này vẫn đáng tự hào, thế nhưng niềm tự hào này có thực sự là niềm vui đích thực không? Bởi nhìn vào cánh đồng truyền giáo mỗi địa phương vẫn còn ngổn ngang, vẫn còn có qua nhiều người chưa được tiếp cận với Tin Mừng, vẫn còn đó nhưng lương dân là hàng xóm của các gia đình Công giáo, nhưng họ chẳng nghe nói về Chúa Giêsu, không một lần tiếp cận được với Tin Mừng. Câu trả lời được tìm thầy nơi lối sống của người tín hữu Công giáo. Là men Tin Mừng, nhưng họ lại không thể hiện lối sống Tin Mừng ngay trong môi trường mình sinh sống. Họ tách rời đức tin và cuộc sống thường ngày, họ đóng khung lối sống Tin Mừng trong nhà thờ, họ không làm cho men Tin Mừng được dậy lên trong người môi trường mình sống. Cha mẹ vẫn đi dâng lễ ngày Chúa nhật, nhưng chưa một lần hướng dẫn con cái về đời sống đức tin. Người tín hữu vẫn thường xuyên gặp gỡ bạn bè là lương dân, nhưng chưa một lần họ nghe về Chúa Giêsu, nhiều khi còn tệ hơn, để làm vui lòng bạn bè lương dân, người Công Giáo sẵn sàng bỏ đi lễ Chúa nhật; ngoài phố chợ, những chủ cửa hàng Công Giáo vẫn ngần ngại thể hiện lối sống Tin Mừng để giữ đức công bình và đức yêu thương... Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhấn mạnh: “Người tín hữu không được mời gọi rời bỏ vị thế họ đang sống nơi trần gian. Thực vậy, Bí tích Thánh Tẩy không kéo họ ra khỏi trần gian, như thánh Phaolô đã nhấn mạnh: ‘Thưa anh em, khi được kêu gọi ở địa vị nào, mỗi người cứ ở địa vị đó trước mặt Thiên Chúa’ (1 Cr 7,24); trái lại, Ngài trao cho họ một ơn gọi có liên hệ đích thực với tình huống của họ trong trần gian: thực vậy, giáo dân được ‘Thiên Chúa kêu gọi để, dưới sự hướng dẫn của tinh thần phúc âm, như men từ bên trong, họ thánh hóa thế giới bằng việc thi hành những nhiệm vụ của mình; và như thế, với lòng tin cậy mến sáng ngời, nhất là với chứng tá đời sống, họ tỏ lộ Chúa Kitô cho kẻ khác’ (Tông huấn Người Tín hữu Giáo dân, số 15) Cha Mến kể câu chuyện: Chứng nhân trong đời thường như sau: Nhà giáo dục vĩ đại Booker T. Washington có viết như sau trong cuốn tự thuật mang tựa đề: “Từ ách nô lệ đi lên” của ông: “Càng lớn tôi càng tin chắc rằng, không một sự giáo dục nào có thể gặt hái được từ sách vở, hay từ những dụng cụ đắt tiền, mà có thể sánh ví được với những gì ta có thể gặt hái được, do tiếp xúc với các bậc vĩ nhân”. Cách đây ít lâu, một phụ nữ Ấn độ giáo đã trở lại Công giáo, sau một thời gian nghe rao giảng Lời Chúa. Bà chịu nhiều gièm pha, đay nghiến từ người chồng và bao người thân, do việc bà trở lại đạo. Có lần cha xứ hỏi bà: “Khi chồng con nổi giận và hành hạ con, thì con làm gì”? Bà đáp: “Thưa Cha, con cố gắng nấu ăn ngon hơn. Khi ông than trách, con lau chùi nhà sạch hơn. Khi ông ăn nói cộc cằn, con trả lời ôn tồn nhỏ nhẹ. Con cố gắng để chứng tỏ cho ông ta thấy: Khi con trở lại đạo Chúa, con phải là người vợ và người mẹ tốt hơn”. Một thời gian sau, chính ông chồng cũng xin trở lại đạo Công giáo, không phải vì lời giảng của cha xứ, cho bằng chính nhờ gương sáng sống đạo của bà vợ đạo đức của ông.[9] Sắp tới đây Đức Thánh cha Phanxicô sẽ phong thánh cho chân phước Carlo Arcutis, một vị thánh trẻ, được gọi vị thánh thuộc thế hệ Y. Thánh nhân có gì đặc biệt? Không có gì đặc biệt ngoài việc ngài sống Tin Mừng giữa đời thường. Đức hồng y Vallini trong bài giảng lễ phong chân phước đã nói về Carlo Arcutis như sau: Carlo có lòng yêu mến Thánh Thể và gắn bó với Thánh Thể cách đặc biệt. Chúa Giêsu là Bạn, là Thầy, là Đấng Cứu Độ và là sức mạnh cho cuộc sống của Acutis và là động lực của mọi việc cậu làm. Từ đó, Carlo mong muốn mãnh liệt đưa người khác đến với Chúa và cậu làm điều này trên hết