Đổi Mới Lãnh Đạo
Theo Tinh Thần Công Đồng Vatican II
Công Ðồng không mang lại một tín điều nào mới. Thế nhưng, trong những văn kiện đã công bố, Công Ðồng tạo được một đặc điểm độc đáo khi nỗ lực xác định rõ một số khía cạnh của kho tàng chân lý. Ở đây chỉ nêu lên một vài nét điển hình cho đặc điểm này, có liên quan tới sự nghiệp đổi mới.
Trước hết Công Ðồng khởi đi từ ý nghĩa về con người, quan điểm về thế giới về Giáo Hội và các vấn đề trọng yếu có liên quan tới mầu nhiệm Giáo Hội. Sau đó Công Đồng đặc biệt trình bày một nền thần học về Chúa Thánh Thần, mà từ lâu hầu như bị lãng quên trong Giáo Hội Tây Phương. Chúa Thánh Thần nguồn đổi mới để Loan Báo Tin Mừng cứu độ.
Trước hết Công Ðồng đề cập đến con người dưới mọi khía cạnh.[1] Con người được cấu tạo duy nhất với xác và hồn. Thân xác là phần bản thể của thực tại duy nhất là con người. Con người không gồm có hai phần: xác và hồn, nhưng con người là xác và hồn. Nói theo công thức khôn ngoan mục vụ của Giáo Hội: “cả xác cả hồn.” Chúng ta còn có thể nói con người là thân xác này: bởi vì nếu chưa có hồn thì cũng chưa phải là thân xác này, mà chỉ là một đống vật chất chưa thành thể.[2]
Con người có phẩm giá rất thiêng liêng nhưng bị tội lỗi làm tổn thương, có cùng đích cao siêu nhưng phải vượt qua nhiều ngăn trở, đã nỗ lực để xây dựng văn minh tốt đẹp nhưng một phần lớn vẫn còn chủ trương vô thần. "Giáo Hội một phần nào đó đã tự xưng là tôi tớ của loài người", bởi vì chúng ta "có thể quả quyết rằng chúng ta phải biết con người nếu muốn biết Thiên Chúa". Và "Không ai có thể quả quyết rằng đạo Công Giáo là vô ích, khi nhận thấy rằng Giáo Hội, nhân dịp tự ý thức về mình nhiều nhất và có hiệu lực lớn nhất, tức là khi tập họp lại trong Công Ðồng, đã biểu thị rõ ràng Giáo Hội chỉ vì con người mà có..."[3]
Điều này dẫn chúng ta tới công việc đào luyện người tín hữu giáo dân, hướng kết hợp giữa linh đạo và mục vụ và mở ra hướng phục vụ con người cả hồn cả xác; cả vật chất cả tinh thần; cả đời này cả đời sau trong cơ chế mục vụ giáo xứ sau này.
Tiếp theo, Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay nói về thế giới, một thế giới phải được con người xây dựng. Vì thế giới là toàn thể thực tại do Thiên Chúa tạo nên, trong đó nhân loại là trung tâm điểm và có nhiệm vụ phát triển thế giới.
Thế giới tức là thực tại thế tục có giá trị và những qui luật riêng biệt của nó. Ðàng khác mọi giá trị và qui luật ấy đều phải phục dịch chính con người toàn diện, do đó phải thích hợp với luân lý và tôn giáo. Chính lịch sử do con người tạo nên, nhưng lịch sử hướng về Chúa Kitô là trung tâm điểm và là cùng đích![4]
Trong Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay "có lẽ chưa bao giờ Giáo Hội đã nhận thấy cần phải tìm hiểu xã hội loài người chung quanh như hiện nay để tới gần nó, tôn trọng nó một cách chính đáng, nhập vào nó, phục vụ và trao cho nó sứ điệp Phúc Âm.
