Thứ sáu, ngày 26 tháng 04 năm 2024 | 04:50 AM - Giới thiệu | Ý nghĩa logo
Thánh kinh



UỶ BAN KINH THÁNH GIÁO HOÀNG
 
VIỆC GIẢI THÍCH KINH THÁNH

TRONG HỘI THÁNH
 
 
 


Lm. Giuse Nguyễn Tất Trung, OP. chuyển ngữ

Bản Việt ngữ này được dịch (1996) từ bản chính thức bằng Pháp ngữ do Liberia Editrice Vaticana ấn hành (Roma 1993).

Tuy nhiên để cho ý tưởng sáng sủa, cũng tham chiếu bản dịch và chú giải bằng Anh ngữ của linh mục Joseph A. Fitzmyer do Editrice Pontificio Instituto Biblico ấn hành (Roma 1995).

Trong lần tái bản này (2004), cha Albertô Trần Phúc Nhân đã đọc lại và góp ý sửa chữa cho bản dịch được chính xác và rõ ràng hơn. Chúng con xin chân thành cảm ơn Cha.
 
------------------------------------------------------------------
 
DẪN NHẬP

PHẦN I       -       PHẦN II       -       PHẦN III       -       PHẦN IV


---------------------------------------------------------------------------------------------------------------


 

DIỄN VĂN CỦA
ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II
VỀ VIỆC GIẢI THÍCH KINH THÁNH
TRONG HỘI THÁNH

 

Bài diễn văn này đã được đọc ngày thứ sáu, 23 tháng tư 1993, trong buổi tiếp kiến kỷ niệm bách chu niên thông điệp “Providentisimus Deus” của Đức Giáo Hoàng Lêô XIII và ngũ thập chu niên thông điệp “Divino afflante Spiritu” của Đức Giáo Hoàng Piô XII. Cả hai thông điệp trên đều nói về việc nghiên cứu Kinh Thánh.

Cuộc tiếp kiến đã diễn ra trong Hội Trường Clêmentina ở điện Vaticanô, trước sự hiện diện của các Hồng y, Ngoại giao đoàn chính thức tại Toà Thánh, Uỷ Ban Kinh Thánh Giáo Hoàng và ban giáo sư của Viện Kinh Thánh Giáo Hoàng.

Trong buổi tiếp kiến, Hồng y J. Ratzinger đã đệ trình Đức Giáo Hoàng văn kiện của Uỷ Ban Kinh Thánh về việc giải thích Kinh Thánh trong Hội Thánh.


 
* * *
 
 

Thưa Quý vị Hồng y,
Thưa Quý vị trưởng các phái đoàn ngoại giao,
Thưa Quý vị thành viên Uỷ Ban Kinh Thánh Giáo Hoàng,
Thưa Quý vị giáo sư Viện Kinh Thánh Giáo Hoàng,
 
1. Tôi xin hết lòng cảm ơn Hồng y Ratzinger về những tâm tình người vừa phát biểu khi trình cho tôi văn kiện được Uỷ Ban Kinh Thánh Giáo Hoàng soạn thảo về vấn đề giải thích Kinh Thánh trong Hội Thánh. Tôi xin vui mừng đón nhận văn kiện này. Đây là kết quả của một công trình tập thể tiến hành theo sáng kiến của Đức Hồng y và đã được người kiên trì theo đuổi suốt nhiều năm qua. Văn kiện này đáp ứng một điều tôi vẫn hằng quan tâm, vì việc giải thích Kinh Thánh có một tầm quan trọng chủ yếu đối với đức tin Ki-tô giáo và đời sống của Hội Thánh. Công Đồng đã nhắc cho chúng ta nhớ kỹ : “Trong các Sách Thánh, Chúa Cha trên trời lấy lòng âu yếm đến gặp con cái mình và ngỏ lời với họ. Vậy sức mạnh và quyền năng chứa đựng trong Lời của Thiên Chúa rất lớn đến độ trở thành điểm tựa đầy năng lực cho Hội Thánh và là sức mạnh của đức tin, lương thực của linh hồn, nguồn sống thiêng liêng tinh tuyền và trường tồn cho con cái của Hội Thánh” (Dei Verbum, số 21). Cách thức giải thích các bản văn Kinh Thánh cho những con người nam nữ đang sống trong thời đại hôm nay có những hệ quả trực tiếp đối với mối quan hệ của họ, cá nhân cũng như cộng đoàn, với Thiên Chúa, đồng thời cũng liên quan chặt chẽ với sứ mạng của Hội Thánh. Đây là một vấn đề tuyệt đối cần thiết đáng cho tất cả quí vị quan tâm.
 
2. (Lịch sử : Huấn Quyền và Kinh Thánh)*. Công trình này của quí vị hoàn thành vào một thời điểm rất thích hợp, vì cho tôi cơ hội cùng với quí vị mừng hai dịp kỷ niệm đầy ý nghĩa : bách chu niên thông điệp Providentissimus Deus và đệ ngũ thập chu niên thông điệp Divino afflante Spiritu. Cả hai thông điệp đều đề cập đến các vấn đề Kinh Thánh. Ngày 18 tháng mười một 1893, Đức Lêô XIII, một vị giáo hoàng rất chú ý đến các vấn đề trí thức, đã công bố thông điệp về việc nghiên cứu Kinh Thánh nhằm mục đích, như người viết, “thúc đẩy và khuyến khích việc nghiên cứu Kinh Thánh” cũng như “xác định hướng đi cho việc nghiên cứu Kinh Thánh theo cách thức phù hợp với nhu cầu của thời đại hơn” (Enchiridion Biblicum, số 82). Năm mươi năm sau, trong thông điệp Divino afflante Spiritu, Đức Piô XII gửi tới các nhà chú giải công giáo những khích lệ và những chỉ dẫn mới. Trong khoảng thời gian giữa hai thông điệp trên, Huấn Quyền giáo hoàng vẫn thường xuyên quan tâm đến các vấn đề Sách Thánh qua nhiều lần can thiệp. Năm 1902, Đức Lêô XIII thiết lập Uỷ Ban Kinh Thánh. Năm 1909, Đức Piô X thiết lập Viện Kinh Thánh. Năm 1920, Đức Bênêđitô XV kỷ niệm một ngàn năm trăm năm ngày qua đời của thánh Giêrônimô bằng một thông điệp về việc giải thích Kinh Thánh. Nỗ lực thúc đẩy việc nghiên cứu Kinh Thánh như thế đã được khẳng định trọn vẹn trong Công Đồng Vaticanô II, để toàn thể Hội Thánh được hưởng nhờ ích lợi. Hiến chế tín lý Dei Verbum (Mặc khải của Thiên Chúa) làm sáng tỏ công việc của các nhà chú giải công giáo, đồng thời mời gọi các mục tử và các tín hữu siêng năng lấy lời của Thiên Chúa, được chứa đựng trong Sách Thánh, mà nuôi dưỡng linh hồn nhiều hơn nữa.
 