bằng gương mẫu cuộc sống. Carlo dùng mọi cách, cả cách thức hiện đại, với tài năng về tin học Chúa ban, để gặp gỡ và loan truyền các giá trị Kitô giáo cho người khác[10]. BÀI 3: BIẾN ĐỔI THẾ GIỚI TỪ BÊN TRONG - Lm. Tôma Vũ Ngọc Tín, S.J. Đời sống Kitô hữu giữa lòng trần thế như những hạt muối tinh tế thấm vào lòng đời, lặng lẽ làm biến đổi thế giới, như men trong bột làm dậy lên cả khối bột. Hành trình hy vọng nhưng cũng đầy thách đố này đòi hỏi sự biến đổi sâu sắc từ bên trong tâm hồn và đời sống mỗi người tín hữu. Khi mỗi người thay đổi từ nội tâm, họ trở thành ánh sáng lan tỏa, chiếu rọi khắp nơi, góp phần biến đổi thế giới bằng chính đời sống đức tin của mình. Theo Sắc Lệnh về Tông Đồ Giáo Dân, linh đạo tông đồ giáo dân không chỉ là sống đức tin một cách cá vị, mà còn là tham gia tích cực vào sứ mạng của Giáo Hội. Giáo dân được mời gọi trở thành những tông đồ giữa đời, mang Tin Mừng đến mọi nơi (Apostolicam Actuositatem-AA, 4). Linh đạo này giúp mỗi người giáo dân nhận ra rằng, họ có một vai trò đặc biệt trong việc xây dựng Nước Trời nơi trần thế, không chỉ qua lời nói mà còn qua hành động cụ thể trong cuộc sống thường ngày: “Bản chất riêng biệt của người giáo dân là sống giữa đời và làm việc đời nên chính họ được Thiên Chúa mời gọi để một khi tràn đầy tinh thần Kitô giáo, họ làm việc tông đồ giữa đời như men trong bột” (AA 2). Sống linh đạo tông đồ giáo dân như thế, trước hết người giáo dân gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu qua Lời Chúa và Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể là tâm điểm đời sống người tín hữu, nuôi dưỡng mỗi người trong hành trình Kitô hữu giữa đời, giúp mỗi người kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu và dấn thân phục vụ sứ mạng của Người: “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu, đó không chỉ là lời mời gọi, mà còn là một yêu cầu thiết yếu, để mỗi Kitô hữu có thể sống đức tin và thực thi sứ mạng của mình. Tham dự Thánh lễ, cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa,… là những phương thế giúp giáo dân nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của mình. Cầu nguyện giúp người giáo dân sống tình thân mật thiết với Chúa, trong khi suy niệm Lời Chúa giúp họ hiểu rõ hơn về ý nghĩa và sứ mạng của mình như được Chúa mời gọi. Kết hiệp với Chúa Giêsu qua Thánh Thể và Lời Chúa là những phương thế sống động để mỗi người trở nên men trong bột, biến đổi thế giới từ bên trong. Từ đời sống gắn kết với Chúa Giêsu, người giáo dân sống đức tin của mình qua những hành động cụ thể trong gia đình, nơi làm việc, và cộng đồng. Điều này có thể bao gồm việc tham gia vào các hoạt động xã hội, hỗ trợ người nghèo, bảo vệ môi trường, và tham gia vào các phong trào xã hội nhằm thúc đẩy công lý và hòa bình. Ý nghĩa của việc trở thành men trong bột là mỗi Kitô hữu đều có thể đóng góp một phần nhỏ nhưng quan trọng vào việc biến đổi thế giới xung quanh. Điều này đòi hỏi mỗi người phải sống đời sống đức tin một cách chân thật và nhiệt thành. Tình yêu và công lý là hai yếu tố không thể thiếu trong linh đạo giáo dân. Mỗi giáo dân được mời gọi sống yêu thương qua những hành động cụ thể, đồng thời nỗ lực thực thi công lý và xây dựng hòa bình. Các hoạt động xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc thực hành tông đồ giáo dân. Tham gia vào các hoạt động này không chỉ giúp mỗi người thực thi sứ mạng truyền giáo, mà còn góp phần xây dựng một xã hội công bằng và yêu thương hơn. Sau cùng, qua đời sống đức tin và dấn thân tông đồ, mỗi người góp phần xây dựng và phát triển cộng đoàn giáo xứ. Qua việc tham gia tích cực vào đời sống giáo