Hơn nữa, dường như Giáo Hội ưa thích và chiều chuộng nó một phần nào đó, trong khi nó vẫn đang thay đổi mau chóng và không ngừng".1 Tuy nhiên, sứ điệp Kitô giáo không cho phép con người trốn tránh việc xây dựng thế giới, trái lại còn cho thấy đó là một bổn phận thúc bách.[5] Là công dân thế giới, các Kitô hữu phải góp phần xây dựng một cộng đoàn quốc tế, cộng tác vào việc xây dựng và quản trị trật tự trần thế với những người theo đuổi cùng một mục tiêu.[6]
Nhờ các Kitô hữu, thế giới thấm nhuần tinh thần Đức Kitô sẽ đạt đến cùng đích cách hữu hiệu hơn trong công lý, bác ái và hòa bình.[7] Sinh lực mà Giáo Hội có thể chuyển thông cho xã hội ngày nay là Đức Tin và Đức Mến.[8]
Nguyên bằng sự hiện diện của mình, Giáo Hội đã là nguồn năng lực vô tận mà thế giới đang cần đến. Chính Giáo Hội bày tỏ cho thế giới thấy sự hiệp nhất của mình. Các Kitô hữu càng hiệp nhất, đó càng là một điềm tiên báo sự hiệp nhất và hòa bình cho toàn thế giới.[9]
Mối bận tâm này đã làm cho Hội thánh chú ý nhiều hơn đến cách cảm nghĩ của người hiện đại, và cố gắng tìm hiểu họ ngay chính trong những khát vọng, phấn khởi cùng băn khoăn xao xuyến của họ, với niềm cảm thông, gần gũi. Vì vậy, Công Ðồng đã thúc đẩy người công giáo phải hòa mình với người khác: "Muốn làm chứng cho Chúa một cách hữu hiệu, tín hữu phải lấy lòng thương yêu trọng kính kết hiệp với mọi người, coi mình là thành phần trong xã hội, tham dự vào đời sống văn hóa, xã hội, nhờ những cuộc trao đổi và hiệp thương với nhau".[10]
Tiếp đến, về mầu nhiệm Giáo Hội và các vấn đề trọng yếu có liên quan tới mầu nhiệm Giáo Hội. Mầu nhiệm này bắt nguồn từ đời sống Ba Ngôi Thiên Chúa.[11] Trước hết nó mang tính chất đối thoại. Ðối thoại chân thành và cởi mở với mọi thực tại thụ tạo, trong đó ý định cứu rỗi của Thiên Chúa được hoàn tất. Giáo Hội không thể chỉ tự giải thích về bản chất của mình, nhưng còn cần phải tự đả thông với người khác: với các Kitô hữu không công giáo và với một thế giới thờ ơ với ơn cứu rỗi.
Tuy nhiên, cuộc đối thoại - dù cần thiết - cũng không thể tự hạn chế vào việc thông cảm đơn thuần nhằm mục đích hiểu biết. Nhưng Giáo Hội còn phải đi sâu vào những nguyện vọng của mọi người. Giáo Hội phải hiện diện với mọi thực tại và với những nỗ lực của mọi người để làm cho xã hội nên tốt đẹp hơn.
Bởi vậy, khoa Giáo hội học cũng mang tính chất nhập thể vì Giáo Hội hiện diện sống động theo kiểu Chúa Kitô, hầu có thể cứu chuộc thế giới. Muốn thế, cần phải có sự canh tân tận bên trong, phải cải tổ cơ cấu, phải mở rộng tới những cách thức hiện hữu mới, mà không làm Giáo Hội mất sự canh tân và cải tổ. Khuynh hướng cải tổ, tuy đôi khi đi đến tận căn và thái quá, nhưng nói chung vẫn có giới hạn chính đáng, rõ ràng, theo câu châm ngôn cổ truyền: "Giáo Hội phải được cải tổ không ngừng". Khuynh hướng cải tổ trong khoa Giáo hội học nói lên một tính chất tiêu biểu khác: tính chất hiệp thông. Giáo Hội phải là trung tâm hiệp thông nhân loại trong các hoạt động thế tục cũng như trong các hoạt động tôn giáo. Bởi vậy, Giáo Hội như là bí tích tạo nên sự hiệp thông ấy.[12]
Sau cùng về vai trò Thánh Thần trong chương trình cứu rỗi với tương quan Ba Ngôi Thiên Chúa. Thiên Chúa Chúa Cha đã ban Thánh Thần.[13] Chúa Thánh Thần giúp ta tới gần Chúa Cha.[14] Làm cho ta gọi Chúa là “Abba, Cha”.[15] Ngài chứng thực ta là con Chúa.[16] Đức Kitô ban, gởi, đổ tràn và thông truyền Thánh Thần.[17] Ngài hoàn tất công trình cứu độ của Ngài khi sai Thánh Thần đến.[18]
Từ nay, Đức Kitô hoạt động trong tâm hồn mọi người nhờ quyền năng của Thánh Thần.[19] Ngài dẫn dắt con người đến sự viên mãn của chân lý; làm ta nếm thử màu mhiệm thánh ý Thiên Chúa.