Hôm nay, tôi mong được nêu bật một vài khía cạnh giáo huấn trong hai thông điệp trên cũng như giá trị bền vững do hướng đi của hai thông điệp nêu ra, qua những hoàn cảnh thay đổi, để chúng ta rút được nhiều ích lợi hơn nữa từ đóng góp của hai thông điệp ấy.
 

I. TỪ “PROVIDENTISSIMUS DEUS” ĐẾN “DIVINO AFFLANTE SPIRITU”

 
3. Trước hết, ta nên lưu ý một khác biệt quan trọng giữa hai thông điệp, Đó là ở phần tranh luận, hay chính xác hơn, phần minh giáo. Thật vậy, cả hai đều quan tâm đến việc trả lời những đả kích chống đối cách giải thích Kinh Thánh của công giáo, nhưng những đả kích này không theo cùng một hướng như nhau. Một đàng, thông điệp Providentissimus Deus muốn bảo vệ đặc biệt cách chú giải công giáo đối lại những chỉ trích của khoa học duy lý. Đàng khác, Divino afflante Spiritu lại ưu tiên quan tâm bênh vực lối giải thích công giáo đối lại những thái độ phản đối việc các nhà chú giải sử dụng khoa học và muốn áp đặt một cách giải thích Sách Thánh phi khoa học, gọi là lối giải thích “thiêng liêng”.
 
Việc thay đổi triệt để cách nhìn này rõ ràng là do hoàn cảnh mà ra. Providentissimus Deus ra đời trong một thời đại đầy những cuộc tranh cãi dữ dội chống lại đức tin của Hội Thánh. Lối chúù giải tự do cung cấp cho các tranh luận này một điểm tựa quan trọng, vì nóù sử dụng mọi khoa học : từ phê bình văn bản đến địa chất học, qua ngôn ngữ học, phê bình văn chương, lịch sử các tôn giáo, khảo cổ học và các môn học khác. Trái lại, Divino afflante Spiritu được công bố ít lâu sau một cuộc tranh luận hoàn toàn khác hẳn, nhất là ở Italia, chống lại việc dùng khoa học để nghiên cứu Kinh Thánh. Một tập sách nhỏ vô danh đã được phổ biến rộng rãi nhằm cảnh giác mọi người đề phòng cái mà nó gọi là “một mối nguy rất trầm trọng đe doạ Hội Thánh và các linh hồn : đó là hệ thống khoa học-phê bình, với những lệch lạc và những sai lầm tai hại của nó, được dùng trong việc nghiên cứu và giải thích Kinh Thánh”.
 
4. Trong cả hai trường hợp, phản ứng của Huấn Quyền rất có ý nghĩa, bởi lẽ thay vì lo đưa ra một câu trả lời thuần tuý tự vệ, Huấn Quyền đã đi vào trọng tâm của của vấn đề và như thế cho thấy - chúng ta ghi nhận ngay điểm này - đức tin của Hội Thánh vào mầu nhiệm Nhập Thể.
 
Đối lại lời đả kích của lối chú giải tự do, trình bày các lập luận cũng như các kết luận trên cơ sở những thành quả của khoa học, Huấn Quyền lẽ ra có thể phản ứng bằng cách lên án việc sử dụng khoa học trong việc giải thích Kinh Thánh và ra lệnh cho các nhà chú giải công giáo phải cắt nghĩa các bản văn theo lối “thiêng liêng”.
 
Providentissimus Deus đã không theo con đường ấy. Ngược hẳn lại, thông điệp tha thiết mời gọi các nhà chú giải công giáo lo cho mình có một khả năng thực sự chuyên môn về khoa học, để có thể vượt quá các đối thủ ngay trong lãnh vực của họ. Thông điệp nói : “Phương thế tự vệ đầu tiên là nghiên cứu các ngôn ngữ cổ của Đông phương và thực hành việc phê bình có khoa học” (EB, số 118). Hội Thánh không sợ việc phê bình có khoa học. Hội Thánh chỉ e ngại những ý tưởng tiên kiến tự cho mình là có cơ sở khoa học, nhưng thực ra lại lén lút đẩy khoa học ra ngoài lãnh vực của mình.
 
Năm mươi năm sau, trong Divino afflante Spiritu, Đức Giáo Hoàng Piô XII đã có thể chứng nhận kết quả phong phú của các chỉ thị do Providentissimus Deus đưa ra : “Nhờ biết rõ các ngôn ngữ Kinh Thánh hơn và biết tất cả những gì liên quan đến Đông phương..., một số lớn những vấn đề như đả kích tính xác thực, tính cổ xưa, tính toàn vẹn và giá trị lịch sử của Sách Thánh... đã được nêu lên ở thời Đức Lêô XIII, ngày nay đã được tháo gỡ và giải quyết” (EB, số 546). Công việc của các nhà chú giải công giáo, “những người đã sử dụng đúng đắn các vũ khí trí thức mà những đối thủ của họ đã dùng” (số 562), đã mang lại những kết quả. Và chính vì lý do đó, Divino afflante Spiritu tỏ ra ít lo chống lại các lập trường của lối chú giải duy lý hơn Providentissimus Deus.
 
5. Nhưng khi ấy lại cần phải trả lời những đả kích xuất phát từ phía những người theo một lối chú giải tự nhận là “thần bí” (số 562), những người đang tìm cách làm cho Huấn Quyền kết án những nỗ lực chú giải theo khoa học. Thông điệp đã trả lời như thế nào ? Thông điệp lẽ ra có thể chỉ nhấn mạnh : những nỗ lực nói trên có ích lợi và thậm chí cần thiết để bảo vệ đức tin, điều này có thể tạo ra một thứ phân đôi giữõa chú giải có khoa học, để sử dụng bên ngoài, với giải thích thiêng liêng, dành để sử dụng bên trong. Trong Divino afflante Spiritu, Đức Pi-ô XII đã cố ý tránh đi theo hướng đó. Trái lại, người đòi phải có sự liên kết chặt chẽ hai tiến trình này, một mặt, bằng cách đề cao tầm quan trọng “thần học” của nghĩa theo chữ, được xác định có phương pháp (EB, số 551), mặt khác, bằng cách khẳng định rằng, muốn được nhìn nhận là nghĩa của một bản văn Kinh Thánh, nghĩa thiêng liêng phải đưa ra được những bảo đảm về tính xác thực của mình. Một hứng khởi chủ quan đơn thuần không đủ. Phải làm sao chứng minh được đó là một ý nghĩa “do chính Thiên Chúa muốn”, đó là một nghĩa thiêng liêng “Thiên Chúa dành cho” bản văn được linh hứng (EB, số 552-553). Do đó, ngay việc xác định nghĩa thiêng liêng cũng thuộc phạm vi của khoa học chú giải.
 