xứ, giáo dân không chỉ đóng góp vào sự phát triển của cộng đoàn mà còn tạo ra một môi trường yêu thương và hiệp nhất. Một cộng đoàn yêu thương sẽ là nền tảng vững chắc để mỗi giáo dân có thể thực thi sứ mạng truyền giáo của mình một cách hiệu quả. Tóm lại, hành trình Kitô hữu giữa lòng trần thế là trở thành muối và men, âm thầm, trung kiên, nhẫn nại thấm vào mọi ngóc ngách của cuộc sống, làm biến đổi thế giới từ nội tại. Sống đức tin trong đời thường, thể hiện qua những hành động cụ thể trong gia đình, nơi làm việc và cộng đồng, là cách mỗi Kitô hữu trở thành men trong bột, biến đổi thế giới bằng tình yêu và công lý. Kết hiệp với Chúa qua cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa, cùng tham gia vào các hoạt động xã hội, là nền tảng để mỗi giáo dân góp phần xây dựng một xã hội công bằng và yêu thương, biến đổi thế giới từ bên trong. Hồi tâm 1/ Nhìn lại kinh nghiệm sống đạo, tôi thấy mình trở nên ánh sáng và muối và men trong môi trường sống như thế nào? Tôi có thể làm gì để thẩm thấu và lan tỏa tinh thần Kitô giáo trong gia đình, nơi làm việc, và cộng đồng của mình? 2/ Tôi cảm nghiệm thế nào về ơn gọi và sứ mạng Kitô hữu khi cầu nguyện và suy niệm lời Chúa? Làm thế nào tôi có thể biến những cảm nghĩ thiêng liêng ấy thành hành động cụ thể để xây dựng Nước Trời ngay cuộc sống đời thường của tôi? 3/ Khi đối diện với những thách thức trong cuộc sống và xã hội, tôi trải nghiệm thế nào về tình yêu và công lý như men trong bột, làm dậy lên sự thay đổi tích cực? Tôi có sẵn sàng dấn thân hơn nữa để trở thành người tông đồ truyền giáo giữa đời, lan toả tình yêu và công lý trong môi trường sống thường ngày? BÀI 4: LÒNG CAN ĐẢM VÀ SỰ KHÔN NGOAN KHI DẤN THÂN VÀO ĐỜI SỐNG TRẦN THẾ - Lm. Tôma Vũ Ngọc Tín, S.J. Lòng can đảm và sự khôn ngoan là hai phẩm chất quan trọng mà mỗi Kitô hữu cần có để sống và làm chứng cho đức tin trong đời sống trần thế. Lòng can đảm giúp chúng ta vượt qua những thử thách và khó khăn, dám đứng lên bảo vệ sự thật và công lý. Sự khôn ngoan, hướng dẫn chúng ta hành động một cách sáng suốt, biết phân định phải trái, đúng sai và chọn lựa đường hướng đẹp lòng Chúa. Trong một thế giới đầy biến động và thách thức, lòng can đảm và sự khôn ngoan trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Đối với giáo dân, hai phẩm chất này không chỉ giúp họ sống đức tin một cách mạnh mẽ và vững vàng mà còn đóng góp tích cực vào việc xây dựng một xã hội công bằng và nhân ái hơn. Lòng can đảm là một chủ đề được nhắc đến nhiều trong Kinh Thánh: “Mạnh bạo lên, can đảm lên! Đó chẳng phải là lệnh Ta đã truyền cho ngươi sao? Đừng run khiếp, đừng sợ hãi, vì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, sẽ ở với ngươi bất cứ nơi nào ngươi đi tới” (Gs 1,9). Lời khích lệ này không chỉ dành cho Thủ lãnh Giôsuê mà còn dành cho tất cả chúng ta, những người đang sống và làm chứng cho đức tin. Lòng can đảm giúp chúng ta đứng vững trước những thử thách, bảo vệ niềm tin và dám sống theo những giá trị Tin Mừng trong một thế giới đầy cám dỗ, bạo loạn và bất công. Sự khôn ngoan cũng là một đức tính quan trọng được Kinh Thánh đề cao: “Nếu ai trong anh em thiếu đức khôn ngoan, thì hãy cầu xin Thiên Chúa, Người sẽ ban cho. Vì Thiên Chúa ban cho mọi người cách rộng rãi, không quở trách” (Gc 1,5). Sự khôn ngoan giúp chúng ta biết phân định đúng sai, tốt xấu, lựa chọn đường hướng đẹp lòng Chúa và hành động một cách sáng suốt trong mọi hoàn cảnh. Nó không chỉ là tri thức mà còn là khả năng ứng dụng tri thức đó vào cuộc sống một cách đúng đắn và hiệu quả tốt đẹp. Mỗi người vẫn thường đối diện với những thách đố và nghịch cảnh trong đời