Nhiều Giáo Phụ so sánh nhiệm vụ của Thánh Thần với nhiệm vụ của linh hồn là nguyên lý sự sống nơi thân xác con người. Thánh Thần đổ tràn đức ái trong các tâm hồn, cũng như hoa trái của ân sủng. Ngài là nguyên lý tái sinh, biến con người thành một thụ tạo mới, sinh họ ra để sống đời sống mới, và chứng thực được Chúa nhận làm con.[20]
Chúa Thánh Thần với Giáo Hội. Ngài làm sống động thân thể mầu nhiệm và hoàn thành Giáo Hội. Ngài ban phát các ân sủng tuỳ theo nhu cầu của Giáo Hội, và biến đổi Giáo Hội thành cộng đoàn hiệp thông huynh đệ. Ngài thúc đẩy việc mở rộng Giáo Hội và giúp Giáo Hội tự canh tân, tự thánh hóa, cập nhật hóa, để được trẻ trung mãi, hướng dẫn Giáo Hội học hỏi ngôn ngữ thời đại, tự bảo trì và tiến triển trong đức tin. Thánh thần hằng duy trì thể thức cai quản do Đức Kitô thiết lập, củng cố và làm sống động cơ cấu tổ chức này. Ngài hỗ trợ Huấn Quyền để thánh hóa Dân Thiên Chúa, và linh ứng các ngài để chọn lựa các thừa tác viên.[21]
Trên đây là những đặc điểm nói theo cách mới của Công đồng Vat. II, có liên quan tới ứng dụng tổ chức mục vụ, đặc biệt là trong môi trường xứ đạo. Quả thực, "Ðối với người Việt Nam chúng ta, nhiều vấn đề có lẽ còn quá mới mẻ. Nhưng hướng đi của Công Ðồng là hướng đi của lịch sử hiện đại. Hiến Chế Mục Vụ nếu được hiểu và áp dụng cho đúng mức sẽ giúp chúng ta tiết kiệm được rất nhiều thì giờ và sức lực".[22]
Lm. Gioankim Nguyễn Văn Hinh (D.Min.)
[1] Công Đồng Vat.II, MV, 3.
[2] Công Đồng Vat.II, Giáo Hội Trong thế Giới Ngày nay, 14 vàChú Thích 18*, 1.
[3] Phaolô VI, “Diễn văn nhân dịp lễ bế mạc Công Ðồng,” 8-12-1965: AAS 58 (1966), 58.
[4] Công Đồng Vat.II, Giáo Hội Trong thế Giới Ngày nay, “Lời Giới Thiệu”, Đà Lạt, 1972, 724.
[5] Ibid.,MV, 34, 57.
[6] Ibid., 40; TĐ, 16; MV, 42.
[7] Ibid., GH, 36.
[8] Ibid., MV, 42.
[9] Ibid., MV, 43, 42, 92.
[10] Ibid., Ad Gentes, 11.
[11] Ibid., Lumen Gentium, 2.
[12] Ibid., Lời Giới thiệu, Đà Lạt, 1972, 138-139.
[13] Công Đồng Vat.II, GH, 4.
[14] Ibid., 4.
[15] Ibid., PV, 6; MV, 22.
[16] Ibid., GH, 4.
[17] Ibid., 5, 7, 21, 39, 40; HN, 2; MK, 4, 17; TG 4.
[18] Ibid., MK, 17.
[19] Ibid., LM, 18; TG, 15; MV, 3, 38.
[20] Ibid., MK, 20; GH, 7, 42, 39; TG, 7; MV, 37; TG, 15; GH, 4.
[21] Công đồng Vat. II, Bản Mục Lục, Piô X Đà Lạt, 1298.
[22]Ðức Hồng Y Phaxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Giáo Hội trong Thế Giới hôm nay, Thanh Lao Công 1969, Lời giới thiệu (không mang số trang).
Các tin khác