Như thế, chúng ta nhận thấy là, dù rất khác biệt về những khó khăn phải đối phó, hai thông điệp hoàn toàn hợp nhau ở mức độ sâu xa nhất. Cả hai đều từ chối không chấp nhận việc cắt đứt liên hệ giữa cái thuộc về nhân loại với cái thuộc về linh thiêng, giữa việc nghiên cứu có khoa học với cái nhìn đức tin, giữa nghĩa theo chữ với nghĩa thiêng liêng.Như vậy, hai thông điệp tỏ ra hoàn toàn hoà hợp với mầu nhiệm Nhập Thể.
 

II. HOÀ HỢP GIỮA CHÚ GIẢI CÔNG GIÁO VỚI MẦU NHIỆM NHẬP THỂ

 
6. (Lời nhập thể và lời trong ngôn ngữ loài người). Mối tương quan chặt chẽ liên kết các bản văn Kinh Thánh được linh hứng với mầu nhiệm Nhập Thể được thông điệp Divino afflante Spiritu trình bày như sau : “Cũng như Lời bản thể của Thiên Chúa đã trở nên giống loài người về mọi mặt, ngoại trừ tội lỗi, cũng vậy, những lời của Thiên Chúa, được diễn tả bằng các ngôn ngữ loài người, đã trở nên giống ngôn ngữ loài người trong mọi sự, ngoại trừ sự sai lầm” (EB, số 559). Khi lặp lại gần nguyên văn lời khẳng định trên, hiến chế Công Đồng Dei Verbum (số 13) nêu bật sự song song đầy ý nghĩa này.
 
Việc lời của Thiên Chúa được ghi lại thành chữ viết, nhờ đặc sủng linh hứng Kinh Thánh, quả là một bước đầu tiên hướng về việc Nhập Thể của Ngôi Lời Thiên Chúa. Thật vậy, những lời được viết ra này tạo nên một phương thế vững bền để trao đổi và hiệp thông giữa Dân tuyển chọn với Đức Chúa duy nhất của mình. Đàng khác, chính nhờ khía cạnh ngôn sứ của những lời này, Dân Thiên Chúa có thể nhận ra việc kế hoạch của Thiên Chúa được hoàn thành, khi “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và đã cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14). Sau khi nhân tính của Ngôi Lời làm người đã được tôn vinh trên thiên quốc, cũng vẫn nhờ các lời được viết ra mà việc Người đã đến sống giữa chúng ta được chứng nhận một cách vững bền. Các tác phẩm linh hứng của Giao Ước Mới, được nối kết với các tác phẩm thuộc Giao Ước Thứ Nhất làm nên một phương thế trao đổi và hiệp thông giữa đoàn dân tín hữu với Thiên Chúa là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Phương thế này chắc chắn không thể bị tách ra khỏi dòng sông sự sống thiêng liêng vọt lên từ Thánh Tâm của Đức Giêsu chịu đóng đinh, và đang tràn lan nhờ các bí tích của Hội Thánh. Tuy nhiên, phương thế này có tính chất vững bền riêng, đúng ra là tính chất vững bền của một bản văn chứng thực điều đó.
 
7. (Nghiên cứu bối cảnh lịch sử). Do đó, hai thông điệp yêu cầu các nhà chú giải công giáo phải hoà hợp trọn vẹn với mầu nhiệm Nhập Thể, mầu nhiệm kết hợp cái thuộc về Thiên Chúa với cái thuộc về nhân loại trong một cuộc sống lịch sử hoàn toàn có thể xác định được. Cuộc sống của Đức Giêsu ở trần gian không chỉ được xác định bằng nơi chốn và thời gian của đầu thế kỷ thứ nhất ở Giuđê và Galilê, nhưng còn bằng việc Người bắt rễ trong lịch sử lâu dài của một dân tộc nhỏ bé vùng Cận Đông thời cổ, với những yếu đuối và vĩ đại của dân tộc này, với những người của Thiên Chúa và những tội nhân trong dân tộc ấy, với những tiến hoá chậm chạp về văn hoá và những hình thái chính trị của dân tộc ấy, với những thất bại và những chiến thắng của họ, với những khát vọng về bình an và về triều đại của Thiên Chúa. Hội Thánh của Đức Kitô đánh giá nghiêm túc thực tại Nhập Thể, và chính vì lý do đó, Hội Thánh dành cho việc nghiên cứu “phê bình-lịch sử” Kinh Thánh một tầm quan trọng đặc biệt. Không những không lên án phương pháp “phê bình-lịch sử” như những người theo lối chú giải “thần bí” muốn, các vị tiền nhiệm của tôi còn chấp thuận mạnh mẽ. Đức Lêô XIII viết : “Artis criticae disciplinam quippe percipiendae penitus hagiographum sententiae perutilem, Nobis vehementer probantibus, nostri (exegetae, scilicet, catholici) excolant” (Môn phê bình có khoa học hẳn rất hữu ích để hiểu sâu xa ý các thánh ký muốn nói. Chúng tôi nhiệt liệt tán thành việc người của chúng tôi (tức là các nhà chú giải công giáo) quí trọng môn đó” (Tông thư Vigilantiae, thành lập Uỷ Ban Kinh Thánh, ngày 30 tháng mười 1902, EB, số 142). Cùng một từ “nhiệt liệt” tán thành, cùng một phó từ “nhiệt liệt” này lại gặp thấy trong Divino afflante Spiritu, liên quan đến việc nghiên cứu phê bình văn bản (x. EB, số 548).
 