sống. Điều quan trọng là cách chúng ta đối diện và vượt qua chúng. Cuộc sống trần thế có muôn vàn cảnh huống mà ở đó, người giáo dân thể hiện lòng can đảm và sự khôn ngoan khi luôn tin cậy Chúa và đối diện khó khăn, chẳng hạn như việc bảo vệ sự thật và công lý trong môi trường làm việc, nơi có thể gặp phải những áp lực và cám dỗ. Lòng can đảm giúp chúng ta không lùi bước, trong khi sự khôn ngoan giúp chúng ta chọn lựa cách hành động phù hợp và hiệu quả. Đời sống đức tin không dừng ở việc tham dự các cử hành phục vụ mà còn sống theo những giá trị Kitô giáo trong đời sống thường ngày. Giáo dân có thể thể hiện lòng can đảm và sự khôn ngoan bằng cách làm gương sáng trong môi trường làm việc, trong gia đình, và trong cộng đồng. Những hành động cụ thể như giúp đỡ người khó khăn, bảo vệ môi trường, và tham gia vào các hoạt động từ thiện đều là những cách thể hiện đức tin một cách sống động và thực tế. Trong nhiều hoàn cảnh, lòng can đảm và sự khôn ngoan của người giáo dân có thể thể hiện trong vai trò lãnh đạo cộng đồng. Trong hoàn cảnh đó, lòng can đảm và sự khôn ngoan không chỉ giúp giáo dân đối mặt với những thách thức mà còn giúp họ hành động một cách sáng suốt và hiệu quả. Sau cùng, giáo dục con cái về lòng can đảm và sự khôn ngoan là một nhiệm vụ quan trọng của các bậc cha mẹ Công Giáo. Giáo dân có thể giúp con cái hiểu và thực hành hai phẩm chất này qua gương sáng trò chuyện thường ngày trước những vấn đề thực tế trong đời sống, giúp con cái phát triển lòng can đảm và sự khôn ngoan trong cuộc sống. Tóm lại, lòng can đảm và sự khôn ngoan là những phẩm chất không thể thiếu để mỗi Kitô hữu sống đức tin trong đời sống trần thế. Những phẩm chất này hằng giúp chúng ta vượt qua thử thách, bảo vệ sự thật và công lý, và hành động minh bạch, tư duy độc lập sáng suốt, mang lại ích lợi chính đáng cho bản thân và cộng đồng. Trong một thế giới đầy biến động, giáo dân cần lòng can đảm để kiên vững vượt qua những trở ngại và sự khôn ngoan để phân định và lựa chọn đúng đắn. Đó là hai phẩm chất giúp người giáo dân dấn thân sống đức tin giữa lòng trần thế, góp phần xây dựng đời sống xã hội thấm đượm Tin Mừng. Hồi tâm 1/ Trong những tình huống cụ thể nào, tôi thường cần đến lòng can đảm để bảo vệ sự thật và công lý? Tôi đã từng phản ứng ra sao và kết quả như thế nào? 2/ Làm thế nào tôi có thể áp dụng sự khôn ngoan để phân định đúng sai và đưa ra quyết định sáng suốt trong các hoạt động và công việc tại giáo xứ của mình? 3/ Nhớ lại một trải nghiệm khi lòng can đảm và sự khôn ngoan của người Công giáo đã tạo ra sự khác biệt tích cực trong cộng đồng xã hội? Tôi cảm nghĩ thế nào về sự dấn thân của người giáo dân, với lòng can đảm và khôn ngoan, vào đời sống xã hội? ________ [1] Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Tông Huấn Người Tín Hữu Giáo dân (Christifideles Laici), số 15. [2] Nt. [3]X. Hiến chế Mạc Khải (Dei Verbum), số 21 [4] X Hiến chế Mạc Khải (Dei Verbum), số 25. [5] Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông thư Ngàn Năm Thứ Ba (Millennio Adveniente), số 39> [6] Đức Phanxicô, buổi tiếp kiến chung trực tuyến sáng thứ Tư 25/11/2020), nguồn Vatican News. [7] Nguồn: www.ncregister.com/commentaries/without-adoration-there-s-no-evangelization [8] Nguồn: www.vaticannews.va/vi/pope/news/2020-11/ [9] Nguồn: https://linhmucmen.com/news/kho-sach-quy/chung-nhan-giua-doi-thuong [10] Nguồn: https://www.vaticannews.va/vi/church/news/2020-10/le-phong-chan-phuoc-carlo-acutis.html
ỦY BAN GIÁO DÂN - THƯỜNG HUẤN THÁNG 07/2024: TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN - MUỐI ...
LINH ĐẠO DUNG NẠP
LINH ĐẠO DUNG NẠP