8. (Nghiên cứu ngữ học). Chúng ta biết Divino afflante Spiritu đặc biệt yêu cầu các nhà chú giải nghiên cứu những văn loại dùng trong các Sách Thánh, đến độ nói rằng lối chú giải công giáo phải “xác tín rằng không thể lơ là phần trách nhiệm này của mình mà không gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho khoa chú giải công giáo” (EB, số 560). Lời yêu cầu này phát xuất từ mối quan tâm muốn hiểu chính xác và chi tiết tối đa ý nghĩa của các bản văn. Và như thế nghĩa là hiểu trong bối cảnh lịch sử và văn hoá của các bản văn đó. Một tư tưởng sai lạc về Thiên Chúa và về mầu nhiệm Nhập Thể đã đẩy một số Kitô hữu đi theo hướng ngược lại. Họ có khuynh hướng tin rằng : Thiên Chúa là Hữu Thể Tuyệt Đối, nên mỗi lời của Người cũng có giá trị tuyệt đối, độc lập với mọi điều kiện của ngôn ngữ nhân loại. Theo họ, không cần phải nghiên cứu các điều kiện ấy mới có những phân biệt giúp tương đối hoá ý nghĩa của các lời. Nhưng thực tế, đó là họ ảo tưởng và chối bỏ các mầu nhiệm linh hứng Kinh Thánh và Nhập Thể, bằng cách bám chặt vào một ý niệm sai lạc về Tuyệt Đối. Thiên Chúa của Kinh Thánh không phải là một Hữu Thể Tuyệt Đối, đè bẹp mọi thứ Người chạm tới, huỷ diệt mọi dị biệt và mọi sắc thái. Trái lại, Người là vị Thiên Chúa sáng tạo, đã dựng nên muôn loài khác biệt nhau lạ lùng, “mỗi giống tuỳ theo loại” , như trình thuật sáng thế (x. St 1) nói và hay lặp đi lặp lại. Không những không triệt tiêu những khác biệt, Thiên Chúa còn tôn trọng và cho chúng giá trị (x. 1 Cr 12,18.24.28). Khi Thiên Chúa muốn nói bằng một ngôn ngữ loài người, Người không có ý cho mỗi lời nói một giá trị hệt như nhau, nhưng Người đã sử dụng những sắc thái có thể có trong ngôn ngữ loài người cách khéo léo tuyệt vời, và Người cũng chấp nhận cả những giới hạn trong ngôn ngữ ấy nữa. Đó chính là điểm làm cho nhiệm vụ của nhà chú giải trở nên phức tạp, nhưng lại cần thiết và đầy thú vị ! Không một khía cạnh nhân loại nào của ngôn ngữ có thể bị bỏ quên. Những tiến bộ trong nghiên cứu ngữ học, văn chương và giải thích hồi gần đây đã đưa khoa chú giải Kinh Thánh đến chỗ phải thêm vào việc nghiên cứu văn loại nhiều quan điểm khác (tu từ học, thuật chuyện, cấu trúc học). Những khoa học nhân văn, như tâm lý và xã hội học, cũng có phần đóng góp., Ta có thể áp dụng lời chỉ dẫn của Đức Lêô XIII dành cho các thành viên Uỷ Ban Kinh Thánh về tất cả những điều trên : “Ước mong họ đừng cho là xa lạ với lãnh vực của mình bất cứ điều gì mà nghiên cứu miệt mài của con người thời nay lại tìm thấy. Trái lại, mong rằng họ có tinh thần tỉnh thức để tiếp nhận không trì hoãn điều gì hữu ích mà mỗi thời mang đến cho khoa chú giải Kinh Thánh” (Vigilantiae, EB, số 140). Cần phải theo đuổi việc nghiên cứu những hoàn cảnh nhân loại của Lời Thiên Chúa với một sự quan tâm được đổi mới không ngừng.
 
9. (Nghiên cứu trong cầu nguyện). Tuy nhiên, việc nghiên cứu này không đủ. Muốn tôn trọng sự liên lạc giữa đức tin của Hội Thánh với ơn linh hứng Kinh Thánh, khoa chú giải công giáo phải chú ý để đừng bám vào các khía cạnh nhân loại của các bản văn Kinh Thánh. Trước hết và trên hết, khoa chú giải phải giúp dân Kitô giáo hiểu rõ hơn Lời của Thiên Chúa trong các bản văn này, để họ có thể đón nhận tốt hơn hầu sống trong sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa. Để đạt mục đích này, hiển nhiên chính nhà chú giải cần thấu hiểu được lời thần linh trong các bản văn. Nhà chú giải chỉ có thể làm được điều này nếu lao động trí thức của ông được đời sống thiêng liêng mạnh mẽ nâng đỡ.
 
Thiếu sự nâng đỡ này, việc nghiên cứu chú giải vẫn không đầy đủ, bị mất mục đích chính yếu của mình và chỉ còn luẩn quẩn trong những nhiệm vụ thứ yếu. Công việc này thậm chí có thể trở thành một thứ trốn tránh nữa. Nghiên cứu khoa học chỉ những khía cạnh nhân loại của các bản văn mà thôi có thể khiến cho quên rằng Lời Thiên Chúa đang mời gọi mỗi người ra khỏi chính mình để sống trong đức tin và đức ái.
 
Về vấn đề này, thông điệp Providentissimus Deus đã nhắc lại tính chất đặc biệt của các Sách Thánh và đòi hỏi phát xuất từ tính chất đó đối với việc giải thích. Thông điệp viết : “Không thể đồng hoá các Sách Thánh với các sách thông thường. Nhưng vì các Sách Thánh đã được chính Thánh Thần đọc cho và mang những nội dung cực kỳ nghiêm trọng, nhiệm mầu và khó về nhiều phương diện, nên muốn hiểu và cắt nghĩa, chúng ta luôn cần cùng một Thánh Thần đó ngự đến, nghĩa là cần ánh sáng và ân sủng của Người, một điều mà chắc chắn phải nài xin bằng một thái độ cầu nguyện khiêm tốn và phải duy trì bằng một đời sống thánh thiện” (EB, số 89). Divino afflante Spiritu diễn tả cùng yêu cầu đó bằng công thức vắn hơn, mượn của thánh Augustinô : “ Cầu nguyện để hiểu” (EB, số 569).
 
Đúng vậy, muốn đi tới chỗ giải thích những lời được Thánh Thần linh hứng cho có giá trị đầy đủ, thì chính mình phải được Thánh Thần hướng dẫn và, để được như vậy, phải cầu nguyện, cầu nguyện thật nhiều. Trong khi cầu nguyện, phải xin Thánh Thần ban cho ánh sáng nội tâm và phải đón nhận ánh sáng này với thái độ ngoan ngoãn, phải xin lòng yêu mến, điều duy nhất có khả năng giúp cho hiểu được ngôn ngữ của Thiên Chúa, Đấng “là tình yêu” (1 Ga 4,8.16). Chính trong lúc giải thích, phải hết sức giữ cho mình luôn hiện diện trước tôn nhan Thiên Chúa.
 
10. (Nghiên cứu trong lòng trung thành với Hội Thánh). Thái độ ngoan ngoãn vâng phục Thánh Thần sẽ phát sinh và củng cố một thái độ khác, cần để định hướng đúng công việc chú giải : đó là lòng trung thành với Hội Thánh. Nhà chú giải công giáo không nuôi ảo tưởng cá nhân chủ nghĩa, dẫn đến chỗ tin rằng : ngoài cộng đoàn tín hữu, ta có thể hiểu các bản văn Kinh Thánh rõ hơn. Ngược lại mới đúng, vì các bản văn này không được trao cho các nhà nghiên cứu để họ tìm hiểu riêng tư, “nhằm thoả mãn tính tò mò hay để có đề tài học hỏi và nghiên cứu” (Divino afflante Spiritu, EB, số 566).Nhưng các bản văn này đã được uỷ thác cho cộng đoàn tín hữu, cho Hội Thánh, để nuôi dưỡng đức tin và hướng dẫn đời sống đức ái. Tôn trọng cùng đích này là điều kiện để giải thích đúng cách. Providentissimus Deus đã nhắc lại chân lý nền tảng này và nhận định rằng : thay vì gây trở ngại, việc tôn trọng dữ kiện này tạo thuận lợi cho tiến bộ đích thực trong việc nghiên cứu Kinh Thánh (x. EB, số 108-109). Thật đáng khích lệ khi nhận thấy những nghiên cứu gần đây của triết học giải thích đã xác nhận cách nhìn này, cũng như các nhà chú giải thuộc nhiều hệ phái khác nhau đã làm việc theo những nhãn giới tương tự, ví dụ, bằng cách nhấn mạnh đến sự cần thiết phải giải thích mỗi bản văn Kinh Thánh như là thành phần của Thư Qui Sách Thánh được Hội Thánh nhìn nhận, hoặc bằng cách chú ý tới các đóng góp của chú giải giáo phu hơn.
 
Thực vậy, trung thành với Hội Thánh là cương quyết đặt mình vào trong dòng Truyền Thống vĩ đại, một Truyền Thống, dưới sự hướng dẫn của Huấn Quyền, được sự trợ giúp đặc biệt của Thánh Thần, đã nhìn nhận các sách thuộc Thư Qui là lời Thiên Chúa ngỏ với dân Người, đồng thời không bao giờ ngừng suy niệm các lời ấy và khám phá ra sự phong phú vô tận của các sách này. Công Đồng Vaticanô II còn khẳng định : “Mọi điều liên quan đến cách thức giải thích Kinh Thánh, cuối cùng, đều phải tuân phục phán quyết của Hội Thánh, vì Hội Thánh thi hành tác vụ và sự uỷ nhiệm đã được Thiên Chúa giao cho là gìn giữ và giải thích Lời Thiên Chúa” (Dei Verbum, số 12).
 
Hơn nữa, Công Đồng còn xác định thêm điều này bằng cách lặp lại một quả quyết của Providentissimus Deus : “Nhiệm vụ của các nhà chú giải là nỗ lực thấu triệt và trình bày ý nghĩa Kinh Thánh sâu hơn, để cho những nghiên cứu của họ, một cách nào đó, trở thành những chuẩn bị, giúp phán quyết của Hội Thánh được chín chắn” (Dei Verbum, số 12; x. Providentissimus Deus, EB, số 109).
 
11. (Đừng tách rời nghiên cứu khỏi mục vụ). Để hoàn thành tốt hơn nữa nhiệm vụ rất quan trọng này của Hội Thánh, các nhà chú giải phải lưu tâm gần gũi với việc giảng thuyết Lời Thiên Chúa, hoặc bằng cách dành một phần thời gian của mình để thi hành tác vụ này, hoặc bằng cách duy trì những mối liên hệ với những người đang thi hành tác vụ này và giúp đỡ họ bằng các sách báo chú giải theo hướng mục vụ (x. Divino afflante Spiritu, EB, số 551). Như thế, họ sẽ tránh khỏi lạc hướng trong những rắc rối phức tạp của một nghiên cứu khoa học trừu tượng có thể làm họ xa ý nghĩa đích thực của Sách Thánh. Thực vậy, không thể tách rời hướng đi này khỏi mục tiêu họ đang theo đuổi là giúp các tín hữu có được tương quan bản thân với Thiên Chúa.
 

III. VĂN KIỆN MỚI CỦA UỶ BAN KINH THÁNH

 
12. Theo những viễn tượng này, Providentissimus Deus đã quả quyết, “một lãnh vực nghiên cứu bao la được mở ra chờ đón cố gắng cá nhân của mỗi nhà chú giải” (EB, số 109). Năm mươi năm sau, Divino afflante Spiritu lặp lại y nguyên lời khích lệ trên bằng những từ ngữ khác : “Còn nhiều điểm, một số điểm rất quan trọng đang chờ đợi trí sắc sảo và tài năng của các nhà chú giải công giáo có thể và phải tự do bàn luận hay giải thích” (EB, số 565).
 
Điều đã đúng ở năm 1943 vẫn còn đúng cho thời đại chúng ta hôm nay, vì sự tiến bộ của các công trình nghiên cứu đã giúp giải đáp một số vấn đề, nhưng đồng thời đặt ra những vấn đề mới cần phải nghiên cứu. Trong khoa chú giải cũng như trong các khoa học khác, ta càng đẩy lùi được những giới hạn của những gì chưa biết, ta lại càng mở rộng lãnh vực cần khai thác hơn. Divino afflante Spiritu công bố chưa được năm năm, thì việc khám phá những văn kiện Qumrân đã mở ra một thời đại mới cho một số lớn những vấn đề Kinh Thánh và mở ra những lãnh vực nghiên cứu khác. Kể từ đó, nhiều khám phá mới đã được thực hiện, nhiều phương pháp tìm tòi và phân tích mới đã được hoàn chỉnh.
 
13. Chính sự thay đổi hoàn cảnh này khiến cho cần phải xem xét lại các vấn đề. Uỷ Ban Kinh Thánh Giáo Hoàng đã đảm nhận nhiệm vụ đó, và hôm nay giới thiệu kết quả công việc của mình, đó là văn kiện mang tựa đề Việc Giải Thích Kinh Thánh Trong Hội Thánh.
 
Điều gây ấn tượng mạnh cho chúng ta khi thoạt đọc văn kiện này, chính là tinh thần cởi mở. Những phương pháp, những lối tiếp cận, những cách đọc ngày nay đang được sử dụng trong khoa chú giải đều được xem xét. Và mặc dù cần phải nêu lên một vài dè dặt đôi khi nghiêm trọng, văn kiện vẫn nhận rằng, trong hầu như mỗi phương cách, đều có những yếu tố hữu ích giúp giải thích trọn vẹn bản văn Kinh Thánh.
 
Chú giải công giáo không có một phương pháp giải thích nào riêng và độc chiếm, nhưng khi bắt đầu từ nền tảng của phương pháp phê bình-lịch sử, giải gỡ đi những tiên kiến triết học hay những gì khác nghịch với chân lý đức tin của chúng ta, chú giải công giáo lợi dụng tối đa mọi phương pháp hiện hành, bằng cách tìm kiếm “hạt giống của Lời” trong mỗi phương pháp đó.
 
14. Một nét đặc sắc khác của tổng hợp này là tính cách quân bình và dung hoà. Khi giải thích Kinh Thánh, lối chú giải công giáo tìm cách hoà hợp hướng xuyên thời gian với đồng thời gian (diachronie và synchronie)*, khi nhìn nhận rằng cả hai hướng này bổ túc lẫn nhau và cả hai đều không thể thiếu để làm cho chân lý của bản văn hiện lên, cũng như để thoả mãn những yêu cầu chính đáng của độc giả hiện đại.
 
Quan trọng hơn nữa, chú giải công giáo không chỉ tập trung chú ý vào những khía cạnh nhân loại của mặc khải Kinh Thánh, đó là khuyết điểm thỉnh thoảng phương pháp phê bình-lịch sử mắc phải, hay vào các khía cạnh thần linh như lập trường bảo thủ (fondamentalisme) chủ trương. Chú giải công giáo cố gắng làm nổi bật cả hai, được kết hợp trong sự “hạ mình” của Thiên Chúa (Dei Verbum, số 13) là nền tảng của toàn thể Sách Thánh.
 
15. (Lời Thiên Chúa trong hiện tại). Cuối cùng, ta có thể nhận thấy văn kiện nhấn mạnh đến sự kiện Lời trong Kinh Thánh hiện đang ngỏ với mọi người trong nhân loại, thuộc mọi thời gian và không gian. Nếu “những Lời của Thiên Chúa... đã trở nên giống ngôn ngữ loài người” (Dei Verbum, số 13), chính là để mọi người có thể nghe và hiểu được. Những lời này không được ở xa, “vượt quá sức lực hay ngoài tầm tay anh em... vì Lời ở rất gần anh em, ngay trong miệng, trong lòng anh em, để anh em đem ra thực hành” (Đnl 30,11.14).
 
Đó chính là mục đích của việc giải thích Kinh Thánh. Nếu nhiệm vụ đầu tiên của khoa chú giải là đạt tới ý nghĩa đích thực của bản văn thánh hoặc cả các nghĩa khác nữa, thì nhiệm vụ sau đó là phải thông truyền ý nghĩa này cho độc giả Sách Thánh, cho mỗi con người nếu có thể.
 
Kinh Thánh có ảnh hưởng trong suốt các thế kỷ. Tiến trình thường xuyên hiện tại hoá là nhằm thích nghi việc giải thích Kinh Thánh cho phù hợp với não trạng và ngôn ngữ đương thời. Đặc tính cụ thể và trực tiếp của ngôn ngữ Kinh Thánh giúp cho việc thích nghi này được dễ dàng rất nhiều, nhưng việc ngôn ngữ Kinh Thánh bắt nguồn trong một nền văn hoá cổ gây ra nhiều khó khăn. Vì thế, chúng ta phải không ngừng chuyển dịch lại tư tưởng Kinh Thánh sang ngôn ngữ đương thời, để Kinh Thánh được diễn tả theo những cách thế thích hợp với thính giả. Tuy nhiên, bản dịch này phải trung thành với nguyên bản và không được ép các bản văn phải hợp với một cách đọc hay một cách tiếp cận đang thịnh hành trong một thời điểm nhất định. Phải làm sao để Lời Chúa xuất hiện trong tất cả vẻ huy hoàng chói lọi, cho dù Lời này “được diễn tả bằng tiếng nói của loài người” (Dei Verbum, số 13).
 
Ngày nay, Kinh Thánh đã được phổ biến trên khắp mọi lục địa và mọi quốc gia. Nhưng muốn cho Kinh Thánh đạt hiệu quả sâu xa, cần phải có một sự hội nhập văn hoá tuỳ theo đặc tính riêng của từng dân tộc. Có thể các dân tộc ít bị ảnh hưởng những sai chệch của văn minh phương tây hiện đại sẽ hiểu sứ điệp Kinh Thánh dễ dàng hơn những dân tộc đã trở nên gần như lãnh đạm đối với tác động của Lời Thiên Chúa, vì trào lưu tục hoá và những thái quá của trào lưu giải trừ huyền thoại.
 
Thời đại chúng ta cần có một nỗ lực lớn lao, không chỉ về phía các học giả và những nhà giảng thuyết, nhưng cả phía những người đang làm cho tư tưởng Kinh Thánh đến được với quảng đại quần chúng : họ phải sử dụng mọi phương tiện có thể có được - ngày nay có rất nhiều - để làm cho tầm mức phổ quát của sứ điệp Kinh Thánh được nhận biết rộng rãi và hiệu năng cứu độ của Kinh Thánh có thể bộc lộ ở khắp mọi nơi.
 
Nhờ văn kiện này, việc giải thích Kinh Thánh trong Hội Thánh có thể có được một đà tiến mới để phục vụ lợi ích của toàn thế giới, để làm cho chân lý rạng ngời và tôn dương đức ái trước thềm Thiên niên kỷ thứ ba.
 

KẾT LUẬN

 
16. Cuối cùng, cũng như các vị tiền nhiệm của tôi là Đức Lêô XIII và Đức Piô XII, tôi vui mừng gửi đến các nhà chú giải công giáo và, đặc biệt, đến quí vị thành viên của Uỷ Ban Kinh Thánh, những lời cám ơn cũng như những lời khích lệ.
 
(Cám ơn). Tôi xin hết lòng cám ơn quí vị về công trình tuyệt vời quí vị thực hiện để phục vụ Lời Thiên Chúa và Dân Thiên Chúa : việc nghiên cứu, giảng dạy và phổ biến, việc trợ giúp cho thần học, phụng vụ và tác vụ giảng thuyết, những sáng kiến cổ võ việc đại kết và các mối quan hệ tốt đẹp giữa các Ki-tô hữu và người Do-thái, việc tham gia vào nỗ lực của Hội Thánh nhằm trả lời cho những khát vọng và những khó khăn của thế giới hôm nay.
 
(Khích lệ). Tôi xin thêm vào đó những lời khích lệ nồng nhiệt cho giai đoạn mới sắp tới. Nhiệm vụ ngày càng phức tạp đòi hỏi mọi người phải nỗ lực và phải có sự cộng tác rộng rãi của nhiều ngành. Trong một thế giới mà việc nghiên cứu khoa học có tầm quan trọng đáng kể trong nhiều lãnh vực, khoa chú giải nhất thiết cũng phải đạt tới một mức độ tương xứng. Đây là một trong những phương diện của việc hội nhập văn hoá đức tin, là thành phần của sứ vụ Hội Thánh, liên kết với việc đón nhận mầu nhiệm Nhập Thể.
 
(Cầu xin). Xin Đức Kitô Giêsu, Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, hướng dẫn quí vị trong những công việc nghiên cứu của quí vị, chính Người là Đấng đã mở trí cho các môn đệ của Người am hiểu Sách Thánh (Lc 24,45). Ước chi Đức Trinh Nữ Maria là khuôn mẫu cho anh em, không chỉ qua thái độ vâng phục quảng đại đối với Lời của Thiên Chúa, nhưng còn đặc biệt qua cách thức Mẹ đón nhận những gì được nói với mình. Thánh Luca thuật lại cho chúng ta rằng Đức Maria để tâm suy niệm những lời của Thiên Chúa và những biến cố đã được hoàn tất, “symballousa en tê kardia autês” (“suy đi nghĩ lại trong lòng”, Lc 2,19). Qua việc đón nhận Lời, Mẹ là khuôn mẫu và là Mẹ của các môn đệ (x. Ga 19,27). Vì thế, xin Mẹ dạy quí vị biết đón nhận trọn vẹn Lời Thiên Chúa, không chỉ bằng công việc nghiên cứu trí thức, nhưng còn bằng toàn thể đời sống của quí vị.
 
Để công việc và hoạt động của quí vị ngày càng góp phần làm cho ánh sáng của Kinh Thánh rạng ngời hơn, tôi xin gửi đến quí vị Phép Lành Toà Thánh.
 

 ---------------------------------------------------------
 


LỜI NÓI ĐẦU VĂN KIỆN
CỦA UỶ BAN KINH THÁNH



Việc nghiên cứu Kinh Thánh ví được như hồn của thần học. Đó là điều Công Đồng Vaticanô II (Dei Verbum, số 24) đã nói khi mượn lại lời của Đức Giáo Hoàng Lêô XIII. Việc nghiên cứu này vẫn chưa kết thúc. Mỗi thời lại phải theo cách của mình mà cố gắng tìm hiểu Sách Thánh. Trong lịch sử giải thích, sự xuất hiện phương pháp phê bình-lịch sử đã đánh dấu bước đầu của một kỷ nguyên mới. Nhờ phương pháp này, nhiều khả năng mới giúp hiểu bản văn Kinh Thánh theo ý nghĩa nguyên thuỷ đã được khai mở. Nhưng cũng như tất cả những gì của con người, phương pháp này có những khả năng tích cực và cũng kèm theo một số nguy cơ. Việc tìm hiểu ý nghĩa nguyên thuỷ có thể dẫn đến chỗ đẩy Lời Thiên Chúa hoàn toàn lùi về quá khứ, đến nỗi không còn nhận thấy tầm quan trọng của Lời Thiên Chúa trong hiện tại nữa. Việc tìm kiếm ý nghĩa nguyên thuỷ có thể dẫn đến chỗ chỉ nhằm làm cho chiều kích nhân loại của Lời xuất hiện như là cái gì thực hữu, còn tác giả đích thực là Thiên Chúa thì lại vượt khỏi tầm với của phương pháp, vốn đã được khai triển nhằm tìm hiểu những thực tại thuộc về con người. Ứng dụng một phương pháp “đời” vào Kinh Thánh tất nhiên đưa đến tranh luận.
 
Tất cả những gì giúp hiểu chân lý rõ hơn và giúp trình bày tư tưởng cho thích đáng đều đóng góp cho thần học một giá trị đáng kể. Theo chiều hướng đóù, sử dụng phương pháp phê bình-lịch sử để nghiên cứu thần học là điều chính đáng. Nhưng cần phải loại bỏ tất cả những gì thu hẹp cái nhìn của chúng ta và ngăn không cho chúng ta nhìn và nghe những điều vượt quá những gì thuần tuý nhân loại, để luôn giữ được tinh thần cởi mở. Chính vì thế khi phương pháp phê bình-lịch sử xuất hiện, lập tức nảy sinh một sự tranh luận về lợi ích và hình dạng riêng của phương pháp này. Cuộc tranh luận vẫn chưa kết thúc.
 
Trong cuộc tranh luận này, Huấn Quyền của Hội Thánh công giáo đã hơn một lần xác định lập trường qua những văn kiện quan trọng. Trước hết, Đức Giáo Hoàng Lêô XIII đã ấn định một số cột mốc xác định hướng đi cho khoa chú giải, qua thông điệp Providentissimus Deus, ngày 18 tháng mười một 1893. Vào thời đại chủ nghĩa tự do tỏ ra cực kỳ tự tín đến độ trở thành giáo điều, Đức Lêô XIII đã trình bày nặng về tính cách phê bình, nhưng không vì thế mà loại trừ khía cạnh tích cực của những khả năng mới. Năm mươi năm sau, nhờ nỗ lực làm việc phong phú của những nhà chú giải công giáo có tầm cỡ, Đức Piô XII đã có thể dành vị trí nhiều hơn cho việc khích lệ, và trong thông điệp Divino Afflante Spiritu ngày 30 tháng chín 1943, người mời gọi làm sao cho những phương pháp hiện đại giúp hiểu Kinh Thánh được sinh hoa kết quả. Hiến chế của Công Đồng Vaticanô II về Mạc khải của Thiên Chúa, Dei Verbum, ngày 18 tháng mười một 1965, đã lập lại tất cả những điểm trên. Khi nối kết những quan điểm thường hằng của thần học giáo phụ với những kiến thức mới, có phương pháp, của các tác giả hiện đại, Hiến chế đã cho chúng ta một tổng hợp có uy tín và chắc chắn.
 
Từ đó tới nay, có cả một loạt những phương pháp nghiên cứu chú giải được mở ra, ba mươi năm về trước người ta không thể lường được. Những phương pháp mới và những lối tiếp cận mới được đề nghị, từ lối giải thích theo cấu trúc học cho tới lối chú giải duy vật, phân tâm và giải phóng. Bên cạnh đó, lại có những cố gắng mới, nhằm phục hồi giá trị của những phương pháp chú giải theo khuynh hướng giáo phụ,ï và mở đường cho những hình thức mới, giải thích K

Các tin khác

VIDEO

  Bài 2: HIỆP HÀNH: Hiệp Thông - Tham Gia - Sứ Vụ | Thường huấn linh mục GP Ban Mê Thuột 2023

  Bài 1: Tầm Nhìn Hoàn Vũ | Thường huấn linh mục GP Ban Mê Thuột 2023

  ĐỨC TIN | Tròn Đầy & Trong Sáng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh

  Mục Vụ Văn Hóa: DANH - LỢI - NGHĨA | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh

  Cử Hành Phụng Vụ | Gặp Gỡ Chúa Kitô - Loan Báo Tin Mừng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn văn Hinh

  Thần Học Mục Vụ & Công đồng Vatican II: Con người - Giáo hội - Môi trường

  Hiệp Hành Hội Ý Dựng lại Mùa Xuân | Người Giáo dân Thiên niên kỷ mới

  Bài 4: Văn Hóa Tổ Chức - Đời Sống Cá Nhân

  Hiệp Hành Kín Đáo và Minh Bạch

  Văn Hóa Tổ Chức - Tổ Chức Cộng Đồng | Lm Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh (Phần 3)

  Tìm hiểu về văn hóa (Phần 2) - Lm Gioan Kim Nguyễn Văn Hinh

  Tìm hiểu về văn hóa (Phần 1) - Lm Gioan Kim Nguyễn Văn Hinh

  TRỰC TUYẾN BÀI 29: MỤC VỤ THÁNH THIỆN THUẬN THEO

  TRỰC TUYẾN BÀI 28 : MỤC VỤ TÍCH HỢP VĂN HÓA ĐÔNG TÂY

  TRỰC TUYẾN BÀI 27 : MỤC VỤ LỜI CHÚA NGÀY NAY

  TRỰC TUYẾN BÀI : TÌM HIỂU VỀ VĂN HÓA VÀ BẢN SẮC VĂN HÓA VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 26: MỤC VỤ ĐẠO ĐỨC KINH TẾ DỊCH VỤ

  TRỰC TUYẾN BÀI 25: MỤC VỤ TUẦN THÁNH UY VÀ ĐỨC

  TRỰC TUYẾN BÀI 24: MỤC VỤ GIA TÀI CỦA MẸ

  TRỰC TUYẾN BÀI 23: MỤC VỤ BỔ VÀ TẢ

  mvgd20162016

  TRỰC TUYẾN BÀI 21: MỤC VỤ LUẬT CÂN BẰNG

  TRỰC TUYẾN BÀI 20: TRUY TÌM MÃNH LỰC

  TRỰC TUYẾN BÀI 19: THẾ GIỚI HÔM NAY CẦN NHỮNG NGƯỜI CHA NHÂN HẬU LÝ TƯỞNG VÀ THỰC TIỄN

  TRỰC TUYẾN BÀI 18: NĂM THÁNH THÁNH CẢ GIUSE LÃNH ĐẠO VÀ NIỀM TIN

  TRỰC TUYẾN BÀI 17: MỪNG XUÂN TÂN SỬU 2021 - LÒNG BIẾT ƠN TIN VUI ĐẠO ĐỨC VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 17: MỪNG XUÂN TÂN SỬU 2021 - LÒNG BIẾT ƠN TIN VUI ĐẠO ĐỨC VIỆT NAM

  TRỰC TUYẾN BÀI 16: ĐỀ TÀI ĐIỂM TỰA

  TRỰC TUYẾN BÀI 14: VĂN HÓA KHÔNG NHẬN SAI NHƯNG SỬA SAI

  TRỰC TUYẾN BÀI 13: VUN TRỒNG NỀN VĂN HÓA “TÂM LINH – KHOA HỌC”

  TRỰC TUYẾN BÀI 12: NĂM MỚI 2021 XÂY DỰNG NỀN VĂN MINH TÂM LINH & KHOA HỌC

  TRỰC TUYẾN BÀI 11: GIÁNG SINH 2020 - LÀM NGƯỜi - GIÊSU

  TRỰC TUYẾN BÀI 10: PHÍA ĐẰNG SAU TÂM LINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 9: ĐỂ CÓ CHÚA THÁNH THẦN

  TRỰC TUYẾN BÀI 8: LOAN BÁO TIN MỪNG

  TRỰC TUYẾN BÀI 7: PHÒNG ĐÀO LUYỆN TÂM LINH CỦA TÍN HỮU DÂN CHÚA

  TRỰC TUYẾN BÀI 6: ĐÀO LUYỆN TÍN HỮU DÂN CHÚA

  TRỰC TUYẾN BÀI 5: TẦM NHÌN THIÊN NIÊN KỶ MỚI

  TRỰC TUYẾN BÀI 4: ĐÀO LUYỆN TÂM LINH BẮT ĐẦU TỪ THÁNH THỂ HAY THÁNH KINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 3: PHƯƠNG THỨC CẦU NGUYỆN CẢM NGHIỆM- SỐNG THÁNH GIỮA ĐỜI

  TRỰC TUYẾN: BÀI 2: GIẢI THÍCH ĐÀO LUYỆN TÂM LINH

  TRỰC TUYẾN BÀI 1: ĐÀO LUYỆN TÂM LINH

  TintucVatican

  Thánh Lễ Tuyên Thánh Jacinta và Francisco Marto

  Muối và ánh sáng

  Thế Giới Nhìn Từ Vatican

  Nghi thức đóng Cửa Thánh

  Xin Mẹ Thương

  Thế Giới Nhìn Từ Vatican

  Suy Niệm với Đức Thánh Cha Phanxicô

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__3

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__1

  Thường huấn HĐMVGX Giáo hạt Rach Giá 2014__2

  Thường huấn HĐMVGX Ban Mê Thuật

  Quốc tế thiếu nhi 01-6-2014

  Thể dục Dưỡng Sinh

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  Mục vụ Thể chất

  CƠM TRƯA TRUNG THU 2013

  Thi đấu thăng cấp sơ đẳng Vovinam

  Khai mạc kỳ thi thăng cấp Vovinam

  Vovinam

  Đào luyện tâm linh

  Nghệ thuật cân bằng

  Đào Luyện Tinh Thần

  Đào Luyện Thể Chất

Bài viết mới
Mười hai lời khuyên của Đức Thánh Cha Phanxicô để trở thành người cừ khôi trong việc loan báo Tin Mừng
Mười hai lời khuyên của Đức Thánh Cha Phanxicô để trở thành người ...
Công bố tự truyện của Đức Thánh Cha Phanxicô
Công bố tự truyện của Đức Thánh Cha Phanxicô
Người dân Ai Len bỏ phiếu chống đề xuất sửa đổi định nghĩa về gia đình trong hiến pháp
Người dân Ai Len bỏ phiếu chống đề xuất sửa đổi định nghĩa ...
Mười một năm Giáo hoàng của Đức Thánh Cha Phanxicô
Mười một năm Giáo hoàng của Đức Thánh Cha Phanxicô